Khái quát về hợp đồng kinh doanh thương mại
Luật doanh nghiệp, Luật Thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng trong kinh doanh thương mại hay hợp đồng kinh doanh thương mại, song có thể xác định bản chất pháp lý của hợp đồng trong kinh doanh, thương mại trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng. Từ đó cho thấy, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự.
Có thể xem xét hợp đồng kinh doanh, thương mại trong mối liên hệ với hợp đồng dân sự theo nguyên lý của mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhiều vấn đề về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được điều chỉnh bởi pháp luật không có sự khác biệt với các hợp đồng dân sự, như: Giao kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu… Bên cạnh đó, xuất phát từ yêu cầu của hoạt động thương mại, một số vấn đề về hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được quy định trong pháp luật thương mại có tính chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về hợp đồng (như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên, chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng...). Với tư cách là hình thức pháp lý của quan hệ thương mại, hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có những đặc điểm nhất định để nhận biết và phân biệt với các loại hợp đồng khác.
Thứ nhất, về chủ thể: hợp đồng trong kinh doanh, thương mại được thiết lập giữa các chủ thể là thương nhân. Theo quy định của Luật Thương mại, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Điểm mấu chốt là tất cả chủ thể của quan hệ hợp đồng kinh doanh, thương mại (thương nhân) đều phải có đăng ký kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Luật Thương mại quy định về thương nhân nói chung và thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Thứ hai, về hình thức: hợp đồng kinh doanh, thương mại có thể được thiết lập dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong những trường hợp nhất định, pháp luật bắt buộc các bên phải thiết lập hợp đồng kinh doanh, thương mại bằng hình thức văn bản (Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo, hội chợ, triển lãm thương mại...). Luật Thương mại cho phép các bên hợp đồng có thể thay thế hình thức thức văn bản bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu.
Thứ ba, về nội dung và mục đích của hợp đồng kinh doanh thương mại: mục đích của các bên trong hợp đồng kinh doanh, thương mại là lợi nhuận. Trường hợp có chủ thể hợp đồng không nhằm mục đích lợi nhuận giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thì hợp đồng được áp dụng Luật Thương mại khi bên không nhằm mục đích lợi nhuận lựa chọn áp dụng Luật Thương mại.
Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có thể chia thành những nhóm chủ yếu như sau:
Một là, hợp đồng mua bán hàng hóa: Hợp đồng mua bán hàng hóa không có yếu tố quốc tế; hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu) và hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa (hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn).
Hai là, hợp đồng dịch vụ: Hợp đồng cung ứng dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa (hợp đồng trong các hoạt động xúc tiến thương mại, trung gian thương mại, các hoạt động thương mại cụ thể khác); các hợp đồng cung ứng dịch vụ chuyên ngành (hợp đồng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, đào tạo, du lịch...).
Ba là, những hợp đồng trong các hoạt động đầu tư thương mại đặc thù khác (hợp đồng giao nhận thầu xây lắp, hợp đồng chuyển nhượng dự án khu đô thị mới, khu nhà ở, dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp...).
2. Vai trò của hợp đồng thương mại đối với doanh nghiệp
- Hợp đồng thương mại là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động thương mại cho khách hàng: Các doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động dựa trên một cam kết cụ thể, và hợp đồng thương mại chính là công cụ, là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp này thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Thông qua hợp đồng, các doanh nghiệp bước vào một thỏa thuận với những đối tác của mình thông qua niềm tin mà chúng ta gọi là luật để đảm bảo rằng những thỏa thuận cung cấp hàng hóa, dịch vụ đó sẽ được thực hiện. Hợp đồng thương mại sẽ bao gồm cả một quá trình đàm phán liên quan đến rất nhiều điều khoản mà các bên phải tính tới. Quá trình đàm phán có thể mất nhiều ngày, nhiều tuần hoặc nhiều tháng phụ thuộc vào nội dung và sự hợp tác của các bên. Hợp đồng thương mại còn là quá trình đấu tranh nhằm thay đổi hoặc thêm bớt trong thỏa thuận. Trên cơ sở những thỏa thuận đã đạt được, doanh nghiệp sẽ xác định cụ thể về sản phẩm mình cung cấp như thế nào, sự thỏa thuận đó đảm bảo sự bình đẳng thực sự của các bên, thể hiện ý chí nguyện vọng của họ và góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Hợp đồng thương mại là cơ sở để doanh nghiệp xác định quyền và nghĩa vụ của mình. Trong một chừng mực nào đó, hợp đồng thương mại cho phép các doanh nghiệp tạo ra một luật lệ riêng – thông qua những điều khoản của thỏa thuận mà các bên đã giao kết – điều chỉnh mối quan hệ giữa doanh nghiệp và đối tác. Bên cạnh những quyền và nghĩa vụ cơ bản mà pháp luật quy định về hợp đồng thì các bên sẽ quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ như thời hạn hợp đồng, mức độ hài lòng được đánh giá như thế nào, tiến độ thanh toán, trách nhiệm của các bên nếu không thực hiện cam kết của mình.
Hợp đồng có giá trị pháp lý như luật (contract = law) là công thức để giúp cho các doanh nghiệp có cơ sở bảo vệ các lợi ích hợp pháp của mình khi có tranh chấp xảy ra. Nếu như sự an toàn của con người, tài sản được bảo đảm trên cơ sở những quy định trong Bộ Luật hình sự thì sự an toàn và trật tự trong thế giới kinh doanh lại phụ thuộc vào hợp đồng. Trong kinh doanh, để đi đến hợp đồng là điều khó, nhưng để hoàn thành một hợp đồng mà các bên đều hài lòng lại là điều khó hơn, thực vậy, khi ký kết hợp đồng các doanh nghiệp không thể lường trước hết mọi tình huống sẽ xảy ra trong tương lai, nguyên nhân dẫn đến việc không hoàn thành hay không thực hiện những thỏa thuận có thể là khách quan nhưng cũng có thể là chủ quan dẫn để dẫn đến tranh chấp. Vì vậy, hợp đồng thương mại sẽ giúp cho các bên xác định được ai sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp của mình và các cơ quan giải quyết tranh chấp là tòa án hay trọng tài cũng không thể giải quyết một vụ tranh chấp nếu không có bằng chứng về sự thỏa thuận, cam kết của các bên và một lần nữa hợp đồng hợp đồng thương mại sẽ trở nên vô cùng quan trọng để qua đó cơ quan giải quyết tranh chấp sẽ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp.
- Hợp đồng thương mại là công cụ quan trọng để doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh của mình trong hoạt động kinh doanh: Tài chính là một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông qua hợp đồng, các doanh nghiệp dịch vụ sẽ xác định được chi phí, giá cả theo một thời gian nhất định trong quá trình hợp tác kinh doanh, tránh được những rủi ro tiềm ẩn trong việc tăng chi phí khi hoạt động. Từ đó giúp cho doanh nghiệp xây dựng được kế hoạch tài chính chủ động, là điều quan trọng nhất trong việc thực hiện chiến lược cạnh tranh tổng quát của doanh nghiệp. Hợp đồng thương mại sẽ giúp doanh nghiệp loại bỏ được những đối tác có tư duy “ăn thật làm giả” khi tham gia vào thị trường. Tuy nhiên, thông qua hợp đồng các doanh nghiệp chân chính sẽ được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của mình từ đó tránh được những nguy cơ bị lường gạt. Ngoài ra, hợp đồng giúp doanh nghiệp xây dựng uy tín và thương hiệu. Việc thực hiện đúng, tốt những cam kết, thỏa thuận trong hợp đồng sẽ mang tới sự thỏa mãn, tin tưởng cho khách hàng, đối tác của doanh nghiệp và chính họ sẽ là cầu nối cho doanh nghiệp với những khách hàng, đối tác mới, từ đó giúp doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh
Những thỏa thuận trong hợp đồng sẽ là cơ sở để doanh nghiệp rằng buộc và giữ chân những khách hàng của mình và gia tăng thị trường: khi kinh tế phát triển, sẽ kéo theo số lượng doanh nghiệp tham gia vào thị trường sẽ gia tăng, đồng thời sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng lớn. Hợp đồng trước tiên sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ chân được cách khách hàng cũ của mình, thông qua các điều khoản ràng buộc về thời gian và cách thức hợp tác. Sau đó nó cũng là công cụ để lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh bằng những thỏa thuận mang tính thuyết phục đối với các bên. “Thương trường là chiến trường” là câu ngạn ngữ mà các thương nhân đều nắm được và hợp đồng là “vũ khí” cho các thương nhân trong chiến trường đó. Trong hoạt động kinh tế, khi một giám đốc doanh nghiệp cầm bút ký tên vào một hợp đồng thương mại dịch vụ mà không đọc nghiên cứu kỹ, có sơ hở, sẽ có thể dẫn đến thiệt hại cực kỳ to lớn, bởi vì khi một hợp đồng đã được ký kết thì nó có hiệu lực pháp luật đối với cả hai bên. Do đó, nắm vững về hợp đồng là đã nâng cao một phần lớn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hợp đồng thương mại sẽ cơ sở để doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm và ký kết các hợp đồng khác. Khi sản xuất phát triển, bên cạnh việc thường xuyên tham gia vào các hợp đồng mua bán, các doanh nghiệp sản xuất luôn chú trọng tham gia vào các quan hệ để bảo đảm cung ứng những điều kiện cần thiết cho sản xuất, vận tải, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, tăng năng suất lao động, cải tiến các dây chuyền sản xuất và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt xã hội do đó nhu cầu cần các hoạt động dịch vụ bổ trợ cũng sẽ tuân theo ví dụ như dịch vụ phân phối, dịch vụ đại diện, logicstic cũng tăng lên và hợp đồng thương mại dịch vụ sẽ là cơ sở để các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm.
Hợp đồng thương mại là công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài.
Cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì hoạt động kinh doanh không chỉ gói gọn trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia mà được rộng sang thị trường quốc tế. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận mở rộng thị trường cung cấp dịch vụ của mình. Thâm nhập thị trường dịch vụ nước ngoài không phải là điều dễ làm khi ở một môi trường mới khác biệt về văn hóa, pháp luật, chính trị. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nắm bắt những cơ hội mà mình có được, đồng thời phải đảm bảo cho mình những quyền lợi, lợi ích và loại bỏ những rủi ro tiềm tàng trong kinh doanh, hợp đồng vẫn chính là câu trả lời cuối cùng cho những mục tiêu đó. Ở chiều ngược lại, Việt Nam hiện nay cũng là điểm đến của nhiều doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp này mang đến nhiều nét mới cho thị trường dịch vụ ở Việt Nam, việc giao kết những hợp đồng với các doanh nghiệp này sẽ giúp cho doanh nghiệp Việt Nam đặt nền móng cho mối quan hệ với công ty có quy mô lớn, từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển ra nước ngoài. Trong thương trường quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam vẫn bị đánh giá là yếu thế hơn về tiềm lực tài chính, quan hệ bạn hàng do đó chúng ta thường bị rơi vào tình trạng bị động trong quá trình đàm phàn. Pháp luật của các nước hiện nay đều thừa nhận sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng dù thỏa thuận đó là không công bằng, ở một số nước có quy định loại bỏ những điều khoản mang tính không công bằng đó nhưng chỉ đối với loại hợp đồng giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng ví dụ như theo điều khoản Luật về các điều khoản không công bằng của Anh năm 1977 (Unfair Contract Term Act 1977) hoặc Luật mua bán hàng hóa và dịch vụ của Australia năm 1982 (Supply of Good and services Act 1982) không cho phép các doanh nghiệp đưa vào hợp đồng những điều khoản bất công trong hợp đồng nhằm loại bỏ trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. Do đó, thông qua hợp đồng thương mại dịch vụ thì doanh nghiệp mới tránh rơi vào tình trạng bị chèn ép trong kinh doanh và nó sẽ là công cụ bảo vệ cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài.
Nguồn tin: Trích - ThS. Hà Công Anh Bảo
Chúng tôi trên mạng xã hội