1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng của pháp luật dân sự các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho những người bị thiệt hại từ hành vi vi phạm nghĩa vụ của chủ thể khác. Ở các nước khác nhau thì vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại được qui định khác nhau về hình thức bồi thường và cách xác định thiệt hại. Tuy nhiên, tất cả đều hướng tới một nguyên tắc thống nhất: “Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại”. Nguyên tắc này đã được thể hiện một cách rõ ràng trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới như:
- Điều 1382 Bộ luật dân sự (BLDS) Pháp qui định: “Bất cứ hành vi nào của một người gây thiệt hại cho người khác thì người đã gây thiệt hại do lỗi của mình phải bồi thường thiệt hại; Điều 1383 BLDS Pháp cũng qui định: “Mỗi người phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do mình gây ra, không những do hành vi mà còn do sự cẩu thả hoặc không thận trọng”.
- Điều 420 BLDS Thái Lan qui định: “Một người cố tình hay vô tình làm tổn thương một cách trái pháp luật đến đời sống thân thể, sức khoẻ, tự do, tài sản hoặc bất cứ quyền nào của người khác thì bị coi là phạm một hành vi sai trái và có nghĩa vụ bồi thường tổn thương đó”.
- Điều 416 BLDS Nhật Bản qui định: “Yêu cầu bồi thường thiệt hại sẽ có giá trị đối với việc bồi thường các thiệt hại mà bình thường sẽ xảy ra do việc không thực hiện trái vụ. Trái chủ có quyền được bồi thường cả những thiệt hại xảy ra trong những tình huống đặc biệt, nếu các bên biết trước hoặc phải biết trước những tình huống đó”.
Trong BLDS Việt Nam năm 2005, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được qui định thành một chương riêng (chương XXI). Theo Điều 604: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Điều 202 Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009)
[1] quy định: “Toà án áp dụng các biện pháp dân sự sau đây để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ: (i) Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; (ii) Buộc xin lỗi, cải chính công khai; (iii) Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; (iv) Buộc bồi thường thiệt hại; (v) Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại hàng hoá, nguyên vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ”.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quan niệm pháp lý của Việt Nam và hầu hết các nước trên thế giới đều được hiểu là hình thức trách nhiệm dân sự mang tính tài sản áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại. Hơn nữa, bồi thường thiệt hại là một biện pháp dân sự quan trọng và hữu hiệu được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ” cũng được hiểu là hình thức trách nhiệm dân sự mang tính tài sản áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ gây thiệt hại nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự nên cũng mang đầy đủ những đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói chung. Tuy nhiên, theo qui định của pháp luật, nó có những đặc điểm pháp lý riêng biệt
[2] :
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự: Bồi thường thiệt hại là một biện pháp dân sự nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của chủ thể bị thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang đầy đủ đặc điểm và tính chất của một trách nhiệm dân sự.
- Cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là sự vi phạm nghĩa vụ (nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc nghĩa vụ luật định). Sự vi phạm nghĩa vụ được biểu hiện thông qua sự không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể do luật định hoặc do các bên tự thoả thuận áp dụng. Xuất phát từ nguyên tắc của quan hệ dân sự là “tự do, tự nguyện cam kết thoả thuận” trong khuôn khổ pháp luật, quan hệ dân sự được xây dựng và duy trì bởi ý chí của các chủ thể tham gia. Bởi vậy, các bên không những có thể tự thoả thuận để xác lập quyền và nghĩa vụ thông qua những cam kết mà còn có thể thoả thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và tự áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã được định trước, ngoài các trường hợp pháp luật quy định.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được thực hiện bởi người gây thiệt hại nhưng cũng có thể được thực hiện bởi người khác. Mục đích chính của trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quan điểm pháp lý của Việt Nam không phải là biện pháp trừng phạt mà chủ yếu nhằm khắc phục hậu quả thực tế
[3] . Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chú trọng nhiều tới khả năng khắc phục hậu quả. Về bản chất pháp lý, nghĩa vụ bồi thường trong dân sự là một món nợ mà người gây thiệt hại phải trả cho người bị thiệt hại vì những gì anh ta đã làm như là một hậu quả. Giống các món nợ khác, nó có thể được thanh toán bởi bên thứ ba mà không bắt buộc phải là người mang nghĩa vụ như: cha mẹ bồi thường thay cho con chưa thành niên, con không có năng lực hành vi hay chủ sử dụng lao động bồi thường thay cho người làm công… Ngược lại, “món nợ” phát sinh từ tội phạm hình sự hay hành vi vi phạm hành chính thì không thể được trả thay bởi bên thứ ba.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm tài sản: Tính tài sản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trước hết được thể hiện ở việc các thiệt hại xảy ra dù là vật chất hay tinh thần đều được xác định dưới hình thức là tài sản. Vì vậy, người gây thiệt hại luôn phải bồi thường bằng tài sản để bù đắp và khôi phục những thiệt hại xảy ra từ hành vi của mình.
- Giới hạn bồi thường: Nghĩa vụ bồi thường trong trường hợp thiệt hại ngoài hợp đồng, các thiệt hại được xác định theo quy định của pháp luật và thông thường bao gồm cả thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng được xác định theo thoả thuận của các bên (có thể ấn định trước một khoản tiền bồi thường trong mọi trường hợp hoặc theo thiệt hại thực tế). Ngoài ra, một lưu ý là cho đến nay, chưa có tiền lệ nào về việc bồi thường cho những thiệt hại về tinh thần trong quan hệ hợp đồng nếu không có sự thoả thuận trước.
- Về phương diện thẩm quyền tố tụng: Toà án có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện liên quan tới bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là Toà án nơi xảy ra sự kiện gây thiệt hại (nơi diễn ra hành vi gây thiệt hại hoặc nơi phát sinh hậu quả trực tiếp của hành vi gây thiệt hại) hoặc Toà án nơi thường trú của bị đơn. Đối với trách nhiệm theo hợp đồng, thẩm quyền giải quyết thuộc về Toà án nơi giao kết hoặc nơi thực hiện hợp đồng.
- Một khác biệt về ý nghĩa: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mang tính phòng ngừa xã hội và áp dụng chung một nguyên tắc cho mọi trường hợp còn trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng chỉ mang ý nghĩa trách nhiệm cá biệt mà thôi. Trong các quan hệ hợp đồng khác nhau, các chủ thể có thể tự xác lập những quy định về trách nhiệm bồi thường khác nhau miễn là không trái quy định của pháp luật.
1.1.2. Các quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ - bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật bảo hộ sở hữu trí tuệ và là cơ sở pháp lý xác định phạm vi, mức độ cam kết bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là một phạm trù pháp lý tương đối mới mẻ so với các phạm trù pháp lý truyền thống khác, nó chỉ chính thức xuất hiện khoảng vài thế kỷ trở lại đây cùng với sự công nhận và bảo hộ của Nhà nước đối với những thành quả lao động trí tuệ sáng tạo của con người. Một cách khái quát và đơn giản nhất, nó được hiểu là quyền của cá nhân, tổ chức đối với các sản phẩm trí tuệ do mình sáng tạo hoặc có quyền sở hữu. Còn theo nghĩa hẹp, đó là độc quyền được công nhận cho một người, một nhóm người hoặc một tổ chức được ngăn cấm người khác sử dụng hay khai thác một sản phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Tại phần lớn các quốc gia trên thế giới, quyền sở hữu trí tuệ thường được phân thành quyền tác giả và quyền liên quan; và quyền sở hữu công nghiệp. Trước đây, các đối tượng truyền thống của quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu là quyền tác giả, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Về sau, do nhu cầu của sự phát triển, ngày càng xuất hiện nhiều đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ cần được bảo hộ như các quyền liên quan đến quyền tác giả, bí mật thương mại, thiết kế bố trí mạch tích hợp, giống cây trồng. Với các đối tượng này, tùy tình hình kinh tế và đặc thù pháp lý của mỗi quốc gia mà chúng có thể được bảo hộ với các danh nghĩa khác nhau ở các nước khác nhau. Như vậy, sự phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật đã không ngừng mang lại những đối tượng mới của quyền sở hữu trí tuệ, song song, đòi hỏi pháp luật phải có những cơ chế bảo hộ tương xứng và thoả đáng. Điều này không nằm ngoài quy luật chung của quá trình phát triển. Theo quy định tại khoản 1, Điều 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ năm 2009, “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”. Bản thân các nhóm quyền sở hữu trí tuệ này cũng lần lượt được luật hóa và định nghĩa một cách khá rõ ràng, theo đó:
“- Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
- Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
- Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh.
- Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu”.
Ngày nay, việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo đảm thực hiện các quyền đó ngày càng có vị trí quan trọng trong thương mại quốc tế cũng như đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Đối với nền kinh tế trong nước, làm tốt việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự sáng tạo, bảo đảm động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và thương mại; khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá và tạo uy tín cho sản phẩm. Hệ thống sở hữu trí tuệ mạnh sẽ có tác dụng tốt trong việc phát triển công nghệ và kinh doanh lành mạnh, có vai trò tích cực đối với công cuộc phát triển kinh tế. Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 19/11/2005 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006. Đây là một bước tiến dài trong việc bảo đảm thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Có thể nói, với việc thông qua một đạo luật thống nhất về sở hữu trí tuệ, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã xích lại gần hơn với thế giới. Một trong những nội dung quan trọng của việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ là vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, việc áp dụng biện pháp dân sự, hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án, trong trường hợp cần thiết, Toà án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật. Luật Sở hữu trí tuệ đã đề cao khía cạnh dân sự của quyền sở hữu trí tuệ thông qua các quy định về xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự
[4] mà một trong các biện pháp đó là bồi thường thiệt hại.
Có thể nhận thấy trong thời gian vừa qua, sở hữu trí tuệ là một trong những lĩnh vực có nhiều hành vi xâm phạm và gây ra nhiều thiệt hại cho các chủ thể có liên quan cũng như xã hội nói chung. Điều này xuất phát từ một nguyên nhân quan trọng: đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là các tài sản vô hình - tài sản trí tuệ nên dễ bị xâm phạm. Quyền sở hữu trí tuệ rất dễ bị xâm phạm dẫn đến khả năng mất quyền trên thực tế: Đặc điểm này xuất phát từ đặc thù của tài sản trí tuệ là có tính chia sẻ và tính xã hội cao. Nói mang tính chia sẻ cao bởi tài sản trí tuệ không thể bị chiếm hữu bởi bất cứ một chủ thể nào hoặc giới hạn bởi bất cứ hình thức vật chất nào. Từ khi chúng ta nghe về nó, nhìn thấy nó hoặc đọc được những thông tin, thậm chí chỉ cần cảm nhận được là chúng ta đã có thể sử dụng và biến những tri thức đó thành của mình. Điều này có nghĩa rằng mỗi thành quả được tạo ra từ hoạt động trí tuệ của con người sẽ đem đến cho toàn xã hội, toàn nhân loại những giá trị mới về tinh thần, về tri thức. Đồng thời, nó cũng có thể được thụ hưởng bởi tất cả mọi người. Khác với những tài sản thông thường, do thuộc tính vô hình của loại tài sản này khiến cho việc sử dụng, khai thác sản phẩm trí tuệ từ người này không làm hao giảm hoặc ảnh hưởng đến việc sử dụng của người khác cũng như của những người sáng tạo ra chúng. Vì vậy, tài sản trí tuệ sẽ đem lại ích lợi hoặc về khía cạnh tinh thần và tri thức hoặc khía cạnh kinh tế cho mọi người và toàn xã hội. Điều này khiến cho các hoạt động sáng tạo cần được trân trọng và khuyến khích. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ tính vô hình của tài sản trí tuệ nên nó không thể bị chiếm hữu về mặt thực tế và có khả năng lan truyền rất nhanh cũng như rất khó để kiểm soát. Mặt khác, khi đã được công bố, nó cũng dễ dàng bị sử dụng và khai thác một cách rộng rãi ở bất kỳ nơi nào, bởi bất kỳ ai mà có thể không cần xét đến ý kiến cũng như lợi ích của những người tạo ra chúng. Thực tế này khiến cho chủ sở hữu thực sự của tài sản trí tuệ luôn phải chịu khả năng rủi ro về việc mất quyền của mình. Chính vì thế mà từ cách đây rất lâu, ở các quốc gia văn minh, người ta đã tìm cách để khuyến khích các hoạt động sáng tạo bằng việc bảo hộ quyền của những người có công trong việc sáng tạo đối với thành quả của họ thông qua các đặc quyền về nhân thân và kinh tế. Những đặc quyền này đem lại cho người sáng tạo những lợi ích nhất định và khả năng độc quyền kiểm soát việc người khác sử dụng thành quả của mình giống như quyền của người chủ sở hữu đối với những tài sản thuộc sở hữu của anh ta nhằm tôn vinh các giá trị sáng tạo cũng như bù đắp một cách xứng đáng công sức và trí tuệ mà người sáng tạo đã bỏ ra.
Do vậy, chế định bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ luôn là một bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật bảo hộ sở hữu trí tuệ. Hơn nữa, chế định bồi thường thiệt hại với những quy định nhằm khắc phục thiệt hại, bồi thường cho những tổn thất do chủ thể xâm phạm gây ra càng nghiêm khắc, đầy đủ thì càng thể hiện mức độ cam kết bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của một quốc gia.
1.2. Các quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ - một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng bảo hộ sở hữu trí tuệ của một quốc gia
Cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra rất sôi động trên thế giới, Việt Nam đã chọn con đường cải cách mà thực tiễn ngày càng chứng minh là đúng đắn. Một trong những nội dung của chính sách đổi mới, cải cách chính là việc thiết lập cơchế thị trường một cách đầy đủ, đồng bộ. Điều thiết yếu của việc thiết lập cơ chế thị trường chính là việc bảo hộ quyền sở hữu của người dân đối với tài sản của mình trong đó có tài sản sở hữu trí tuệ. Việt Nam đang trong giai đoạn hòa vào nhịp chung của vận động lịch sử, công nhận và tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ là một nhân tố phát triển quan trọng. Do đó, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có vị trí không thể thiếu đối với mỗi hệ thống pháp luật. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, các đối tác đàm phán thường phàn nàn về tính kém thực thi của chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
[5] . Bảo hộ sở hữu trí tuệ, vì thế, không chỉ là đòi hỏi nội thân của nền kinh tế là đòi hỏi tất yếu của việc xây dựng và thiết lập nền kinh tế thị trường văn minh ở Việt Nam mà còn là vấn đề đặc biệt quan tâm từ phía cá đối tác trong quá trình hội nhập. Điều 7 Luật Sở hữu trí tuệ đã rất có lý khi khẳng định rằng: “Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân nhằm thúc đầy hoạt động sáng tạo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân”. Thực tiễn hội nhập cho thấy, dù gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực thi chế độ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhưng khó có quốc gia nào có thể lẩn tránh được nghĩa vụ đã cam kết với các đối tác trong thương mại quốc tế. Chế định bồi thường thiệt hại đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng là hiện thân của nguyên tắc đã được Luật Sở hữu trí tuệ quy định tại Khoản 2 Điều 7, đó là: “Mọi tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều bị xử lý theo quy định của pháp luật”. Điều 10 của Luật này cũng quy định rõ “các tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình và có trách nhiệm tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác...”.
1.3. Về quan điểm về các yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại một số quốc gia trên thế giới
Nguyên tắc xác lập trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các nước trên thế giới hầu hết có sự kế thừa sâu sắc từ Luật La mã cổ đại (Luật XII Bảng) với các yếu tố cấu thành: Sự vi phạm xuất hiện do thực hiện một hành vi bên ngoài nào đó; Sự vi phạm phải để lại những hậu quả nhất định; Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; Người vi phạm biết hoặc có thể biết về hậu quả của hành vi do mình gây ra. Nói một cách khác, người vi phạm phải chịu trách nhiệm do lỗi gây ra. Tuy không rõ ràng như các yếu tố khác (trong pháp luật một số nước), nhưng lỗi cũng được hầu hết pháp luật các nước thừa nhận như là điều kiện bắt buộc hoặc cần xem xét khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong những trường hợp thông thường. Những trường hợp ngoại lệ để quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không cần lỗi cũng được quy định tương đối phổ biến trong hầu hết pháp luật các nước dưới hình thức lỗi suy đoán hoặc trách nhiệm do luật định. Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ cho thấy các quy định của các quốc gia trên thế giới đều cho thấy khả năng quy trách nhiệm khách quan đối với những người có hành vi xâm phạm như luật định không phụ thuộc vào yếu tố lỗi. Điều này chủ yếu xuất phát từ những đặc tính của quyền sở hữu trí tuệ, cũng như mục đích và khả năng bảo hộ các quyền này trên thực tiễn. Và do đó, nếu lỗi được coi là yếu tố bắt buộc để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp thông thường thì trong pháp luật về sở hữu trí tuệ, lỗi không phải là yếu tố bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các chủ thể có hành vi xâm phạm (trừ các trường hợp xâm phạm gián tiếp quyền sở hữu trí tuệ phải đòi hỏi có lỗi cố ý mới làm phát sinh trách nhiệm). Điều này nhìn chung phù hợp với tính chất đặc thù của hoạt động bảo hộ các quyền đối với tài sản trí tuệ và cũng tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho các chủ thể dễ dàng hơn trong quá trình phát hiện và tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của chính mình. Tuy nhiên, việc phân loại lỗi lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định thiệt hại và mức bồi thường đối với các hành vi xâm phạm.
2. Quan điểm về thực tiễn pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ trên thế giới và tại Việt Nam
2.1. Về thực tiễn pháp luật thế giới
[6] 2.1.1. Về những nét tương đồng của pháp luật các quốc gia về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
- Về nguồn của pháp luật. Đa số các nước được nghiên cứu đều sử dụng một nguồn luật quan trọng là án lệ trong xét xử các vụ án liên quan đến bồi thường thiệt hại. Đây là nguồn luật cơ bản và thiết yếu bên cạnh hệ thống pháp luật hiện hành của các quốc gia này. Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia khác như Trung Quốc – một quốc gia Châu Á vẫn chưa xem án lệ là nguồn luật cơ bản cho nên pháp luật về sở hữu trí tuệ vẫn là nguồn luật cơ bản nhất đối với chế định bồi thường thiệt hại.
- Về nguyên tắc bồi thường. Pháp luật một số quốc gia, khu vực như Liên minh Châu Âu, Pháp, Nhật Bản đều thừa nhận nguyên tắc “bồi thường toàn bộ” trên quan điểm coi trách nhiệm bồi thường thiệt hại là biện pháp nhằm khôi phục lại các quan hệ xã hội bị phá vỡ chứ không nhằm mục đích trừng phạt đối với người thực hiện hành vi xâm phạm, theo đó “Sự bồi thường thiệt hại phải toàn bộ trong tất cả các trường hợp và không được vượt quá tổng số thiệt hại
”. Và “những thiệt hại được bồi thường đối với nạn nhân phải khiến cho nạn nhân không mất đi, cũng như không được thêm ra các lợi ích”. Bên cạnh đó, nghiên cứu các nguyên tắc chung của Luật về các nguyên tắc trong lĩnh vực dân sự của Trung Quốc năm 1986, tại Điều 117 và 118 cũng quy định rõ:“nguyên tắc cơ bản để bồi thường thiệt hại trong các vụ án dân sự là sự bồi thường mang tính bù đắp thiệt hại hơn là sự bồi thường mang tính răn đe và trừng phạt”. Trong các vụ xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp ở Trung Quốc, nguyên tắc được thể hiện rõ nhất trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nguyên tắc bồi thường toàn bộ những thiệt hại xảy ra trên thực tế. Toà phúc thẩm Liên Bang Đức cũng đã ra tuyên bố rằng: ”Sẽ không có hiệu lực ở Đức đối với các phán quyết của Mỹ về phần bồi thường thiệt hại mang tính trừng phạt dân sự vì phán quyết này vi phạm trật tự công cộng của Đức”. Nghiên cứu pháp luật về bồi thường thiệt hại của nhiều nước trên thế giới đều cho thấy không có đề cập tới nguyên tắc bồi thường kịp thời. Thực tế, nên coi đây là một nguyên tắc tố tụng phản ánh tính kịp thời trong quá trình ra phán quyết nhằm xử lý hành vi xâm phạm và khả năng thực thi phán quyết đó một cách hữu hiệu thay vì coi đó là một nguyên tắc trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Pháp luật một số nước như Đức hay Nhật Bản cũng cho phép Toà án có quyền xem xét để giảm mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp hành vi xâm phạm được xác định là do lỗi vô ý nhẹ. Tuy nhiên, việc giảm mức bồi thường thiệt hại ở Đức được xem như những trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc “bồi thường toàn bộ” hơn là dưới góc độ một nguyên tắc bồi thường thiệt hại như ở Việt Nam. Nguyên tắc giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại hầu như không tồn tại trong pháp luật của các nước theo đuổi quan điểm bồi thường trừng phạt mặc dù có thể thấy sự phân hoá trách nhiệm rất rõ giữa hành vi xâm phạm do cố ý và vô ý. Bên cạnh đó, nguyên tắc thay đổi mức bồi thường thiệt hại rất hiếm gặp trong pháp luật các nước trên thế giới.
- Về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường. Nghiên cứu pháp luật của nhiều quốc gia bao gồm cả các nước theo hệ thống thông luật và dân luật cho thấy cơ sở làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được pháp luật tất cả các nước thừa nhận dựa trên ba yếu tố cơ bản: Hành vi trái pháp luật; Thiệt hại; Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
- Về các phương pháp xác định thiệt hại của các quốc gia đều có những phương pháp giống nhau. Trong đó đều dựa trên các loại chi phí cũng như mức độ bị thiệt hại lợi nhuận,...
2.1.2. Về những nét khác biệt của pháp luật các quốc gia về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
Nhìn chung các quốc gia đã có những nét chung trong quá trình phát triển các học thuyết và xây dựng pháp luật liên quan đến bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên qua quá trình nghiên cứu của chương II đã cho thấy những nét khác biệt nhau nhất định.
Về nguyên tắc bồi thường trừng phạt, các quốc gia theo hệ thống án lệ, đặc biệt là Hoa Kỳ đã quy định bồi thường gấp đôi, gấp ba so với thiệt hại. Đây là quy định nhằm mục đích thể hiện tính chất trừng phạt đối với những hành vi gây ra thiệt hại và khẳng định một quan điểm xuyên suốt là bồi thường không phải chỉ để khắc phục hay bù đắp. Điều này xuất phát từ nguyên nhân pháp luật các quốc gia này có chưa có sự phân biệt giữa luật công và luật tư, do đó, pháp luật dân sự vẫn mang hơi hướng răn đe, trừng phạt của luật hình sự. Đây cũng là điểm mà các nhà lập pháp Việt Nam nên học hỏi trong quá trình hoàn thiện pháp luật.
Về cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hầu hết các quốc gia đã ghi nhận 3 căn cứ như đã nói ở trên nhưng cũng có một số quốc gia ghi nhận thêm yếu tố lỗi. Lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đóng vai trò vô cùng quan trọng để xác định mức độ thiệt hại cũng như mức bồi thường thiệt hại.
Về các phương pháp xác định thiệt hại và mức độ bồi thường tuy gần như giống nhau nhưng cũng có một số khác biệt về số lượng phương pháp tính thiệt hại, nội dung mỗi loại chi phí.
2.1.3. Nguyên nhân của những điểm tương đồng và khác biệt
Thứ nhất, sự hội nhập của pháp luật sở hữu trí tuệ dưới tác động của toàn cầu hóa. Sự hội nhập kinh tế đã dẫn đến nguy cơ toàn cầu hóa trên khắp thế giới. Các thiết chế kinh tế đã phát triển quy mô đến những mức độ nhất định, góp phần tác động đến các thiết chế xã hội, pháp luật, văn hóa,... Trong bối cảnh đó, sự du nhập, cấy ghép pháp luật ngày càng được diễn ra một cách phổ biến. Theo đó, pháp luật sở hữu trí tuệ cũng được lan truyền từ nước này sang nước khác, đặc biệt từ các nước phát triển lâu đời sang các nước mới hoặc kém phát triển hơn. Điều này đã dẫn đến những điểm giống nhau trong hệ thống pháp luật nói chung và bồi thường thiệt hại nói riêng.
Thứ hai, triết lý nền tảng của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Quan niệm về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa các quốc gia khác nhau là không hoàn toàn giống nhau. Quan niệm về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng giữa các quốc gia gia khác nhau là không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn theo quan điểm Nhật Bản cho rằng, cần có sự phân tách rõ ràng giữa các biện pháp hình sự và biện pháp dân sự trong việc xử lý các hành vi vi phạm. Chỉ có Nhà nước mới là tổ chức duy nhất có thẩm quyền Tòa áp dụng các biện pháp xử lý hình sự. Các tổ chức, cá nhân không mang quyền lực nhà nước thì không thể có quyền năng này. Chính vì thế, chức năng của chế định bồi thường, chỉ là để ”khôi phục lại tình trạng mà lẽ ra người bị vi phạm có thể không có nếu không có hành vi vi phạm”. Bất kể hành vi vi phạm được thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý thì yếu tố lỗi cũng không được coi là căn cứ để nâng mức bồi thường thiệt hại cao hơn thiệt hại thực tế xảy ra. Chức năng của chế định bồi thường – chính vì thế, không phải để răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm. Nguyên tắc xác định thiệt hại trong vi phạm hợp đồng cũng được áp dụng cho việc xác định thiệt hại từ hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng. Ngược lại, tại Hoa Kỳ, chức năng của tiền bồi thường thiệt hại với các chế tài hình sự là không hoàn toàn rõ ràng. Hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ sử dụng cả chế tài dân sự vào việc răn đe, phòng ngừa hành vi vi phạm. Các tổ chức, cá nhân không mang quyền lực nhà nước được khuyến khích tham gia các vụ kiện để ngăn chặn hành vi vi phạm. Pháp luật Hoa Kỳ sẵn sàng sử dụng cơ chế ”tiền bồi thường có tính chất trừng phạt” áp dụng cho các trường hợp vi phạm với lỗi cố ý. Tiền bồi thường này sẽ cao hơn thiệt hại thực tế xảy ra và bao hàm cả chi phí luật sư, chi phí theo đuổi vụ kiện.
Thứ ba, chính sách sở hữu trí tuệ. Đây là nguyên nhân dẫn đến những sự giống nhau của pháp luật các nước về vấn đề này. Theo đó, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được xem là một nội dung cơ bản của pháp luật sở hữu trí tuệ của các nước, theo đó, chế định bồi thường thiệt hại có vai trò rất quan trọng trong việc xác định mức độ thực thi các cam kết bảo hộ. Điều 284 của Bộ pháp điển Hoa Kỳ số 35 thể hiện rõ sự quan tâm của Nghị viện Hoa Kỳ đối với việc bảo vệ ở mức cao ”quyền sở hữu trí tuệ” (xuất phát từ triết lý – quyền tư hữu là thiêng liêng, bất khả xâm phạm). Chủ sáng chế được đặc biệt ưu tiên bảo vệ. Pháp luật Hoa Kỳ không cho phép Tòa án được giảm mức tiền bồi thường đối với bị đơn thấp hơn mức ”chuyển giao sáng chế một cách hợp lý”. Đối với các vi phạm với lỗi cố ý, Tòa án được quyền nâng mức phạt lên gấp 3 lần thiệt hại thực tế. Theo Điều 285 của Bộ Pháp điển Hoa Kỳ số 35, trong những trường hợp đặc biệt, Tòa án còn có thể buộc bị đơn bồi thường cho nguyên đơn tiền phí luật sư.
2.2. Về thực tiễn pháp luật Việt Nam
2.2.1. Tại Việt Nam, có nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành để điều chỉnh các quan hệ sở hữu trí tuệ, tạo nên một lĩnh vực pháp luật tương đối riêng biệt. Theo đó, các quy định liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ cũng khá đầy đủ, được quy định trong các văn bản như: Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009), Luật Thương mại năm 2005, Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 (sửa đổi, bổ sung bởi
Nghị định số 119/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010) và các văn bản khác có liên quan.
2.2.2. Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ: tuân theo quy định của Bộ luật dân sự 2005. Qua nghiên cứu chế định pháp lý bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của pháp luật Việt Nam có thể thấy, nguyên tắc mang tính trung tâm và kim chỉ nam vẫn là nguyên tắc bồi thường theo thoả thuận và nguyên tắc bồi thường toàn bộ. Nói đây là các nguyên tắc trung tâm bởi lẽ, một mặt nó phản ánh được bản chất của mối quan hệ giữa các chủ thể trong quan hệ, mặt khác, nó thể hiện được quan điểm pháp lý của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, đây cũng là những nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật nhiều nước trên thế giới.
2.2.3. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Về nguyên tắc, khi hội tụ đủ cả bốn điều kiện: sự thiệt hại, hành vi vi phạm gây thiệt hại, lỗi và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và sự thiệt hại mới phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng. Khi giải quyết chế độ bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật Việt Nam, chúng ta buộc phải xem xét đầy đủ tất cả các điều kiện trên để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại cũng như của người gây thiệt hại, tránh tình trạng buộc bồi thường thiệt hại thiếu căn cứ, thiếu chính xác và bất bình đẳng.
2.2.4. Các quy định của Việt Nam về các nguyên tắc và căn cứ xác định bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhìn chung là tiến bộ, đáp ứng được các chuẩn mực của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên bao gồm: Hiệp định TRIPS (Ngày 07/11/2006, Việt Nam đã ký Nghị định thư gia nhập WTO, theo đó, Việt Nam có nghĩa vụ thực thi các cam kết với WTO về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định TRIPS kể từ ngày trở thành thành viên chính thức của WTO (kể từ ngày 11/01/2007) và Hiệp định thương mại Việt Mỹ.Ngoài một số hạn chế không tránh khỏi, nhìn chung các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm của Luật Sở hữu trí tuệ đã thể hiện rõ quan điểm và sự nỗ lực của các nhà lập pháp Việt Nam trong việc tiến gần hơn đến ranh giới của nguyên tắc bồi thường toàn bộ trên cơ sở lý luận về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm và hậu quả xảy ra từ hành vi đó. Trong khi pháp luật của các nước rất thận trọng trong việc xác định những khoản chi phí nào được coi là thiệt hại cần được bồi thường thì Việt Nam, với tư cách là một nước đang phát triển và nỗ lực hội nhập, đã mạnh dạn quy định trách nhiệm bồi thường của người xâm phạm đối với tất cả các thiệt hại trực tiếp và gián tiếp phát sinh từ hành vi xâm phạm.
2.2.5. Về các nội dung cần quan tâm khi xác đinh thiệt hại đã có những quy định cần thiết để thực thi trong thực tế. Ví dụ như, các phương pháp xác định thiệt hại vật chất về cơ bản phù hợp với thông lệ chung của quốc tế cũng như quy định của hầu hết các nước; Nguyên đơn trong một vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại do quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm hiện nay theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2009 có rất nhiều cơ hội để được chứng minh và để được bồi thường, bao gồm cả những thiệt hại trực tiếp và gián tiếp, thiệt hại trong quá khứ, hiện tại và tương lai, miễn là anh có đủ khả năng để chứng minh tính thực tế và mối quan hệ của thiệt hại đó với hành vi xâm phạm;... nhưng cũng có những hạn chế như: thực tế quá trình xét xử các vụ tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến các yêu cầu bồi thường thiệt hại tại Toà án Việt Nam, các thẩm phán hầu như chưa bao giờ chấp nhận việc bồi thường đối với chi phí thuê luật sư của bên thắng kiện. Thực trạng này chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân là không có quy định pháp luật nào điều chỉnh một cách rõ ràng về việc phí luật sư cũng được coi là thiệt hại thực tế của bên thắng kiện, mặt khác, cũng do quan điểm xét xử truyền thống của các thẩm phán Việt Nam về vấn đề này; cơ chế thực thi pháp luật còn hạn chế;... Bên cạnh Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, các biện pháp cũng như chế tài nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và quyền được bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ ở Việt Nam còn được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật sở hữu trí tuệ, Bộ luật hình sự, Luật hải quan… Các văn bản này quy định thủ tục khởi kiện dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại, thủ tục khởi tố hình sự đối với các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ tại cơ quan hải quan, thủ tục xử lý vi phạm hành chính đối với những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Như vậy theo quy định của pháp luật Việt Nam, việc bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể được bảo đảm thực hiện theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính, thủ tục tố tụng dân sự hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.2.6. Một số hạn chế trong pháp luật Việt Nam
- Theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành thì việc xác định hình thức lỗi cũng chỉ có ý nghĩa trong một số trường hợp nhất định. Trong một số trường hợp, lỗi vô ý là một trong những điều kiện cần để được xem xét giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Còn mọi trường hợp gây thiệt hại do lỗi cố ý thì luôn phải chịu trách nhiệm bồi thường “toàn bộ”
[7] . Theo các quốc gia trên thế giới, việc phân loại lỗi có ý nghĩa rất quan trọng, ví dụ như pháp luật của Đức cho phép Toà án có quyền xem xét để giảm mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm được xác định là do lỗi vô ý nhẹ. Theo pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành của Việt Nam, việc phân loại lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại không thực sự có nhiều ý nghĩa và không ảnh hưởng đến bất cứ yếu tố nào trong toàn bộ cơ chế bồi thường thiệt hại
[8] . Một hành vi xâm phạm dù là do lỗi vô ý, cố ý hay không có lỗi đều phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại thực tế gây ra. Điều này có lẽ xuất phát từ quan điểm pháp lý của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại là chủ trương khôi phục các quan hệ dân sự bị phá vỡ chứ không nhằm mục đích trừng phạt.
- Hiện nay, Luật Sở hữu trí tuệ chỉ mới quy định về các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mang tính trực tiếp mà chưa quy định hành vi gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu quyền là hành vi vi phạm pháp luật. Chính vì thế, khả năng áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các hành vi gián tiếp làm xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ cũng chưa được đề cập đến. Trong khi đó, thực tế các nước cũng như Việt Nam hiện nay đã và đang tồn tại nhiều hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho chủ sở hữu quyền
[9] .
- Về việc bồi thường tổn thất về tài sản và tổn thất cơ hội kinh doanh do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra. Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ về nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định “tổn thất về tài sản” là một thiệt hại cần được bồi thường; đồng thời cũng quy định trách nhiệm bồi thường đối với những “tổn thất về cơ hội kinh doanh” của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ bị vi phạm. Khái niệm “tổn thất về tài sản” được hiểu là “mức độ giảm sút hoặc bị mất đối với giá trị tính được thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ”. Còn “tổn thất về cơ hội kinh doanh” theo hướng dẫn tại Điều 18 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP được hiểu là những “thiệt hại về giá trị tính thành tiền của khoản thu nhập đáng lẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện việc khai thác trực tiếp hoặc gián tiếp đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ nhưng trên thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra”
[10] . Thực ra, học thuyết chung về bồi thường thiệt hại cho phép những thiệt hại tuy chưa xảy ra nhưng nếu chắc chắn xảy ra thì cũng có thể được xem xét bồi thường nếu như sự chắc chắn đó là thực tế. Trong đó, cơ hội kinh doanh cũng có thể coi là một thiệt hại. Tuy nhiên, có thể thấy, đây là một sự bồi thường trùng bởi xuất phát từ một thực tế là khi giá trị của tài sản sở hữu trí tuệ bị mất đi hay bị giảm sút vì bất cứ nguyên nhân gì thì đương nhiên các cơ hội kinh doanh cũng bị giảm sút ở mức độ tương ứng hay nói đúng hơn, giá trị của một tài sản trí tuệ thường được phản ánh và định lượng dựa trên những cơ hội kinh doanh mà nó mang lại hay khả năng sinh lợi của tài sản này trong tương lai.
2.2.7. Một số kiến nghị hoàn thiện cơ chế thực thi
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần tạo ra một môi trường lành mạnh cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo sự hấp dẫn, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp ph
ần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và quan trọng hơn là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới cần tiến hành một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đối với pháp luật dân sự, pháp luật chuyên ngành về sở hữu trí tuệ, cần tiếp tục tổng kết thực tiễn thi hành những năm qua để bổ sung các quy định đầy đủ và cụ thể hơn, pháp điển hoá các quy định, các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ, đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện cho các chủ sở hữu tham gia bảo hộ quyền sở hữu của mình đối với tài sản sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, đối với pháp luật hình sự và pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, mặc dù vừa qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
[11] nhưng chúng tôi cho rằng, các quy định về mức xử phạt theo Pháp lệnh này và các văn bản hướng dẫn hiện hành vẫn còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm. Ví dụ, Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/06/2006 của Chính phủ về việc xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa thông tin quy định mức xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm trong lĩnh vực hoạt động này tối đa là 30 triệu đồng (đối với hành vi in lậu). Đây là mức phạt quá nhẹ so với lợi nhuận mà các đối tượng xâm phạm quyền sở hữu thu được. Do đó, cần nghiên cứu điều chỉnh cách tính mức phạt phải cao hơn, nghiêm khắc hơn đối với hành vi vi phạm, sao cho mức phạt tối thiểu cũng phải cao hơn lợi nhuận xác định được do hành vi vi phạm gây ra.
Bộ luật Hình sự nên bổ sung quy định về các yếu tố cấu thành tội phạm phù hợp với các điểm mới trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và trong các hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Ngoài ra, chúng tôi xin đề nghị mấy vấn đề cụ thể sau:
(i) Sửa đổi 6 tội danh trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo hướng tăng khung hình phạt và áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền);
(ii) Đề nghị thay đổi quy định giá trị hàng giả thấp hơn 30 triệu đồng theo hướng hạ thấp phù hợp với thực tế. Bởi vì, theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội sản xuất, buôn bán hàng giả, thì chỉ những hành vi kinh doanh hàng giả có giá trị tương đương hàng thật từ ba mươi triệu đồng trở lên, hoặc dưới ba mươi triệu đồng nhưng phải gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý hành chính hoặc đã bị kết án mà chưa được xoá án, mới bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì ít khi xảy ra những vụ việc sản xuất hoặc buôn bán hàng giả với số lượng lớn như vậy, mà thường là sản xuất, vận chuyển tiêu thụ nhỏ bé, hàng giả thường ở mức dưới ba mươi triệu đồng nên rất khó để có thể xử lý về hình sự các hành vi này;
(iii) Trong quá trình tổ chức giám định cần có hướng dẫn cụ thể theo xác xuất, tỉ lệ % hay phương thức giám định của cả lô hàng để phục vụ giải quyết vụ án kịp thời có tác dụng phòng ngừa và răn đe tội phạm.
Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên và phát huy sức mạnh toàn dân tích cực tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống sản xuất, buôn bán hàng giả, xâm phạm sở hữu trí tuệ, đưa nội dung giáo dục vào nhà trường, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về sở hữu trí tuệ trong các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể, đồng thời kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền. Từ đó xây dựng ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ tư, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và chủ sở hữu, thông qua các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện tội phạm, kiên quyết xử lý đúng pháp luật, công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng để toàn dân được biết. Nâng cao hơn nữa vai trò của tòa án trong việc xét xử nghiêm minh các hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, tổ chức xây dựng lực lượng chuyên trách về sở hữu trí tuệ, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tăng cường cơ sở vất chất kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Các doanh nghiệp, chủ sở hữu tài sản trí tuệ, bên cạnh việc đăng ký bảo hộ và trông chờ sự bảo hộ của luật pháp, để hạn chế ở mức thấp nhất tài sản trí tuệ bị xâm phạm, nên có một hệ thống nhân sự và kỹ thuật chuyên bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Những doanh nghiệp có uy tín trên thế giới đều rất coi trọng vấn đề thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm, hàng hóa để bảo vệ quyền lợi của chính mình và quyền lợi của cộng đồng. Ngay tại Việt Nam, việc Công ty Unilever đã thành lập “đội ACF” với chức năng là chuyên bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ các nhãn hàng của Công ty trên cơ sở chủ động hợp tác với các cơ quan chức năng, là một kinh nghiệm tốt.
Thứ năm, tiếp tục tăng cường vai trò quản lý và điều hành của nhà nước, sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích sản xuất hàng hoá trong nước đủ sức cạnh tranh đối với hàng hóa ngoại, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng; hạn chế lạm phát và giảm tỉ lệ thất nghiệp.
Thứ sáu, mở rộng hợp tác quốc tế, tham gia xây dựng lực lượng cảnh sát chuyên trách chống tội phạm đặt trụ sở tại một số quốc gia trong khu vực nhằm phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về xâm phạm sở hữu trí tuệ./.
* Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp.
[1] Sau đây gọi tắt là Luật sở hữu trí tuệ.
[2] Đinh Thị Mai Phương (2009), Về bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo pháp luật Việt Nam, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 25-26.
[3] Ở một số nước đặc biệt là các nước theo hệ thống luật án lệ, quan niệm pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại không đơn thuần mang tính khắc phục thiệt hại mà còn mang tính trừng phạt.
[4] Hương Lan, Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một chế định quan trọng trong luật sở hữu trí tuệ 2005, Tạp chí Công nghiệp số tháng 11/2006, Hà Nội.
[5] Sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn:
http://www.vietnamforumcsr.net/default.aspx?portalid=1&tabid=361&itemid=738
[6] Trong phần này, các nhận định được rút ra sau khi tập trung nghiên cứu pháp luật của các quốc gia, khu vực:Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, CH Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc.
[7] Thực tế ở các nước này cho thấy có sự phân hoá đáng kể trong việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với hành vi xâm phạm do lỗi cố ý hay do lỗi vô ý. Đặc biệt, việc phân loại lỗi trong quá trình xác định mức bồi thường thiệt hại trong pháp luật một số nước thể hiện sự ảnh hưởng và ý nghĩa tương đối rõ nét.
[8] Đinh Thị Mai Phương, tlđd, trang 269-270.
[9] Vì vậy, các nhà làm luật Việt Nam cũng cần nghiên cứu nhằm bổ sung thêm quy định một số hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Việc quy định các hành vi gián tiếp xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là hành vi vi phạm pháp luật một mặt sẽ giúp cho việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả hơn, từng bước đẩy lùi tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, mặt khác, giúp mọi người ý thức rõ hơn về vấn đề tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ.
[10] Đinh Thị Mai Phương, tlđd, trang 279.
[11] Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 04/2008/UBTVQH12 ngày 2 tháng 4 năm 2008.
Chúng tôi trên mạng xã hội