Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 Bộ luật hình sự)

Thứ hai - 02/06/2014 00:22
a. Định nghĩa: Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trường hợp giết người do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội.
 
b. Dấu hiệu pháp lý
 
- Khách thể:
Hành vi phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh xâm phạm tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.
- Mặt khách quan:
Người phạm tội thực hiện hành vi giết người trong điều kiện khách quan là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây ra đối với người phạm tội hoặc đối với thân nhân của người phạm tội làm cho người phạm tội rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
Hành vi trái pháp luật   nghiêm trọng nói ở đây có thể cấu thành một tội phạm hoặc cũng có thể không hoặc chưa đến mức cấu thành một tội phạm. Nhưng dù ở trường hợp nào thì hành vi đó cũng phải có tình chất là trái pháp luật nghiêm trọng. Nếu hành vi của nạn nhân tuy là trái pháp luật nhưng không nghiêm trọng mà có tính chất nhỏ nhặt thì không thuộc trường hợp này mà có thể thuộc trường hợp phạm tội giết người theo Điều 93 Bộ luật hình sự  và bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân được coi là tình tiết giảm nhẹ theo điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể là một hành vi cụ thể và tức thì dẫn đến tình trạng tinh thần bị kích động mạnh. Nhưng cũng có thể hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là một chuỗi các hành vi khác nhau diễn ra có tính lặp đi lặp lại trong thời gian dài và liên tiếp tác động đến tinh thần người phạm tội, làm cho họ bị dồn nén về mặt tâm lý, và đến một thời điểm nào đó khi có một hành vi trái pháp luật cụ thể xảy ra thì trạng thái tinh thần của người phạm tội bị đẩy đến cao độ và người phạm tội lâm vào tình trạng tinh thần bị kích động mạnh. Trong trường hợp này, nếu chỉ xét một hành vi cụ thể ngay liền trước trạng thái tinh thần bị kích động mạnh sẽ không thấy được hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể là đối với chính người phạm tội hoặc có thể là đối với người khác có quan hệ tình cảm thân thuộc với người phạm tội. Tuy nhiên, dù hành vi trái pháp luật của nạn nhân đối với người phạm tội hay người thân của người phạm tội thì cũng phải dẫn đến người phạm tội bị mất khả năng tự chủ. Tình trạng mất tự chủ này diễn ra trong chốc lát rồi biến mất. Nếu người phạm tội trong trường hợp vẫn còn suy nghĩ và kiềm chế được mình mà vẫn giết người thì phải định tội giết người với tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Một yêu cầu nữa là giữa hành vi trái pháp luật của nạn nhân với tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội phải có mối quan hệ nhân quả. Thật ra, hành vi trái pháp luật như thế nào mới dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh, không có một chuẩn mực chung nào. Để xác định, chúng ta cần xem xét từng trường hợp cụ thể với những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định. Chẳng hạn, cũng chỉ với việc thấy vợ mình ngoại tình, có ông chồng vác dao chém tình địch, có ông chồng gọi vợ về khuyên răn, có ông chồng viết đơn ly hôn...
Chú ý: đây là hành vi phạm tội không có giai đoạn chuẩn bị hoặc chưa đạt. Vì thế, chỉ có thể định tội này khi hậu quả chết người đã xảy ra. Vì vậy, không có người bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở giai đoạn chuẩn bị hoặc chưa đạt.
 Có nhiều quan điểm khác nhau về trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Có quan điểm cho rằng, tình trạng tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng (tâm lý) không hoàn toàn tự chủ, tự kiềm chế được hành vi của mình.6 Gần giống với quan điểm đầu tiên là quan điểm cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là tình trạng ý thức bị hạn chế ở mức độ cao do không chế ngự được tình cảm dẫn đến sự hạn chế đáng kể khả năng kiểm soát và điều khiển hành vi.7 Như vậy, hai quan điểm này đều thừa nhận trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái mà tâm lý bị ức chế ở mức độ cao nên dẫn đến nhận thức bị hạn chế làm giảm đáng kể khả năng điều khiển hành vi, nhưng vẫn còn khả năng điều khiển hành vi của mình. Quan điểm thứ ba cho rằng, trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là trạng thái của một người không còn nhận thức đầy đủ về hành vi của mình như lúc bình thường nhưng chưa mất hẳn khả năng nhận thức. Lúc đó, họ mất khả năng tự chủ và không thấy hết được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình; trạng thái tinh thần của họ gần như người điên (người mất trí). Đây là cơ sở để phân biệt với trường hợp phạm tội do tinh thần bị kích động.8 Theo quan điểm này, người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dù chưa mất hoàn toàn khả năng nhận thức nhưng mất khả năng tự chủ - khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của mình.
Theo chúng tôi, hai quan điểm đầu có vẻ hợp lý hơn. Một người dù chịu sự tác động mạnh mẽ về mặt tâm lý nhưng khả năng nhận thức vẫn còn, nghĩa là khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ vẫn còn. Nếu khả năng kiềm chế và điều khiển hành vi của họ mất thì có thể coi họ là một trong những trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự. Điều 13 Bộ luật hình sự quy định nếu một người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác (nguyên nhân khách quan) mà dẫn đến mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi thì được xem là người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Việc người phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đâu phải do họ muốn mà nguyên nhân xuất phát từ người bị hại. Như vậy, có thể coi việc họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi là nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Nếu xem họ mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi thì họ sẽ không chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm của mình. 
Thực tế, chỉ có thể xảy ra trường hợp một người vẫn còn khả năng nhận thức mà mất khả năng tự kiềm chế và điều khiển hành vi của mình do cơ chế sinh học hoặc một bệnh nào đó làm tổn hại bộ phận điều khiển hành vi của não bộ. Những tác động tâm lý dù có mạnh mẽ đến đâu cũng không thể làm cho một người mất khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình.
Có thể lý giải vì sao trong trường hợp bình thường họ không phạm tội mà trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh họ phạm tội thông qua mức độ nhận thức của họ trong lúc này. Bình
thường, họ nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được điều đó là sai, trái pháp luật, phải gánh lấy trách nhiệm pháp lý nên họ kiềm chế hành vi của mình. Tuy nhiên, trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, mức độ nhận thức của họ giảm đi đáng kể. Họ vẫn có thể nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội ở mức độ nào đó, nhận thức một cách khái quát về hậu quả mà họ không quan tâm đến, không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật cũng như không nhận thức được sẽ phải gánh lấy hậu quả pháp lý từ hành vi của mình. Thực tế đó làm giảm đi đáng kể khả năng tự chủ và điều khiển hành vi của mình (chứ không phải mất hẳn khả năng đó) và kết quả là có hành vi phạm tội xảy ra. 
Với cách hiểu này, xét ở góc độ chủ quan người phạm tội, có thể phân biệt “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” và “trạng thái tinh thần bị kích động” ở mức độ nhận thức của người phạm
tội khi thực hiện hành vi. Khi thực hiện hành vi, nếu người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, có thể gây ra hậu quả nào cụ thể, bất chấp việc hành vi của mình có trái pháp luật và mình phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không thì có thể coi đây là trường hợp “trạng thái tinh thần bị kích động”. Làm sáng tỏ điểm này phải căn cứ vào từng đối tượng cụ thể. Có đối tượng trong trường hợp đó là bị kích động mạnh nhưng đối với đối tượng khác thì không. Ví dụ, khi phát hiện vợ mình ngoại tình với người khác tại nhà mình, có người vác dao chém đôi gian phu gian phụ. Tuy nhiên, có người bình tĩnh yêu cầu đôi gian phu gian phụ mặc đồ vào nói chuyện nghiêm túc. 
Ngoài ra, còn có thể dựa vào nguyên nhân dẫn đến “trạng thái tinh thần bị kích động” để xác định tinh thần có bị kích động mạnh hay không. Nguyên nhân làm cho “tinh thần bị kích động mạnh” là hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân. Trong khi đó, nguyên nhân làm cho “trạng thái tinh thần bị kích động” là hành vi trái pháp luật của nạn nhân hoặc của người khác. Tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật của nạn nhân là một căn cứ để xem tinh thần của người phạm tội có bị kích động mạnh hay không. Khi xem xét tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật cần đánh giá một cách toàn diện về cả cường độ lẫn số lượng của hành vi. Có trường hợp hành vi có cường độ mạnh nhưng chỉ xảy ra một lần cũng đủ để dẫn đến kích động mạnh. Hoặc, hành vi dù cường độ thấp nhưng xảy ra nhiều lần cũng có thể dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh.
Khi phân tích CTTP của hai tội phạm quy định tại Điều 95 và 105 Bộ luật hình sự, một vấn đề khác nảy sinh là việc xác định yếu tố chủ quan - lỗi của người phạm tội.
Điều 95 quy định tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau: “Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó…”.
Điều 105 quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh như sau: “Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó…”.
Đa số các tài liệu khi phân tích về hai tội phạm này đều thừa nhận lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp hoặc gián tiếp. Quan điểm này xuất phát từ sự phân tích mặt chủ quan của tội giết
người (Điều 93) và tội ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104).
Tuy nhiên, qua việc phân tích “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” cho thấy, khi phạm tội,người phạm tội không nhận thức rõ hậu quả nguy hiểm cho xã hội nào sẽ xảy ra từ hành vi của mình và do đó cũng không thể nói họ mong muốn hậu quả cụ thể nào đó xảy ra. Trong khi đó, để xác định người phạm tội có lỗi cố ý trực tiếp thì khi thực hiện hành vi họ phải nhận thức được hậu quả chết người/thương tích, tổn hại sức khoẻ sẽ xảy ra từ hành vi của mình, mong muốn hậu quả đó xảy ra. Vì vậy, đối với hai tội phạm này, chỉ có thể nói người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp trong khi thực hiện tội phạm. Khẳng định này có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét hai tội phạm này có giai đoạn tội phạm chưa hoàn thành hay không. Theo đó, hai tội phạm này sẽ không có giai đoạn chưa hoàn thành. Bởi vì, giai đoạn chưa hoàn thành chỉ xảy ra đối với các tội phạm có dấu hiệu chủ quan là lỗi cố ý trực tiếp.9
Qua một số nội dung đã phân tích ở trên, việc xác định đặc điểm đặc trưng của hai CTTP của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95 Bộ luật hình sự) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105 Bộ luật hình sự) dựa theo Bộ luật hình sự hiện hành có điểm vướng mắc.
Theo quy định hiện hành, căn cứ vào bản chất của “tình trạng tinh thần bị kích động mạnh”, giữa hai tội này không thể phân biệt được khi dựa vào dấu hiệu chủ quan, nghĩa là dựa vào lỗi của
người phạm tội đối với hậu quả. Bởi vì, như đã phân tích người phạm tội không nhận thức r õ hành vi của mình có thể gây ra hậu quả cụ thể nào (chết người hay thương tích/tổn hại sức khoẻ). Khi thực hiện hành vi, họ chỉ nhận thức một cách khái quát về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả từ hành vi đó gây ra. Thực tế xảy ra hậu quả gì thì họ chấp nhận hậu quả đó. Do đó, chỉ có thể phân biệt hai CTTP này thông qua dấu hiệu hậu quả. Nếu hậu quả chết người xảy ra có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội thì đó là tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95). Nếu hậu quả xảy ra chỉ là thương tích thì đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105).
Cũng có quan điểm cho rằng, nếu sau khi phạm tội, hậu quả xảy ra ngay hoặc sau đó vài giờ thì đó là tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Nếu hậu quả chết người xảy ra sau một thời gian nhất định thì đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Quan điểm phân biệt này không có cơ sở khoa học. 
Như vậy, căn cứ vào bản chất của “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, hậu quả thực tế xảy ra là cơ sở quan trọng nhất để phân biệt hai CTTP nói trên. Tuy nhiên, theo sự mô tả của hai điều
luật trên trong Bộ luật hình sự hiện hành, chúng ta gặp khó khăn trong việc phân biệt chúng. Vấn đề này xảy ra khi nghiên cứu CTTP cơ bản của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (khoản 1 Điều 95) và CTTP tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (khoản 2 Điều 105) vì cả hai CTTP đều chứa đựng hậu quả chết người.10 Như đã phân tích, khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội trong cả hai trường hợp đều không nhận thức rõ hành vi của mình có thể gây ra hậu quả cụ thể nào (chết người hay thương tích/tổn hại sức khoẻ) vì khi đó khả năng nhận thức của họ đã giảm đi đáng kể. Do đó, việc xác định trường hợp nào là cố ý đối với hậu quả chết người (giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh) hay vô ý với hậu quả chết người (cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh dẫn đến chết người) là điều không khả thi. Giải quyết vấn đề này, theo chúng tôi, nhà làm luật nên nghiên cứu bỏ dấu hiệu hậu quả “chết người” trong CTTP tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (điểm b khoản 2 Điều 105). Như vậy, điểm b khoản 2 Điều 105 sau khi được sửa đổi nên là: “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác”.
Theo quy định sửa đổi đó, mọi hành vi tấn công người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà có hậu quả chết người thì thỏa mãn CTTP của tội phạm quy định tại Điều 95, nghĩa là phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Nếu hành vi tấn công người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà chỉ có hậu quả thương tích/tổn hại sức khoẻ thì thuộc CTTP của tội phạm quy định tại Điều 105, phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Có như thế người áp dụng mới không gặp lúng túng khi định tội đối với hai tội phạm này.
Một bất cập nữa đối với hai điều luật này phát sinh ở việc quy định chế tài. Theo khoản 1 Điều 95, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể bị phạt tù từ sáu tháng đến ba
năm. Trong khi đó, khoản 2 Điều 105 quy định gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm. Nếu cân nhắc tính nguy hiểm cho xã hội của hai trường hợp này dựa trên dấu hiệu khách quan (hậu quả) được quy định trong hai CTTP có thể thấy trường hợp phạm tội được quy định tại khoản 2 Điều 105 rõ ràng có tính nguy hiểm thấp hơn (hoặc tối đa là bằng) trường hợp phạm tội theo khoản 1 Điều 95. Bởi vì hậu quả được mô tả trong khoản 1 Điều 95 là “chết người”; hậu quả tại khoản 2 Điều 105 là “thương tích với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên…hoặc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác” (ý muốn nói những trường hợp này có cùng bản chất nguy hiểm với trường hợp được mô tả - tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên).
Trong khi bản chất nguy hiểm cho xã hội của hai trường hợp phạm tội là vậy nhưng hình phạt quy định kèm theo không có sự tương xứng. Khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 105 nghiêm khắc hơn (từ một năm đến năm năm) khung hình phạt tại khoản 1 Điều 95 (từ sáu tháng đến ba năm). Điều này không đảm bảo nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt cũng như nguyên tắc công bằng trong Luật hình sự. Cho nên, theo chúng tôi, nhà làm luật nên sửa đổi khung hình phạt của tội phạm quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự hiện hành. Theo đó, khung hình phạt của tội phạm quy định tại Điều 105 sau khi được sửa đổi nên là:
 “1….thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2….thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm…”
 
Có như thế mới đảm bảo được nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt, đảm bảo công bằng về mặt lập pháp đối với hai hành vi phạm tội này, tạo cơ sở pháp lý cho người áp dụng thực hiện triệt để việc cá thể hoá hình phạt đối với người phạm tội.
 
- Mặt chủ quan:
Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
- Chủ thể:
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đang trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân gây ra cho chính họ hoặc cho người thân thích của họ.
 
c. Hình phạt chia thành 2 khung:
 
- Trường hợp giết một người: người phạm tội có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
- Trường hợp giết nhiều người: người phạm tội có thể bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm.
Để xác định là trường hợp người phạm tội giết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, hành vi trái pháp luật của các nạn nhân bị giết phải đều có mối quan hệ nhân
quả với tình trạng tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội. Nếu trong số những nạn nhân bị giết, chỉ có một người có hành vi trái pháp luật khiến nạn nhân bị kích động mạnh,
những nạn nhân khác không có thì người phạm tội phải bị xét xử thêm tội giết người (Điều 93). 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây