Pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài

Thứ ba - 24/06/2014 05:46
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ngày càng phổ biến (cả kết hôn và ly hôn). Cơ chế pháp lý của Việt Nam điều chỉnh vấn đề này được đặt ra từ năm 1986, tuy nhiên sự điều chỉnh chỉ trong quy mô khái quát và còn nhiều hạn chế. Theo tiến trình phát triển của xã hội cũng như việc cải cách hệ thống pháp luật Việt Nam thì quy chế pháp lý cho lĩnh vực này ngày càng được hoàn thiện.
1. Giới thiệu khung pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Ở Việt Nam trước đây hôn nhân có yếu tố nước ngoài là một loại quan hệ không phổ biến. Tuy nhiên, trong gần hai thập kỷ qua, đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hôn nhân có yếu tố nước ngoài không còn là hiện tượng hiếm hoi trong đời sống xã hội. Hiện nay thậm chí có nơi, có lúc hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến. Cũng như mọi quan hệ khác, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan tới quan hệ này trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết.
Văn bản pháp lý trong nước đầu tiên của Việt Nam ghi nhận các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là Luật Hôn nhân và gia đình (LHNGĐ) năm 1986. Trên cơ sở của các quy định này, nhiều văn bản pháp luật quan trọng về hôn nhân có yếu tố nước ngoài lần lượt ra đời. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp (HĐTTTP) với các nước mà mở đầu là HĐTTTP với Cộng hòa dân chủ Đức (cũ) vào năm 1980. Tính đến nay Việt Nam đã ký kết 14 HĐTTTP với các nước. Trong các hiệp định này vấn đề liên quan tới việc giải quyết quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được ghi nhận. Có thể nói, nội dung của các văn bản pháp luật trong nước và các điều ước quốc tế trên đây đã đóng góp một phần rất quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Tuy nhiên, so với đòi hỏi thực tế của đời sống quốc tế, pháp luật của Việt Nam về vấn đề này vẫn cần được nghiên cứu để áp dụng có hiệu quả và bổ sung hoàn thiện.
Hiện nay, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được quy định tại LHNGĐ Việt Nam năm 2000. Luật này đã dành Chương XI quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài[1]. Theo quy định của LHNGĐ năm 2000[2] thì quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ mà có ít nhất một bên trong quan hệ hôn nhân là người nước ngoài hoặc các chủ thể cùng quốc tịch nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước nước ngoài. Một trong những đặc trưng cơ bản của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng là vấn đề xung đột phát luật[3] nên LHNGĐ Việt Nam năm 2000 đã xây dựng được một số quy phạm xung đột[4], mục đích là giúp cho các cơ quan có thẩm quyền xác định hệ thống văn bản được áp dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh.
Cần lưu ý rằng, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài không chỉ được điều chỉnh tại Chương XI của LHNGĐ Việt Nam năm 2000 mà còn được điều chỉnh ở các quy định khác của Luật như các quy định về điều kiện kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng, giải quyết ly hôn… và hệ thống các văn bản khác có liên quan như Bộ luật dân sự 2005, Luật Quốc tịch 2008, Luật Cư trú 2006, Bộ luật tố tụng dân sự 2004,... Ngoài các văn bản luật này, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài còn được điều chỉnh tại các văn bản hướng dẫn sau:
Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của LHNGĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
Nghị định 69/2006/NĐ-CP ngày 21/07/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của LHNGĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
- Nghị định số 158/2005/NĐ–CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch;
Nghị định 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình;
Chỉ thị 03/2005/CT-TTg ngày 25/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
Chỉ thị 05/2003/CT-UB ngày 20/02/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện Nghị định số 68/2002/CP của Chính phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của LHNGĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
Như vậy, có thể nhận thấy trong hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành LHNGĐ, phần nội dung về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đã được ban hành tạo khung pháp lý tương đối đầy đủ, toàn diện.
2. Quy định pháp luật Việt Nam về nguyên tắc, điều kiện kết hôn, hồ sơ, thủ tục đăng ký kết hôn, ly hôn trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài
2.1. Nguyên tắc quan hệ pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại Điều 2, LHNGĐ năm 2000, quan hệ hôn nhân nhân và gia đình nói chung, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng tại Việt Nam phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
“1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
 2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
4. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.
5. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.
6. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ”.
Đây là các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, thể hiện những quan điểm chủ đạo xuyên suốt trong các quy định của pháp luật. Những nguyên tắc chung của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam đều được áp dụng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó do tính đặc thù của quan hệ này, Điều 100 LHNGĐ còn quy định một số nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài:
“1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
2. Trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.
3. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nướcsở tại, pháp luật và tập quán quốc tế...”
Quy định này cho thấy Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trên cơ sở pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập (các điều ước quốc tế trong lĩnh vực này chủ yếu là các hiệp định tương trợ tư pháp, hiệp định lãnh sự) theo nguyên tắc “Trong trường hợp điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với nghị định này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó” (Điều 4 Nghị định số 68/2002/N Đ- CP).
Khoản 2 Điều 100 đã thể hiện tuyên bố của nhà nước Việt Nam về việc áp dụng chế độ đãi ngộ như công dân với người nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình giữa người nước ngoài với người Việt Nam trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.
2.2. Điều kiện kết hôn trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Theo quy định tại Điều 103, LHNGĐ “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn. Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn”.
Pháp luật Việt Nam đã lựa chọn hệ thuộc luật quốc tịch để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn - trong quan hệ kết hôn mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mà mình là công dân về điều kiện kết hôn. Ngoài ra, công dân nước ngoài đăng ký kết hôn tại Việt Nam ngoài việc tuân thủ pháp luật của nước mình còn phải tuân thủ pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, cụ thể là:
- Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
-Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn (Người đang có vợ hoặc có chồng; Người mất năng lực hành vi dân sự; Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với connuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; Giữa những người cùng giới tính (quy định tại Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2000).
2.3. Hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam[5]
Theo quy định tại Nghị định số 69/2006/NĐ-CP, hồ sơ đăng ký kết hôn của mỗi bên phải có các giấy tờ sau đây:
- Tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu quy định;
- Giấy xác nhận về tình trạng hôn nhân của mỗi bên, do cơ quan có thẩm quyền của nước mà người xin kết hôn là công dân cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại đương sự là người không có vợ hoặc không có chồng.
Trong trường hợp pháp luật của nước mà người xin kết hôn là công dân không quy định cấp giấy xác nhận về tình trạng hôn nhân thì có thể thay giấy xác nhận tình trạng hôn nhân bằng giấy xác nhận lời tuyên thệ của đương sự là hiện tại họ không có vợ hoặc không có chồng, phù hợp với pháp luật của nước đó;
- Giấy xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền của Việt Nam hoặc nước ngoài cấp chưa quá 06 tháng, tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận hiện tại người đó không mắc bệnh tâm thần hoặc không mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình;
- Bản sao có công chứng hoặc chứng thực giấy chứng minh nhân dân (đối với công dân Việt Nam ở trong nước), hộ chiếu hoặc giấy tờ thay thế như giấy thông hành hoặc thẻ cư trú (đối với người nước ngoài và công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài);
- Bản sao có công chứng hoặc chứng thực sổ hộ khẩu hoặc giấy chứng nhận nhân khẩu tập thể hoặc giấy xác nhận đăng ký tạm trú có thời hạn (đối với công dân Việt Nam ở trong nước), thẻ thường trú hoặc thẻ tạm trú hoặc giấy xác nhận tạm trú (đối với người nước ngoài ở Việt Nam).
Ngoài các giấy tờ trên, đối với công dân Việt Nam đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang hoặc đang làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật Nhà nước thì phải nộp giấy xác nhận của cơ quan, tổ chức quản lý ngành cấp Trung ương hoặc cấp tỉnh, xác nhận việc người đó kết hôn với người nước ngoài không ảnh hưởng đến việc bảo vệ bí mật Nhà nước hoặc không trái với quy định của ngành đó.
2.4. Thủ tục đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
2.4.1. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký[6]
Theo quy định, Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài thông qua cơ quan chuyên môn của UBND là Sở Tư pháp, hồ sơ đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài được nộp và giải quyết tại Sở Tư pháp tỉnh/thành phố,
 2.4.2. Trình tự, thủ tục
Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ và lệ phí, Sở Tư pháp có trách nhiệm[7]:
- Thực hiện phỏng vấn trực tiếp tại trụ sở Sở Tư pháp đối với hai bên nam, nữ để kiểm tra, làm rõ về sự tự nguyện kết hôn của họ, về khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ chung và mức độ hiểu biết về hoàn cảnh của nhau. Việc phỏng vấn phải được lập thành văn bản. Cán bộ phỏng vấn phải nêu rõ ý kiến đề xuất của mình và ký tên vào văn bản phỏng vấn;
- Niêm yết việc kết hôn trong 07 ngày liên tục tại trụ sở Sở Tư pháp, đồng thời có công văn đề nghị Uỷ ban nhân dân cấp xã, nơi thường trú hoặc tạm trú có thời hạn của bên đương sự là công dân Việt Nam, nơi thường trú của người nước ngoài tại Việt Nam, thực hiện việc niêm yết. Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết việc kết hôn trong 07 ngày liên tục tại trụ sở Uỷ ban, kể từ ngày nhận được công văn của Sở Tư pháp. Trong thời hạn này, nếu có khiếu nại, tố cáo hoặc phát hiện hành vi vi phạm pháp luật về việc kết hôn thì Uỷ ban nhân dân cấp xã phải gửi văn bản báo cáo cho Sở Tư pháp;
- Nghiên cứu, thẩm tra hồ sơ đăng ký kết hôn. Trong trường hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo đương sự kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp, kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, kết hôn vì mục đích trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, Sở Tư pháp tiến hành xác minh làm rõ;
- Báo cáo kết quả phỏng vấn các bên đương sự, thẩm tra hồ sơ kết hôn và đề xuất ý kiến giải quyết việc đăng ký kết hôn, trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, kèm theo 01 bộ hồ sơ đăng ký kết hôn.
Việc đăng ký kết hôn cũng bị từ chối, nếu kết quả phỏng vấn, thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp pháp; kết hôn giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững; kết hôn không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác.
Có thể nói rằng, quy định pháp luật Việt Nam tương đối chặt chẽ trong việc giải quyết hồ sơ kết hôn, các biện pháp phỏng vấn đương sự, thẩm tra, xác minh hồ sơ và quyền tư chối đăng ký kết hôn đã tạo cơ chế hữu hiệu cho việc kiểm soát tình trạng hôn nhân giả mạo, vi phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện.
2.5. Công nhận việc kết hôn đã được tiến hành ở nước ngoài
Nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp luật Việt Nam đã quy định về thủ tục công nhận việc kết hôn đã được tiến hành ở nước ngoài, theo đó:
“1. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau hoặc với người nước ngoài đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, phù hợp với pháp luật của nước đó thì được công nhận tại Việt Nam, nếu vào thời điểm kết hôn, công dân Việt Nam không vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn.
Trong trường hợp có sự vi phạm pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn, nhưng vào thời điểm yêu cầu công nhận việc kết hôn, hậu quả của sự vi phạm đó đã được khắc phục hoặc việc công nhận kết hôn đó là có lợi để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em thì việc kết hôn đó cũng được công nhận tại Việt Nam.
2. Việc công nhận kết hôn quy định tại khoản 1 Điều này được ghi chú vào sổ đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch. Trong trường hợp công dân Việt Nam vắng mặt khi làm thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thì khi có yêu cầu công nhận việc kết hôn đó tại Việt Nam, Sở Tư pháp tiến hành phỏng vấn các bên kết hôn để làm rõ sự tự nguyện kết hôn của họ” (Nghị định số 69/2006/NĐ-CP).
Có thể nhận thấy quy định về việc công nhận kết hôn đã được tiến hành ở nước ngoài còn khá đơn giản, lỏng lẻo, chưa đáp ứng được yêu cầu trong thực tế.
2.6. Ly hôn có yếu tố nước ngoài
Pháp luật Việt Nam đã lựa chọn quy phạm xung đột một bên, theo đó khẳng định pháp luật của nước sở tại sẽ được áp dụng để giải quyết việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể là Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Dân sự, LHNGĐ Việt Nam. Ngoài ra hệ thuộc luật nơi cư trú chung cũng được lựa chọn trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn, theo đó việc ly hôn sẽ được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.
Việc ly hôn trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài hiện nay được xem là một quyền dân sự của các bên trong quan hệ hôn nhân đó và được pháp luật bảo hộ, không có bất cứ một trở ngại nào. Trong trường hợp ly hôn một bên (quy định tại Điều 85 LHNGĐ 2000), người muốn ly hôn phải có nghĩa vụ chứng minh được trong hồ sơ ly hôn của mình rằng mục đích hôn nhân và mục đích sống chung giữa người đó và người chồng/vợ là không đạt được trong quá trình sống chung.
            Theo tinh thần của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đối với trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với công dân Việt Nam đã ra nước ngoài (bị đơn), tòa án phân biệt như sau:
            Thứ nhất, nếu có thể liên lạc được với bị đơn ở nước ngoài thông qua thân nhân của họ thì tòa án thông qua thân nhân đó gửi cho bị đơn ở nước ngoài lời khai của nguyên đơn, và yêu cầu họ phúc đáp về tòa án những lời khai hoặc tài liệu cần thiết cho việc giải quyết ly hôn. Căn cứ vào lời khai và tài liệu nhận được, tòa xét xử theo thủ tục chung.
            Thứ hai, nếu thực sự không liên hệ được với bị đơn ở nước ngoài thì tòa ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án, giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu TAND cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc đã chết. Đây là cơ sở để chấm dứt hôn nhân
            Thứ ba, nếu có căn cứ cho thấy thân nhân của bị đơn biết nhưng không cung cấp địa chỉ, tin tức bị đơn cho tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của tòa (ở phần thứ nhất) thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo. Đã yêu cầu đến lần thứ 2 mà thân nhân của họ vẫn không chịu hợp tác thì tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử, tòa án gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định, đồng thời niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở UBND cấp xã nơi cư trú cuối cùng của bị đơn, để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng.
            Nếu người nước ngoài đang ở nước ngoài (nguyên đơn) xin ly hôn với người Việt Nam mà người Việt Nam còn quốc tịch và đang cư trú tại Việt Nam, thì tòa án thụ lý giải quyết như sau: Trường hợp nguyên đơn là công dân của nước mà Việt Nam đã ký điệp định tương trợ tư pháp thì áp dụng hiệp định để giải quyết (nếu hiệp định quy định khác với luật trong nước), hoặc áp dụng LHNGĐ năm 2000 để giải quyết (nếu không có quy định khác). Trường hợp nguyên đơn là công dân của nước mà Việt Nam chưa ký kết hiệp định tương trợ tư pháp thì áp dụng Luật HNGĐ 2000 để giải quyết. Trong cả hai trường hợp trên, việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước đó. Trong trường hợp người Việt Nam không còn quốc tịch Việt Nam thì dù họ đang cư trú tại Việt Nam, tòa án cũng không thụ lý giải quyết. Vì việc này không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án Việt Nam. Trong trường hợp người nước ngoài sau khi kết hôn với người Việt Nam tại Việt Nam đã trở về nước và không quay trở lại, không liên lạc. Nếu người trong nước xin ly hôn thì tòa án xác minh địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài để liên hệ lấy lời khai. Nếu không liên lạc được và người nước ngoài không liên hệ với vợ hoặc chồng trong nước từ 01 năm trở lên thì tòa coi đó là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ. Vụ kiện xin ly hôn được xét xử vắng mặt bị đơn.
            Như vậy, có thể nhận thấy các quy định hiện hành về ly hôn có yếu tố nước ngoài đã tạo sự thuận lợi cho cả hai bên vợ, chồng, đảm bảo quyền lợi, công bằng cho các đối tượng có liên quan.
3. Một số đánh giá pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Có thể nói rằng quy định pháp luật Việt Nam đã quy định khá đầy đủ những vấn đề cơ bản về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, thể hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng quan hệ kết hôn tự nguyện, tiến bộ, chấp hành quy định của pháp luật Việt Nam. Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế sâu rộng, pháp luật về quan hệ hôn nhân và gia đình đã tạo khung pháp lý quan trọng để ghi nhận, bảo hộ các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài những thành tựu này, qua rà soát khung pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài cho thấy hệ thống pháp luật tồn tại một số điểm bất cập hạn chế sau:
Thứ nhất, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài chưa đầy đủ.
- Các quy định về điều kiện kết hôn trong Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam được áp dụng chung cho cả các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài mà chưa có những quy định riêng về các điều kiện kết hôn với người nước ngoài  (chẳng hạn quy định không quá chênh lệch về tuổi tác, có hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên tại thời điểm đăng ký kết hôn) .
-  Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/ NĐ-CP cho phép từ chối đăng ký kết hôn (điểm b, khoản 1 Điều 16) nhưng chưa có văn bản hướng dẫn xác định các căn cứ cụ thể để làm cơ sở cho việc từ chối (như trường hợp chênh lệch tuổi tác).
-  Chưa có những quy định hướng dẫn hoạt động của Trung tâm hỗ trợ kết hôn trong việc thực hiện chức năng tư vấn, môi giới hôn nhân.
- Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có những quy định về xác lập thông tin về tình hình sinh sống của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài (chẳng hạn pháp luật chưa có quy định việc bảo hộ cho công dân Việt Nam là phụ nữ Việt Nam sau khi kết hôn sang định cư ở Trung Quốc (Đài Loan), Hàn Quốc nên việc giúp đỡ các cô dâu Việt Nam khi gặp hoàn cảnh khó khăn còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân: trình độ thấp, không có thông tin về các cơ quan ngoại giao,…);
- Chưa có những quy định để giải quyết vướng mắc về hộ tịch cho trẻ em là con chung của phụ nữ Việt Nam và người nước ngoài khi theo mẹ về cư trú ở trong nước.
Thứ hai, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có những điểm chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
- Một số hệ thuộc luật áp dụng tại Chương XI của LHNGĐ chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Cơ chế về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Hỗ trợ kết hôn thuộc Hội liên hiệp phụ nữ chưa thực sự hiệu quả để các trung tâm này hoạt động có hiệu quả, góp phần bảo đảm việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đúng pháp luật và lành mạnh.
- Pháp luật chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng kết hôn giả tạo nhằm mục đích khác.
- Trước thực trạng kết hôn có yếu tố nước ngoài diễn biến phức tạp, những năm gần đây, Chính phủ đã chỉ đạo chấn chỉnh công tác quản lý và đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài. Tại Long An, năm 2006, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 52 quy định về thủ tục, trình tự và thời hạn giải quyết việc hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp tại Sở Tư pháp; Chỉ đạo Sở Tư pháp tăng cường thực hiện quy định về phỏng vấn các bên kết hôn trong thủ tục đăng ký kết hôn và thủ tục ghi chú. Trên cơ sở đó, Sở Tư pháp đã thành lập đội ngũ cán bộ phỏng vấn độc lập với Phòng nghiệp vụ đăng ký hộ tịch, nên đã hạn chế tiêu cực, lạm quyền trong quá trình giải quyết và nâng chất lượng phỏng vấn. Tỉnh cũng chỉ đạo ngành công an tăng cường thực hiện biện pháp xác minh để làm rõ các trường hợp kết hôn có nghi vấn. Công tác xác minh, phỏng vấn đã giúp cho việc giải quyết đúng pháp luật, loại trừ các trường hợp kết hôn giả tạo thông qua môi giới bất hợp pháp hoặc kết hôn nhằm mục đích khác. Đầu tháng 12.2007, UBND tỉnh tiếp tục ban hành Chỉ thị về tăng cường quản lý quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó áp dụng nhiều biện pháp như tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho phụ nữ, ngăn chặn, triệt phá các đường dây môi giới kết hôn; Tăng cường công tác phỏng vấn, xác minh, mạnh dạn từ chối giải quyết với những trường hợp kết hôn qua môi giới, kết hôn vội vã hoặc hai bên chưa giao tiếp được với nhau. Tuy nhiên, mọi cố gắng của địa phương cũng chỉ là tạm thời, bởi hiện nay Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều hạn chế, không theo kịp diễn biến thực tế của quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Điều địa phương trông chờ hiện nay là các Bộ, ngành nhanh chóng tham mưu cho Chính Phủ sửa đổi 2 văn bản quan trọng nói trên và có chỉ đạo kịp thời để chấn chỉnh quản lý công tác này trong thời gian tới[8].
Thứ ba, pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài có những điểm còn khó khăn trong việc áp dụng. Chẳng hạn quy định về công nhận và cho thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài về việc ly hôn của công dân Việt Nam với người nước ngoài tại Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 còn khó khăn trong việc áp dụng.
            Thứ tư, hệ thống phát luật còn thiếu vắng những thỏa thuận hợp tác, Hiệp  định tương trợ tư pháp với các nước[9] để tạo lập cơ chế hữu hiệu cho việc bảo hộ công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và sinh sống tại nước ngoài.
Để giải quyết những vấn đề xung đột pháp luật và bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân sinh sống ở nước khác, việc các nước ký kết các thỏa thuận hợp tác cấp nhà nước về dân sự, các Hiệp định tương trợ tư pháp là biện pháp hữu hiệu, tuy nhiên tại Việt Nam việc nghiên cứu, đề xuất việc đàm phán, ký kết thỏa thuận với các nước hữu quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài trên các phương diện quốc tịch, cư trú, hôn nhân và gia đình, tài sản... phù hợp với pháp luật của Việt Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế còn chậm.
Thực tế cũng cho thấy do chưa có văn bản hợp tác cấp nhà nước để có giải pháp chung giải quyết những vấn đề xung đột pháp luật nên trong quan hệ công dân Việt Nam kết hôn với công dân ở một số nước, vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Đài Loan nên trên thực tế đã nảy sinh tình trạng lách luật trong việc đăng ký kết hôn, quyền lợi của công dân Việt Nam sinh sống ở nước ngoài chưa được bảo hộ đúng mức. Chẳng hạn, pháp luật Hàn Quốc chấp nhận việc đăng ký kết hôn vắng mặt, trong khi đó pháp luật Việt Nam yêu cầu hai bên nam nữ phải có mặt khi làm thủ tục đăng ký kết hôn. Nhiều đôi trong hôn nhân Hàn-Việt chưa có điều kiện gặp gỡ, tìm hiểu  đã đi đến quyết định kết hôn, để giảm thiểu chi phí đi lại, phía Việt Nam sẽ gửi hồ sơ (giấy xác nhận độc thân, bản sao khai sinh, chứng minh nhân dân) sang Hàn Quốc để kê khai việc kết hôn và được nhập tên vào sổ hộ khẩu gia đình người chồng tại Hàn Quốc. Sau đó, công dân Việt Nam có thể đến lãnh sự quán Hàn Quốc tại Việt Nam để được cấp giấy chứng nhận không cản trở việc kết hôn theo luật pháp Hàn Quốc, làm thủ tục ghi chú kết hôn tại Sở Tư pháp và thực hiện các thủ tục để xuất cảnh đến Hàn Quốc. Ngoài ra, một số quy định của pháp luật Hàn Quốc còn có một số quy định bất lợi đối với người phụ nữ như trường hợp người vợ phải làm việc nhà, nuôi dạy con cái thì không được công nhận đóng góp trong việc hình thành tài sản chung vợ chồng, thủ tục nhập quốc tịch Hàn Quốc tương đối khó khăn và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho phía công dân nước ngoài.
Một số điểm bất cập nói trên đặt ra yêu cầu nghiên cứu tổng thể và kỹ càng hơn quy định pháp luật Việt Nam về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để bảo vệ những cuộc hôn nhân tự nguyện tiến bộ, ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật và bảo vệ hữu hiệu quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam sinh sống ở nước ngoài./.


[1]Chương XI LHNGĐ Việt Nam năm 2000 có 7 điều (từ Điều 100 đến Điều 106) điều chỉnh toàn diện hơn một bước quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài so với LHNGĐ Việt Nam năm 1986.
[2]Điều 8 “quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a)Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b)Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
c)Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệđó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
[3]Hiện tượng pháp luật của hai hay nhiều nước khác nhau cùng có thể đượ áp dụng nhằm điều chỉnh một quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài.
[4]Điều 101, 103, 104, 105, 106 LHNGĐ năm 2000
[5]Trong trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với công dân nước ngoài sống cùng sinh sống ở khu vực biên giới, hồ sơ đăng ký kết hôn được quy định đơn giản hơn.
[6]Trong trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với công dân nước ngoài sống cùng sinh sống ở khu vực biên giới, thầm quyền cấp chứng nhận đăng ký kết hôn là UBND xã và thủ tục giải quyết hồ sơ đăng ký kết hôn cũng đơn giản hơn (Nghị định số 32/2002/NĐ-CP)
[7]Điều 16, Nghị định số 68/2002/NĐ- CP.
[8] http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=3102
[9] Hiện tại Việt Nam chỉ mới ký Hiệp định tương trợ tư pháp với 15 nước (Ba Lan, Bê-la-rút, Bun-ga-ri, CHDCND Triều Tiên, Cu Ba, Hung-ga-ri, CHDCND Lào, Liên Xô (cũ), Mông Cổ, Nga, CH Pháp, Tiệp Khắc, Trung Quốc, U-crai-na, Hàn Quốc).

Nguồn tin: Tạp chí luật học

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây