Xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Chủ nhật - 25/03/2018 23:50
Quy định về tên doanh nghiệp và tên thương mại có mối quan hệ với nhau nhưng thuộc hai hệ thống văn bản tương đối độc lập. Vấn đề này làm tăng khả năng xâm phạm quyền đối với tên thương mại – một đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Khi phát hiện hành vi xâm phạm, doanh nghiệp và cơ quan có thẩm quyền cần xử lý như thế nào để đảm bảo quyền lợi doanh nghiệp, đạt mục đích quản lý đề ra?
Theo quy định tại Điều 19 Nghị định 78/2015/NĐ-CP thì: “Không được sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý của tổ chức, cá nhân đã được bảo hộ để cấu thành tên riêng của doanh nghiệp, trừ trường hợp được sự chấp thuận của chủ sở hữu tên thương mại, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đó”. Căn cứ để xác định tên doanh nghiệp (DN) xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được thực hiện theo các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT). DN phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu đặt tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (SHCN). Trường hợp tên DN xâm phạm quyền SHCN thì DN có tên vi phạm phải đăng ký đổi tên.
(i) Quyền của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp
Chủ thể quyền SHCN có quyền đề nghị Phòng Đăng ký kinh doanh (ĐKKD) yêu cầu DN có tên xâm phạm quyền SHCN phải thay đổi tên gọi cho phù hợp. Chủ thể quyền SHCN có nghĩa vụ cung cấp cho Phòng ĐKKD các tài liệu:
- Bản sao hợp lệ văn bản kết luận của cơ quan có thẩm quyền về việc sử dụng tên DN là xâm phạm quyền SHCN;
- Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý; bản trích lục Sổ đăng ký quốc gia về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ do cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp cấp; bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam do cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp cấp.
(ii) Trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh

Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ giấy tờ theo quy định, Phòng ĐKKD ra Thông báo yêu cầu DN có tên xâm phạm đổi tên DN và tiến hành thủ tục thay đổi tên trong thời hạn 02 tháng, kể từ ngày ra Thông báo. Sau thời hạn trên, nếu DN không thay đổi tên theo yêu cầu, Phòng ĐKKD thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật SHTT.
(iii) Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, theo đó áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc thay đổi tên DN hoặc buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên DN nhưng tổ chức, cá nhân vi phạm không thực hiện trong thời hạn do pháp luật quy định thì cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm thông báo cho Phòng ĐKKD để yêu cầu doanh nghiệp báo cáo giải trình theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 209 Luật Doanh nghiệp (LDN). Trường hợp doanh nghiệp không báo cáo, Phòng ĐKKD thực hiện thu hồi GCNĐKDN theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 211 LDN.
(iv) Các dạng hành vi sử dụng tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
 - Hành vi sử dụng tên doanh nghiệp trên biển hiệu, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại đang được bảo hộ cho cùng lĩnh vực kinh doanh hoặc cho lĩnh vực kinh doanh tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó (Điều 129 Luật SHTT, Điều 11 Nghị định 99/2013/NĐ-CP).

        Dạng hành vi này hiện nay rất phổ biến, các chủ DN thường biết đến tên thương mại (TM) của người khác, sau đó lấy tên TM đó đăng ký thành tên DN của mình (thông thường là những cán bộ đã từng làm việc tại các DN đó hoặc có mối quan hệ kinh doanh với các DN đó). Khi đăng ký thành lập DN, tiêu chí xác định tên trùng hay tên gây nhầm lẫn theo quy định tại LDN và Nghị định 78/2015/NĐ-CP là đánh giá cả loại hình DN và tên riêng (gồm cả thành phần mô tả về lĩnh vực kinh doanh), khác với tiêu chí đánh giá tên trùng hoặc gây nhầm lẫn đối với tên TM theo quy định của Luật SHTT và Nghị định 105/2006/NĐ-CP là chỉ đánh giá thành phần có khả năng phân biệt của thành phần tên riêng.
        Ví dụ: Công ty Cổ phần MEINFA được thành lập tại Hà Nội, kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất kìm từ năm 2000, đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ là tên TM theo quy định của pháp luật SHTT. Đến năm 2010, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại MEINFA Việt Nam được đăng ký thành lập tại Hà Nội cũng kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất kìm.
        Theo quy định của pháp luật DN thì hai tên DN nêu trên là khác nhau nên cả hai DN đều thành lập hợp pháp và đều được cấp GCNĐKDN. Theo quy định của pháp luật SHTT, mặc dù Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại MEINFA Việt Nam được đăng ký thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật DN nhưng việc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại MEINFA Việt Nam có sử dụng thành phần phân biệt là dấu hiệu “MEINFA” trong tên riêng của DN  trùng với tên TM “MEINFA” đã được bảo hộ từ năm 2000 trong cùng lĩnh vực kinh doanh sản xuất kìm trên cùng một địa bàn kinh doanh, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, nguồn gốc sản phẩm kìm, là hành vi xâm phạm quyền đối với tên TM theo quy định của pháp luật SHTT. 
Thực tế khi cấp GCNĐKDN tại cơ quan chức năng cũng chưa thể áp dụng quy định liên quan về SHCN vì rõ ràng là thiếu quá nhiều điều kiện (không có cơ sở dữ liệu chung, không có cơ sở pháp lý để xác định tên TM, khu vực kinh doanh, danh tiếng .v.v.). Việc áp dụng (nếu có thể) sẽ kéo dài thời gian thời gian thẩm định lên rất nhiều (đi ngược với tiêu chí rút gọn thời gian ĐKKD). Tuy nhiên, sự phụ thuộc giữa nhãn hiệu và tên thương mại như đã nói ở trên vẫn sẽ được áp dụng (do đã quy định trong LDN và Nghị định 78/2015/NĐ-CP) và đây là quy định mà các DN cần tính đến và tận dụng sao cho linh hoạt trong tranh chấp thương mại (kể cả với các DN nước ngoài). 
- Hành vi sử dụng tên DN trong hoạt động kinh doanh tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đang được bảo hộ cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh mang nhãn hiệu đó (Điều 129 Luật SHTT, Điều 11 Nghị định 99/2013/NĐ-CP), cụ thể:
+ Sử dụng tên DN chứa dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ do DN đó sản xuất, kinh doanh trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó.
+ Sử dụng tên DN chứa dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ.
+ Sử dụng tên DN chứa dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ.
+ Sử dụng tên DN chứa dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
- Hành vi sử dụng tên DN trên sản phẩm, hàng hóa tương tự gây nhầm lẫn với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho sản phẩm, dịch vụ cùng loại hoặc sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh (Điều 129 Luật SHTT, Điều 11 Nghị định 99/2013/NĐ-CP.
- Hành vi gắn chỉ dẫn thương mại (là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên TM, khẩu hiệu kinh doanh...) trong tên DN để xưng danh trong hoạt động kinh doanh, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ, là hành vi cạnh tranh không lành mạnh về SHCN (Điều 130 Luật SHTT , Điều 14 Nghị định 99/2013/NĐ-CP). 
Trong trường hợp này, DN đã sử dụng các thông tin gây nhầm lẫn với các thành quả sáng tạo và đầu tư của các doanh nghiệp khác như: nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý....

Nếu nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý đã được cấp văn bằng bảo hộ hoặc tên TM đáp ứng các điều kiện bảo hộ thì sẽ được bảo vệ theo quy định của pháp luật SHTT. Nếu việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại là nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý mà chưa được cấp văn bằng bảo hộ thì sẽ được bảo vệ theo pháp luật cạnh tranh. Nói cách khác, các đối tượng này SHCN được bảo vệ bởi pháp luật cạnh tranh và pháp luật về SHTT với hai mức độ khác nhau. Nếu như sự bảo vệ của pháp luật SHTT yêu cầu chặt chẽ hơn và do đó nghĩa vụ chứng minh quyền của chủ thể khi yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT cũng ít hơn thì pháp luật cạnh tranh chỉ xuất hiện khi có hành vi cạnh tranh không lành mạnh và nghĩa vụ chứng minh của chủ thể lúc này cũng đòi hỏi ở mức cao hơn. Nói cách khác, sự bảo vệ của pháp luật cạnh tranh tồn tại nhằm bổ sung cho những khoảng trống mà pháp luật SHTT không với tới được với mục đích cuối cùng là bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Việc sử dụng các chỉ dẫn địa lý trên hàng hóa, dịch vụ phải gây hậu quả là làm sai lệch nhận thức khách hàng và nhằm mục đích cạnh tranh. Nếu việc sử dụng chưa đến mức gây nhầm lẫn cho khách hàng hoặc không có mục đích cạnh tranh thì cũng không được coi là thuộc nhóm hành vi này.
Qua các khía cạnh được phân tích, doanh nghiệp sở hữu tên thương mại được bảo hộ cần nằm rõ các quyền của mình nhằm xử lý kịp thời các rủi ro. Song song đó, về phía doanh nghiệp thành lập mới hoặc các doanh nghiệp khi quyết định sử dụng tên trong hoạt động kinh doanh cần lưu ý những hành vi vi phạm, từ đó có hướng điều chỉnh hợp lý. Sự chủ động từ các doanh nghiệp, ý thức quyền lợi và tuân thủ pháp luật trên tinh thần cạnh tranh lành mạnh sẽ thúc đẩy hoạt động kinh doanh hiệu quả, đạt được kết quả kinh doanh mà các doanh nghiệp hướng đến.

Chuyên đề trên đây là chia sẻ của chúng tôi về vấn đề Xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhằm hỗ trợ người đọc có thêm kiến thức về pháp luật, không nhằm mục đích thương mại. Các thông tin trong chuyên đề Xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chỉ là quan điểm cá nhân người viết, người đọc chỉ tham khảo. Chúng tôi đề nghị Quý Khách hàng nên tham khảo ý kiến chuyên môn từ Luật sư của chúng tôi đối với các vấn đề cụ thể. Các yêu cầu giải đáp thắc mắc hãy liên hệ trực tiếp với Văn phòng của chúng tôi theo địa chỉ phía trên hoặc liên hệ qua Hotline: 0978845617, Email: info@luatsuhcm.com

Tác giả: LS Nguyễn Thị Ngọc Dung - VPLS Tô Đình Huy

 Tags: doanh nghiệp

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây