Trong thực tiễn pháp lý, đại diện theo ủy quyền của luật sư là trường hợp một cá nhân, tổ chức ủy quyền hợp pháp cho luật sư thay mặt mình thực hiện các công việc pháp lý – như tham gia tố tụng, làm việc với cơ quan nhà nước, ký văn bản pháp lý... nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người ủy quyền.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, đây là một dạng quan hệ đại diện theo ủy quyền, trong đó người ủy quyền (thường là cá nhân hoặc pháp nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự) lập giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền để giao cho luật sư thay mặt mình thực hiện một hoặc nhiều công việc nhất định.
Như vậy, đại diện theo ủy quyền của luật sư là việc người dân giao quyền hợp pháp cho luật sư nhân danh họ tham gia vào các giao dịch hoặc thủ tục pháp lý vì lợi ích của chính người ủy quyền, giúp họ tiết kiệm thời gian, đảm bảo quyền lợi và tuân thủ đúng pháp luật.
“Điều 135. Căn cứ xác lập quyền đại diện
Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là đại diện theo pháp luật).”
- Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
- Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.
“Điều 141. Phạm vi đại diện
1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:
a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;
b) Điều lệ của pháp nhân;
c) Nội dung ủy quyền;
d) Quy định khác của pháp luật.
2. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Người đại diện phải thông báo cho bên giao dịch biết về phạm vi đại diện của mình.”
Theo Điều 141 Bộ luật Dân sự 2015, phạm vi đại diện được xác lập dựa trên một trong các căn cứ sau: quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân, nội dung ủy quyền hoặc các quy định khác của pháp luật. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định giới hạn hành vi mà người đại diện có thể thực hiện nhân danh người được đại diện.
Trường hợp phạm vi đại diện không được xác định cụ thể, người đại diện theo pháp luật vẫn có thể thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ khi có quy định khác. Bên cạnh đó, pháp luật cũng đặt ra giới hạn đối với các tình huống xung đột lợi ích, chẳng hạn người đại diện không được nhân danh người được đại diện để giao dịch với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện – trừ khi có quy định khác cho phép.
Ngoài ra, người đại diện có nghĩa vụ thông báo rõ cho bên thứ ba về phạm vi đại diện. Đây là một yêu cầu quan trọng nhằm bảo vệ sự minh bạch trong giao dịch và hạn chế rủi ro cho các bên liên quan.
Phạm vi đại diện là nền tảng bảo đảm cho việc thực hiện đại diện đúng pháp luật và phù hợp với ý chí của người được đại diện. Việc tuân thủ các quy định tại Điều 141 không chỉ giúp giao dịch dân sự được thực hiện hiệu quả, mà còn hạn chế tối đa các tranh chấp phát sinh do vượt quá phạm vi đại diện.
Chúng tôi trên mạng xã hội