a. Định nghĩa: Cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là hành vi cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác.
Cưỡng ép kết hôn là dùng mọi thủ đoạn bắt buộc người khác (bên nam, bên nữ hoặc cả hai bên) phải kết hôn trái với ý muốn của họ.
Cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản việc kết hôn của người có đủ điều kiện kết hôn theo luật định hoặc có hành vi cản trở người khác duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc buộc họ phải cắt đút quan hệ hôn nhân đó.
Hành vi cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc thủ đoạn khác.
a) Hành hạ, ngược đãi là đối xử tàn ác, tồi tệ đối với người khác gây đau khổ về thể xác hoặc tinh thần kéo dài, như: thường xuyên đánh đập (có thể không gây thương tích), giam hãm, bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, nhiếc móc, làm nhục v.v... nhằm mục đích cưỡng ép việc kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. Cần lưu ý rằng, hành vi hành hạ, ngược đãi là thủ đoạn của tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, cho nên không truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội hành hạ, ngược đãi quy định tại Điều 110 hoặc Điều 151 BLHS.
b) Uy hiếp tinh thần là đe dọa sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, tài sản hoặc lợi ích thiết thân của người bị đe doạ làm cho người đó có căn cứ để lo sợ thực sự mà phải chịu khuất phục như đe doạ sẽ đốt nhà, giết người thân, tiết lộ bí mật đời tư của người bị đe doạ, bố mẹ hoặc người thân trong gia đình đe doạ sẽ tự tử nếu hai bên nam nữ lấy nhau, con đe doạ là sẽ bỏ nhà hoặc tự tử nếu bố, mẹ lấy vợ, lấy chồng mới v.v...
c) Yêu sách của cải là đòi hỏi của cải một cách quá đáng, không nhân nhượng và coi đó là một trong những điều kiện để được kết hôn nhằm cản trở hôn nhân tự nguyện giữa đôi bên nam nữ.
d) Thủ đoạn khác có thể là buộc một bên hoặc cả hai bên đi xa nhằm chia rẽ họ; bắt cóc người không muốn lấy mình làm vợ hoặc làm chồng để buộc họ phải kết hôn trái ý muốn; một bên gia đình tiến hành dựng vợ, gả chồng cho người thân của mình với người khác trái với ý muốn của người đó nhằm chia rẽ người thân đó với người mà họ muốn tự nguyện kết hôn; v.v...
b. Dấu hiệu pháp lý
- Khách thể: tội phạm xâm phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện tiến bộ của luật hôn nhân và gia đình. Đối tượng của tội phạm này là hành vi của người bị cưỡng ép hoặc người bị cản trở kết hôn.
- Khách quan:
Điều luật quy định hai hành vi phạm tội khác nhau là cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân. Tương ứng, người phạm tội có hai hành vi sau:
+ Cưỡng ép kết hôn là hành vi bắt buộc người khác phải lấy vợ hoặc lấy chồng trái với ý muốn, sự tự nguyện của họ.
+ Cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ là hành vi ngăn cản đôi bên trai gái không được kết hôn theo ý muốn của họ, trong khi họ có đủ điều kiện kết hôn theo luật định; hoặc là hành vi ngăn cản người khác duy trì quan hệ hôn nhân hợp pháp, nghĩa là bắt hai bên hoặc một trong hai bên chấm dứt quan hệ hôn nhân hợp pháp đó.
Người phạm tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân bằng một trong các thủ đoạn sau:
+ Hành hạ: là hành vi đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình như đánh đập, gây đau đớn về thể chất nhưng chưa đến mức gây thương tích hoặc tổn hại đáng kể đến sức khoẻ của nạn nhân nhưng lại diễn ra thường xuyên, có hệ thống.
+ Ngược đãi: là hành vi đối xử tàn tệ với người lệ thuộc, nhằm gây ra những đau khổ về tinh thần kéo dài, như thường xuyên mắng chửi, hành hạ, làm nhục, xỉ vả, đuổi ra khỏi nhà hoặc nhốt trong phòng...
Đối với hai hành vi này, dấu hiệu khách quan cũng giống như hành hạ hoặc ngược đãi trong một số tội phạm khác (hành hạ người khác, bức tử, ngược đãi ông bà…) nhưng chỉ khác ở mục đích. Mục đích của hành vi khách quan trong tội phạm này là nhằm cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân.
+ Uy hiếp tinh thần: là hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, tài sản hoặc đe doạ sẽ không cho hưởng một lợi ích quan trọng thiết thân nào đó làm cho người bị đe doạ có căn cứ lo sợ thực sự.
+ Yêu sách của cải: là hành vi cố tình “thách cưới” cao làm cho bên bị “thách cưới” không thể lo liệu được để lấy cớ không cho kết hôn. Cần phân biệt thủ đoạn này với tệ “thách cưới” thông thường là một hiện tượng vẫn còn tương đối phổ biến trong xã hội. Khi đó, việc “thách cưới” không nhằm cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân và việc “thách cưới” này không gây khó khăn đáng kể cho bên bị “thách cưới”.
+ Những thủ đoạn khác là những thủ đoạn bất hợp pháp nhằm cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện.
Không phải mọi hành vi cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đều bị xét xử về hình sự. Chỉ khi nào những hành vi đó đạt đến một mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội mới bị xử lý về hình sự. Chỉ những hành vi nào đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm, hành vi mới bị coi là tội phạm và bị xử lý hình sự.
Tội phạm này có cấu thành hình thức nên hành vi phạm tội hoàn thành khi người phạm tội có một trong những hành vi kể trên đã bị xử phạt hành chính về hành vi này (không cần hậu quả), nay lại vi phạm thì mới xử lý hình sự.
- Chủ quan: tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích nhằm cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Nếu không có mục đích này, chúng ta có thể xem xét các tội phạm khác tại Điều 100, 110, 121, 151…
- Chủ thể: bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định. Thông thường chủ thể là những người có quyền nhất định đối với người kết hôn (trong quan hệ huyết thống, công tác, tôn giáo…). Đây là tội phạm ít nghiêm trọng, cho nên người từ đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
c. Hình phạt:
Người phạm tội này có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm.
Chúng tôi trên mạng xã hội