Bản án, Quyết định nào được thi hành
Câu hỏi:

Những bản án, quyết định nào của Toà án về vụ án hành chính được thi hành?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời của Luật Sư:
Điều 241 Luật Tố tụng hành chính 2010 quy định về những bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thi hành, bao gồm:
- Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
- Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm.
- Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án.
- Quyết định theo thủ tục đặc biệt của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định tại Điều 240 của Luật này.
- Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án mặc dù có khiếu nại, kiến nghị.

 
Xử phạt vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm
Câu hỏi:

Lúc 12h45’ ngày 26/5/2015, Bệnh viện Đa khoa tỉnh X tiếp nhận cấp cứu hơn 100 công nhân thuộc Công ty CP may Hoàng A nhập viện cấp cứu. Các bệnh nhân được đưa đến cấp cứu trong tình trạng nôn ói lạnh run, ngất xỉu… một số người phải truyền dịch, thở oxy cấp cứu, những người khác được sơ cứu sau khi ổn định đã được cho về nhà.
Các bệnh nhân được điều trị thuốc theo hướng điều trị ngộ độc thức ăn. Trước đó, chiều 15/1/2015, hơn 100 công nhân của này phải nhập việc cấp cứu vì ngộ độc thực phẩm với các biểu hiện tương tự như trên.
Được biết, toàn bộ suất ăn trưa mà công nhân Công ty Hoàng A ăn hôm đó do bếp ăn của ông N cung cấp. Trước đây ông N đã từng bị xử phạt vì cung cấp thức ăn không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho một Công ty khác.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 21 Nghị định Nghị định 178/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, hình thức xử lý đối với các vi phạm quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm trong kinh doanh dịch vụ ăn uống thuộc loại hình chế biến suất ăn sẵn; căng tin kinh doanh ăn uống; bếp ăn tập thể; bếp ăn, nhà hàng ăn uống của khách sạn, khu nghỉ dưỡng; nhà hàng ăn uống như sau:
"......4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn thực phẩm dẫn đến ngộ độc thực phẩm.
5. Hình thức xử phạt bổ sung:
Đình chỉ hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống từ 01 tháng đến 03 tháng trong trường hợp tái phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 4 Điều này.
6. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc tiêu hủy nguyên liệu thực phẩm không có nguồn gốc, xuất xứ; hết hạn sử dụng, hỏng, ôi, thiu, thối quy định tại Điểm c Khoản 3 Điều này; phụ gia thực phẩm vi phạm quy định tại Điểm d Khoản 3 Điều này; thực phẩm hỏng, ôi, thiu, thối quy định tại Điểm đ Khoản 3 Điều này;
b) Buộc chịu mọi chi phí cho việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám, điều trị người bị ngộ độc thực phẩm đối với hành vi quy định tại Khoản 4 Điều này."
         Như vậy, tùy theo mức độ vi phạm, ông N có thể bị cơ quan chức năng phạt tối đa 15.000.000 đồng vì hành vi kinh doanh dịch vụ ăn uống không bảo đảm an toàn dẫn đến ngộ độc thực phẩm, bị buộc khắc phục hậu quả, buộc tiêu hủy toàn bộ nguyên liệu thực phẩm không có nguồn gốc xuất xứ, thực phẩm hư hỏng và phải bồi hoàn mọi chi phí liên quan việc xử lý ngộ độc thực phẩm, khám và điều trị các công nhân bị ngộ độc thực phẩm.
         Ngoài ra, bếp ăn của ông N còn bị đình chỉ hoạt động kinh doanh dịch vụ ăn uống tối đa 03 tháng đo đây là lần thứ 2 để xảy ra tình trạng ngộ độc thực phẩm.

Gửi đơn yêu cầu thi hành án như thế nào?
Câu hỏi:

Người yêu cầu thi hành án thực hiện thủ tục gửi đơn yêu cầu thi hành án như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo Điều 32 Luật thi hành án dân sự thì thủ tục gửi đơn yêu cầu thi hành án được quy định như sau:
1. Người yêu cầu thi hành án tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác yêu cầu thi hành án bằng một trong các hình thức sau đây:
a) Nộp đơn hoặc trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan thi hành án dân sự;
b) Gửi đơn qua bưu điện.
2. Ngày gửi đơn yêu cầu thi hành án được tính từ ngày người yêu cầu thi hành án nộp đơn hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan thi hành án dân sự hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi. 

Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức
Câu hỏi:

Hỏi: Đối tượng nào phải công khai chế độ, chính sách liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức và phạm vi công khai?

Trả lời:

Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy xin trả lời: 

Điều 1 Quyết định số 05/2014/QĐ-TTg quy định đối tượng phải công khai chế độ, chính sách liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức bao gồm:
a) Cơ quan Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành, địa phương được cấp có thẩm quyền giao nhiệm vụ xây dựng, ban hành chế độ, chính sách liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho cán bộ, công chức, viên chức.
Các chế độ, chính sách trong quá trình soạn thảo để trình cấp có thẩm quyền thông qua và các chế độ, chính sách đã được ban hành liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ cho cán bộ, công chức, viên chức (trừ các chế độ, chính sách thuộc danh mục bí mật nhà nước).
b) Thủ trưởng các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, đơn vị, tổ chức), doanh nghiệp nhà nước công khai việc thực hiện các chế độ, chính sách liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý.
Về phạm vi công khai:
a) Các chế độ, chính sách (trong quá trình soạn thảo chế độ, chính sách để trình cấp có thẩm quyền thông qua; chế độ, chính sách được ban hành) liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức.
b) Việc thực hiện chế độ, chính sách liên quan đến phương tiện, điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước đối với cán bộ, công chức, viên chức.

Bình đẳng giới là gì?
Câu hỏi:

Hỏi: Sắp tới, trường cháu có tổ chức một buổi sinh hoạt ngoại khóa về chủ đề bình đẳng giới. Đây là lần đầu tiên cháu được nghe về nội dung này nên cháu không hiểu “Giới”, “Bình đẳng giới”, “Định kiến giới”, “Phân biệt đối xử về giới” được hiểu như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy xin trả lời: 
Nội dung cháu hỏi, được quy định cụ thể tại Khoản 1, 2, 3 điều 5 Luật bình đẳng giới đã được Quốc hội khoá XI nước Cộng hoà hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kì họp thứ X ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2007  như sau:
1. Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội (khác với từ Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ).
2. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó.
3. Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ.
4. Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.

Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp
Câu hỏi:

Pháp luật quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân không quá 10 lần hạn mức giao đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đối với mỗi loại đất quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 129 của Luật Đất đai.
Điều 44 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định cụ thể về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân như sau:
Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thủy sản và đất làm muối của mỗi hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích nông nghiệp được áp dụng đối với các hình thức nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, xử lý nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, cụ thể như sau:
1. Đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản và đất làm muối:
a) Không quá 30 héc ta cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực Đông Nam bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu Long;
b) Không quá 20 héc ta cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn lại.
2. Đất trồng cây lâu năm:
a) Không quá 100 héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng;
b) Không quá 300 héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
3. Đất rừng sản xuất là rừng trồng:
a) Không quá 150 héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng;
b) Không quá 300 héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
4. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì tổng diện tích được nhận chuyển quyền trong hạn mức đối với mỗi loại đất (đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thủy sản và đất làm muối) bằng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất cao nhất.
5. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp bao gồm nhiều loại đất (đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thủy sản và đất làm muối) thì hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân đó được xác định theo từng loại đất quy định tại các mục 1, 2 và 3 nêu trên.
6. Hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức nhận chuyển quyền quy định tại các mục 1, 2, 3, 4 và 5 nêu trên mà đã đăng ký chuyển quyền sử dụng đất trước ngày 01/7/2007 thì phần diện tích đất vượt hạn mức được tiếp tục sử dụng như đối với trường hợp đất nông nghiệp trong hạn mức nhận chuyển quyền.
7. Hộ gia đình, cá nhân đã sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức nhận chuyển quyền quy định tại các mục 1, 2, 3, 4 và 5 nêu trên mà đã đăng ký chuyển quyền sử dụng đất từ ngày 01/7/2007 đến trước ngày 01/7/2014 thì hộ gia đình, cá nhân được tiếp tục sử dụng đất và chỉ phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước đối với phần diện tích vượt hạn mức nhận chuyển quyền.
Điều kiện cấp giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm
Câu hỏi:

Ông V có nuôi một đàn bò sữa 50 con, chuyên cung cấp sữa cho một nhà máy sản xuất sữa trên địa bàn. Gần đây, nhà máy cắt hợp đồng với gia đình ông với lý do sản phẩm ông cung cấp không có chứng nhận VietGAP. Anh trai ông V là ông Y muốn giúp đỡ em trai nên nhập sữa về để giúp tiêu thụ. Ông chuẩn bị khai trương quầy hàng bán sản phẩm sữa tươi và các sản phẩm chế biến từ sữa như sữa chua, váng sữa ...... Được biết ông không đăng ký kinh doanh, không đăng ký thành lập doanh nghiệp.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật An toàn thực phẩm 2010, sản xuất, kinh doanh thực phẩm là hoạt động có điều kiện; tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải chịu trách nhiệm về an toàn đối với thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh. Như vậy, hộ gia đình ông Y phải đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được phép hoạt động kinh doanh (Quy định về điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở, quy định an toàn thực phẩm đối với sản phẩm).
Ông Y cần có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, theo Điều 12 Nghị định 38/2012/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2012 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm thì, việc cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm được thực hiện như sau:
"Việc cấp giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm được thực hiện đối với từng cơ sở sản xuất, kinh doanh; từng nhà máy sản xuất độc lập tại một địa điểm (sau đây gọi tắt là cơ sở), trừ các trường hợp sau:
a) Sản xuất ban đầu nhỏ lẻ;
b) Kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ;
c) Bán hàng rong;
d) Kinh doanh thực phẩm bao gói sẵn không yêu cầu điều kiện bảo quản đặc biệt theo quy định."
Điều 3 Thông tư 51/2014/TT-BNNPTNT quy định:
"Cơ sở sản xuất ban đầu: là nơi thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, khai thác nông lâm thủy sản; sản xuất muối.
Cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ: là cơ sở sản xuất ban đầu cung cấp sản phẩm ra thị trường không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy chứng nhận đầu tư, trừ các trường hợp sau:
Cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại;
Cơ sở đã được cấp giấy chứng nhận thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP);
- Tàu cá lắp máy có tổng công suất máy chính từ 90CV trở lên".
Như vậy, gia đình ông Y là hộ kinh doanh nhỏ lẻ nên không thuộc diện phải cấp giấy chứng nhận nhưng phải tuân thủ theo các yêu cầu về điều kiện an toàn thực phẩm mà Điều 10 Luật An toàn thực phẩm 2010 quy định:
"1. Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y, kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có thể gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.
2. Tùy từng loại thực phẩm, ngoài các quy định tại khoản 1 Điều này, thực phẩm còn phải đáp ứng một hoặc một số quy định sau đây:
a) Quy định về sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm;
b) Quy định về bao gói và ghi nhãn thực phẩm;
c) Quy định về bảo quản thực phẩm."
Ngoài ra ông Y còn phải tuân thủ quy định pháp luật, quyết định về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật khi thực phẩm không an toàn do mình kinh doanh gây ra.

Có được bồi thường khi bị thu hồi đất?
Câu hỏi:

Ông Nguyễn Văn S, 45 tuổi là chủ sở dụng hợp pháp của thửa ruộng 7.000m2 đất sử dụng vào mục đích nông nghiệp tại xã T, huyện K, tỉnh H theo GCNQSDĐ/0204-K do UNBD huyện K, tỉnh H cấp ngày 27/9/1996. Tháng 5/2015, chính quyền xã T chủ trương mở rộng một con kênh thủy lợi đi qua phần đất của ông S làm ông mất 2.500m2 đất. Nhiều ngày nay, lực lượng công nhân và máy móc đã được điều động nạo vét phần đất kênh mương. Ông S cho biết, trước khi diện tích 2.500m2 được sử dụng để mở rộng kênh thủy lợi, ông chỉ nhận được một quyết định thu hồi đất do UBND xã T ban hành mà không có bất kỳ khoản bồi thường nào đối với diện tích bị thu hồi. Ông S đã làm đơn khiếu nại gửi đến UBND xã T vì cho rằng việc thu hồi đất của UBND xã T là trái pháp luật. Đã hai tuần kể từ ngày gửi đơn khiếu nại, UBND xã T vẫn không trả lời ông. Vì thế ông càng có cơ sở tin rằng, việc thu hồi đất của ông không đúng pháp luật nên UBND xã mới không trả lời. Vì thế, mỗi khi đội thi công nạo vét đất triển khai nạo vét, ông S lại dùng gậy, đá ném vào người của những công nhân này làm một số người bị thương như bầm tím và chảy máu ngoài da phải đi khám và mua thuốc điều trị. Họ yêu cầu ông S phải bồi thường những khoản tiền chi phí cho khám chữa bệnh. Một số công nhân còn dọa ông S nếu ông S cứ tiếp tục có hành vi như vậy sẽ làm đơn gửi cơ quan công an xã T tố cáo ông S về tội cố ý gây thương tích cho họ. Theo thông tin những người này cung cấp, họ là công nhân của công ty Xây lắp và nạo vét đường thủy số 1 có trụ sở tại xã T huyện K. Tháng 6/2015. Công ty Xây lắp và nạo vét đường thủy số 1 đã ký hợp đồng xây dựng với cơ quan có thẩm quyền Nhà nước trong việc mở rộng hệ thống thủy lợi của xã T.

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
1. Thẩm quyền thu hồi đất của UBND xã T
Luật Đất đai năm 2013 quy định các trường hợp Nhà nước thu hồi đất, cụ thể:
- Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh[1];
- Thu hồi đất để phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng;[2]
- Thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai;[3]
- Thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người.[4]
Điều 62 Luật Đất đai 2013 quy định 3 trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng, đó là: (1). Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư mà phải thu hồi đất; (2.) Thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu tư mà phải thu hồi đất; (3) Thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải thu hồi đất. Theo tình huống trên, 2.500m2 đất của ông Sinh bị thu hồi để làm kênh thủy lợi thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất để xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương gồm giao thông, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, chiếu sáng đô thị; công trình thu gom, xử lý chất thải (Điểm b Khoản 2 Điều 62 Luật Đất đai 2013). Vì thế việc thu hồi đất của ông S là đúng mục đích theo quy định của Luật Đất đai hiện hành.
Tuy nhiên việc UBND xã T ban hành quyết định thu hồi đất của ông S là sai vì UBND xã không có thẩm quyền ra quyết định thu hồi. Theo Điều 66 Luật Đất đai 2013, chỉ có UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện mới có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất của cá nhân, tổ chức, cơ sở tôn giao, hộ gia đình, cộng đồng dân cư. Trường hợp thu hồi đất của ông S là Nhà nước thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 66 Luật Đất đai 2013 thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện. Vì vậy UBND huyện K mới là chủ thể có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất của ông S chứ không phải là UBND xã T. UBND xã T chỉ có chức năng hỗ trợ việc thu hồi đất của UBND huyện K.
Trường hợp ngày cả khi quyết định thu hồi đất của ông S được chủ thể có thẩm quyền ban hành thì UBND huyện K cũng phải dựa trên 3 căn cứ sau để ra quyết định thu hồi đất:
Căn cứ thứ nhất là dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 61 và Điều 62 của Luật Đất đai 2013.
Căn cứ thứ hai là kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt;
Căn cứ thứ ba là tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án.[5]
Ngoài ra, UBND huyện K cũng phải tuân thủ đầy đủ quy định về thủ tục thông báo thu hồi đất tới chủ thể bị thu hồi đất, trong trường hợp này là ông S. Luật Đất đai 2013 quy định: “Trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết. Nội dung thông báo thu hồi đất bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.”(khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai 2013). Nội dung này cũng được quy định cụ thể tại Khoản 1, khoản 2 Điều 17 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014. Theo đó, trình tự, thủ tục thu hồi của ông S phải được cơ quan có thẩm quyền tuân thủ những quy định sau đây:
-  Cơ quan tài nguyên và môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp phê duyệt kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, gồm các nội dung: Lý do thu hồi đất; Diện tích, vị trí khu đất thu hồi trên cơ sở hồ sơ địa chính hiện có hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; trường hợp thu hồi đất theo tiến độ thực hiện dự án thì ghi rõ tiến độ thu hồi đất; Kế hoạch điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm; Dự kiến về kế hoạch di chuyển và bố trí tái định cư; Giao nhiệm vụ lập, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
- Thông báo thu hồi đất gửi chủ thể có diện tích đất được thu hồi gồm các nội dung:  Lý do thu hồi đất; Diện tích, vị trí khu đất thu hồi trên cơ sở hồ sơ địa chính hiện có hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tiến độ thu hồi đất; Kế hoạch điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm.
2.  Ông S có được Nhà nước bồi thường đối với diện tích đất bị thu hồi không?
Diện tích 2.500m2 đất bị thu hồi nằm trong tổng diện tích 7.000m2 đất của ông Sinh đã có GCNQSDĐ do UBND huyện K cấp cho ông S năm 1996. Đất này là đất nông nghiệp, được giao trong hạn mức theo quy đinh định tại Điều 129 Luật Đất đai 2013 nên căn cứ vào  Điểm a Khoản 1 Điều 77 Luật Đất đai năm 2013, ông S được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất. Điểm a Khoản 1 Điều 77 Luật Đất đai 2013 quy định: Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất và chi phí đầu tư còn lại đối với diện tích đất nông nghiệp trong hạn mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của Luật Đất đai 2013 và diện tích đất do được nhận thừa kế.
Ngoài ra, ông S nên căn cứ vào  Điều 83 Luật Đất đai 2013 và các quy định của Nghị định 47/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất để nắm rõ các nội dung về đối tượng được bồi thường, mức bồi thường, mức hỗ trợ….để biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình được hưởng khi Nhà nước thu hồi đất.
3.Về yêu cầu ông S phải bồi thường những khoản tiền chi phí khám chữa bệnh của những người công nhân.
Điều 604 BLDS 2005 quy định: “1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. 2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Chiểu theo Điều 604 BLDS 2005 và tình tiết ông S đã dùng gạch đá, gậy gộc để đánh những người công nhân khiến những người này bị thương khi thực hiện nhiệm vụ nạo vét kênh mương do chủ công ty Xây lắp và nạo vét đường thủy số 1 giao là trái pháp luật. Ông S là người đã thành niên, có khả năng nhận thức được hành vi của mình, cố ý gây thiệt hại về sức khỏe cho những người công nhân thì phải có trách nhiệm bồi thường. Vì thế, yêu cầu ông S phải bồi thường những khoản tiền chi phí khám chữa bệnh của những người công nhân là có cơ sở pháp lý. Những khoản tiền ông S có thể phải bồi thường cho những người công nhân trong trường hợp này là những tổn thất về vật chất và tinh thần do hành vi trái pháp luật của ông S gây ra. Tổn thất về vật chất, đó có thể là tiền khám bác sỹ, tiền chụp XQ, tiền mua thuốc, trường hợp có người nằm viện thì ông S phải bồi thường về khoản thu nhập thực tế bị mất do phải nằm viện, chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế của người chăm sóc những người công nhân này ở viện nếu có,...Những tổn thất về tinh thần là những tổn thất phát sinh từ việc bị thương của những người công nhân này. Họ có thể vì bị thương (đặc biệt ở mặt, tay chân) nên cảm thấy xấu hổ, tự ti khi đối diện với người xung quanh, cảm thấy mặc cảm vì bị xấu về hình ảnh bề ngoài,…Cảm giác xấu hổ, mặc cảm, tự ti… là những tổn thất về tinh thần do việc bị thương tạo ra và ông S phải bồi thường cả những tổn thất này. Để yêu cầu ông S bồi thường thì những người công nhân này phải cung cấp các giầy tờ, tài liệu chứng minh có sự kiện ông S dùng gậy, đất đá gây thương tích. Đồng thời phải cung cấp những chứng từ, biên lai nộp tiền khám chữa bệnh, mua thuốc, chụp XQ, xét nghiệm, tiền viện phí, thu nhập hàng ngày nhân với số ngày nằm viện, tiền thuê người chăm sóc, ….Ông S sẽ phải bồi thường các chi phí thực tế mà những người công nhân bị thương đã phải bỏ ra để khắc phục lại tình trạng sức khỏe như ban đầu trước khi bị ông S gây thương tích. Đối với khoản tiền bồi thường tổn thất tinh thần thì mức bồi thường không quá 30 tháng lương cơ bản theo quy định của Nhà nước tại thời điểm thương tích xảy ra.[6] Trường hợp ông S không bồi thường khi có yêu cầu thì công nhân bị thương có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự. Tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ án là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi ông S cư trú hoặc nơi xảy ra thiệt hại[7] theo quy định của BLTTDS 2011.
4.Về việc tố cáo ông S với cơ quan công an xã T về tội cố ý gây thương tích.
Điều 104 Bộ luật hình sự  năm 1999 (BLHS 1999) quy định:
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:(…..)
2.  Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.”
Như vậy, trong trường hợp những người công nhân tố cáo ông S với cơ quan công an ở xã T về tội cố ý gây thương tích cho họ thì ông S có bị khởi tố và chịu trách nhiệm hình sự hay không phải căn cứ vào hành vi dùng gậy và đá ném vào những người công nhân đó của ông S có cấu thành tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 BLHS 1999. Nếu thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm theo Điều 104 BLHS 1999 thì ông S mới phải chịu trách nhiệm hình sự.



[1] Điều 61 Luật Đất đai 2013
[2]  Điều 62 Luật Đất đai 2013
[3]  Điều 64 Luật đất đai 2013
[4] Điều 65 Luật Đất đai 2013
[5] Xem Điều 63 Luật Đất đai 2013

[6] Xem Mục 2 Chương 21 BLDS 2005 và NQ 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

 
[7] Xem các Điều 607 BLDS 2005, Điều 33, 34, 35, 36 BLTTDS 2011.

Ly hôn có làm mất đi quyền thừa kế?
Câu hỏi:

Thân chào!
Cho tôi hỏi toi có chồng được 1 tháng thì chồng tôi mất vì tai nạn lao đông. Tiền bồi thường tôi có được hưởng không ? Nếu hường thì tôi được hưởng bao nhiêu phần trăm trong số tiền bồi thường vì còn cha mẹ chồng nữa ? Và cha mẹ chồng tôi mỗi người được hưởng bao nhiêu vì hai người đã ly dị . Hôm trước Công ty đã hỗ trợ 110.000.000 đồng chi phí hỗ trợ ma chay cho chồng tôi và mẹ chồng tôi đã giữ hết . Xin cho tôi câu trả lời trường hợp của tôi . Xin cám ơn

Trả lời:
Chào bạn
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy có ý kiến pháp lý đối với trường hợp của bạn như sau:
Thứ nhất, Về đối tượng được nhận tiền bồi thường
Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 145 Bộ luật Lao động 2012 Quyền của người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có quy định:
“3. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau:
b) Ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động.”.
Do đó, chồng bạn chết do tai nạn lao động thì thân nhân của chồng bạn sẽ được hưởng bồi thường.
Theo khoản 6 Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội 2014 về giải thích từ ngữ:
“6. Thân nhân là con đẻ, con nuôi, vợ hoặc chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng của người tham gia bảo hiểm xã hội hoặc thành viên khác trong gia đình mà người tham gia bảo hiểm xã hội đang có nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.”
Như vậy, cả bạn và cha mẹ chồng bạn đều có quyền được nhận số tiền này. Lưu ý, để đảm bảo quyền và lợi ích của mình, gia đình bạn và công ty có thể thỏa thuận mức bồi thường thiệt hại nhưng không được ít hơn mức 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Thứ hai, về việc phân chia di sản
Theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình:
Điều 11. Tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật:
3. Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.
Do đó, thân nhân của chồng bạn có quyền được nhận số tiền bồi thường do chồng bạn bị tai nạn lao động được xem là quyền tài sản gắn liền với nhân thân, nên đây được xem là tài sản riêng của chồng bạn và sẽ được phân chia theo pháp luật thừa kế khi chồng bạn mất.
Chồng bạn mất do tai nạn lao động nên không có di chúc thì việc phân chia di sản thừa kế này sẽ được chia theo pháp luật. Theo đó, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của chồng bạn sẽ được hưởng phần bằng nhau đối với di sản mà chồng bạn để lại, bao gồm cả phần tiền bồi thường này.
Theo khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015. Người thừa kế theo pháp luật:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”
Như vậy, cả bạn, phần di sản của chồng bạn bao gồm cả phần tiền bồi thường 110.000.000 đồng này sẽ được chia đều cho bạn, cha mẹ chồng bạn sau. Việc cha mẹ chồng bạn có ly hôn hay chưa không làm mất đi quyền thừa kế của họ đối với phần di sản này.
Trên đây là tư vấn của Văn phòng luật sư Tô Đình Huy liên quan đến xác định việc phân chia di sản thừa kế. Nếu còn vướng mắc hoặc cần tư vấn hỗ trợ thêm hãy gọi tổng đài 1900 6279 để được Luật sư tư vấn trực tiếp.
 
 
 
 
 

Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình
Câu hỏi:

Xin kính chào các anh, các chị
Kính chúc một năm mới mạnh khỏe tới mọi người !

Em có một việc liên quan tới phân chia tài sản thừa kế, kính mong nhận được sự giúp đỡ của mọi người:
1. Gia đình em có một miếng đất ở (3500m2), sinh sống trên mảnh đất đó từ năm 1950 và tới năm 2004 nhà nước có cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Miếng đất này mang tên ông nội em trong “sổ đỏ”. Và trong sổ đỏ không viết tên bất kỳ ai trong đó ngoài tên bà nội em.

2. Miếng đất này, trong hơn 60 năm qua, không có tranh chấp, khiếu nại gì.

3. Năm 1980 bố em xây dựng gia đình (có 02 người con trai sinh năm 1984 + 1987) và cả ông bà nội đều sống với gia đình em. Năm 1988, bà nội em mất. Một mình mẹ em chăm sóc cả ông lẫn bà (bị bệnh trong nhiều năm liền). Năm 2009 ông nội em mất. Trước khi mất, ông không để lại di chúc cũng như nói chuyển nhượng đất cho bất kỳ ai.

(ông bà nội em có 05 người con (02 trai + 05gái). Cả 07 người này đều đã lập gia đình và có đất, có nhà riêng).

4. Bố em làm bộ đội, thoát ly đi công tác và chuyển hộ khẩu đi nơi khác. Nên trong sổ hộ khẩu của gia đình cũng như sổ quản lý nhân khẩu tại địa phương không có tên từ năm 1985 đến nay.

5. Năm 2009, bố mẹ em li dị. Cả 05 người con của bà nội em “họp gia đình” và thống nhất có biên bản họp gia đình:

- Chia miếng đất thành 03 miếng ( 01 miếng làm nhà thờ chung do bố em quản lý + 01 miếng cho chú ruột em quản lý + 01 miếng cho anh trai em quản lý).

- Trong số 07 người con của ông bà họp gia đình, thì có 06 người ký tên đồng ý. Còn 01 người phản đối. Mẹ con em không được tham dự cũng như bị đuổi ra khỏi nhà ngay sau khi ông nội em qua đời.

- Em và mẹ không được chia diện tích đất ở này. Với lý do : Đất mang tên ông nên con dâu + cháu nội không được hưởng. Miếng đất này, thuộc về 07 người con của bà mà thôi.

Vậy, với những thông tin như trên kính đề nghị anh/chị tư vấn giúp em một số thông tin như sau :
1. Sổ hộ khẩu cấp do gia đình em năm 2003 có tên ông nội, mẹ em và hai anh em.

2. Sổ đỏ cấp năm 2004 cho gia đình em nhưng chỉ viết tên của ông nội em.

3. Vậy, với những thông tin như trên, thì mẹ con em có được chia diện tích đất trong tổng số 3500m2 kia hay không? Hay miếng đất đó chỉ thuộc về 07 người con của ông bà?

4. Nếu có thể thì thủ tục như thế nào? Để có thể đòi quyền được đất.

Kính mong các anh, các chị bớt chút thời gian tư vấn giúp em về những nội dung như trên.

Trân trọng cám ơn !

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy có ý kiến pháp lý đối với thắc mắc của bạn như sau:
1.      Xác định người có quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận
Để xác định phần di sản của ông nội bạn, cần xác định những người có quyền sử dụng đất tại thời điểm được cấp Giấy chứng nhận (sổ đỏ) năm 2004.
Theo thông tin bạn cung cấp, Giấy chứng nhận được cấp cho hộ gia đình và chỉ ghi tên của ông bạn. Việc cấp Giấy chứng nhận như vậy là phù hợp quy định pháp luật đất đai tại thời điểm cấp. Giấy chứng nhận cấp cho hộ gia đình thì sẽ ghi tên chủ hộ đại diện chủ sở hữu mà không yêu cầu ghi nhận thông tin tất cả thành viên hộ gia đình. Như vậy ông bạn và các thành viên trong gia đình có chung quyền sử dụng 3500m2 đất.
Theo quy định khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai 2013, hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân (vợ chồng), quan hệ huyết thống (cha, mẹ, con, anh em ruột), hoặc quan hệ nuôi dưỡng (nhận nuôi con nuôi) và đang sống chung tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận. Theo quy định trên, để thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất phải đáp ứng hai điều kiện: một là, các thành viên có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng; hai là, các thành viên đang chung sống tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận. Để xác định người có quyền sử dụng đất đối với mảnh đất cần căn cứ vào các giấy tờ như: khai sinh, hộ khẩu gia đình hoặc các văn bản của cơ quan nhà nước có ghi nhận thông tin thành viên hộ gia đình tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận.
Việc các con của ông bạn lập giấy tay phân chia đất là không có cơ sở pháp lý và không xác lập quyền sử dụng đối với phần đất của gia đình.
Theo thông tin cung cấp, có căn cứ xác định mẹ bạn và bạn là người có quyền đối với phần đất nếu đáp ứng các điều kiện vừa nêu trên. Các con của ông bạn cũng phải đáp ứng điều kiện theo quy định để có quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này cũng cần phân biệt quyền sử dụng đất này với quyền thừa kế đối với phần đất của ông bạn.
2.      Phân chia di sản
Di sản của ông bạn là phần quyền sử dụng đất theo Giấy chứng nhận cấp cho hộ gia đình.
Do ông bạn mất và không có di chúc nên tài sản được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất theo Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 gồm: vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người để lại di sản. Theo thông tin bạn cung cấp, có thể xác định người thừa kế của ông bạn là 7 người con của ông bạn.
Một lưu ý rằng, phần tài sản chia thừa kế chỉ gồm phần quyền sử dụng đất của ông bạn trong mảnh đất theo Giấy chứng nhận mà không phải là toàn bộ 3500m2 đất. Các thành viên thực hiện khai nhận di sản đối với phần đất thuộc sở hữu của ông bạn mà thôi.
 Trường hợp có tranh chấp, yêu cầu phân chia di sản và quyền sử dụng đất, bạn có thể khởi kiện tại tòa án quận/huyện nơi có tài sản để yêu cầu giải quyết theo quy định pháp luật.
Trên đây là tư vấn của Văn phòng luật sư Tô Đình Huy liên quan đến xác định thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất và phân chia di sản thừa kế.

Trường hợp nào không được hưởng chế độ ốm đau
Câu hỏi:

Anh T là người lao động làm việc cho xí nghiệp X trên cơ sở Hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Do nghiện rượu, anh T thường xuyên bỏ bê công việc, đã bị lãnh đạo xí nghiệp nhắc nhở nhiều lần nhưng vẫn chứng nào tật ấy. Trong một lần từ quán rượu trở về công ty, do điều khiển xe máy trong tình trạng say xỉn anh T đã đâm xe vào một máy xúc ở trên đường bị gẫy cả hai chân phải nghỉ việc mất 2 tháng. Gia đình anh T làm hồ sơ yêu cầu cho anh T được hưởng chế độ ốm đau nhưng đã bị cơ quan bảo hiểm xã hội từ chối. Gia đình anh T phản đối quyết liệt vì không hiểu lí do tại sao?

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 1, Điều 25 Luật bảo hiểm xã hội 2014 về điều kiện hưởng chế độ ốm đau thì “Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục do Chính phủ quy định thì không được hưởng chế độ ốm đau”. Như vậy, căn cứ vào quy định trên, trường hợp của anh T vì do say xỉn mà tự gây ra tai nạn thuộc vào trường hợp không được hưởng chế độ ốm đau.
Việc cơ quan bảo hiểm xã hội từ chối yêu cầu của gia đình anh T là hoàn toàn chính xác. 

Chế độ trợ cấp khi bị suy giảm khả năng lao động
Câu hỏi:

Anh Thắng là công nhân làm việc tại Công ty xây dựng. Vừa qua, anh bị tai nạn trong quá trình lao động. Sau khi điều trị thương tật ổn định, anh đã được giám định mức suy giảm khả năng lao động. Anh muốn biết các chế độ trợ cấp cho người lao động khi bị suy giảm khả năng lao động như thế nào?

Trả lời:
Trả lời
Theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 thì người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp tuỳ theo mức độ suy giảm khả năng lao động. Cụ thể:
- Trợ cấp một lần (Điều 46 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014): là trợ cấp áp dụng với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30%. Người lao động suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 05 lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở. Ngoài ra, người lao động còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3 tháng tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
- Trợ cấp hằng tháng (Điều 47 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014): là trợ cấp áp dụng với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên. Người lao động suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương cơ sở. Ngoài mức trợ cấp này, hằng tháng người lao động còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.
- Trợ cấp phục vụ (Điều 50 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014): áp dụng đối với người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai chi hoặc bị bệnh tâm thần. Trường hợp này, người lao động ngoài việc được hưởng trợ cấp hằng tháng thì mỗi tháng còn được hưởng trợ cấp phục vụ bằng mức lương cơ sở.
Thời điểm hưởng các chế độ trợ cấp nêu trên được tính từ tháng người lao động điều trị xong, ra viện. Trường hợp thương tật hoặc bệnh tật tái phát, người lao động được đi giám định lại mức suy giảm khả năng lao động thì thời điểm hưởng trợ cấp mới được tính từ tháng có kết luận của Hội đồng giám định y khoa
- Trợ cấp một lần khi chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (Điều 51 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014): người lao động đang làm việc bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bị chết trong thời gian điều trị lần đầu do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 lần mức lương cơ sở.
- Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà bị tổn thương các chức năng hoạt động của cơ thể thì được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ vào tình trạng thương tật, bệnh tật. 

Có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ thai sản
Câu hỏi:

Tôi mới tham gia công tác công đoàn tại một doanh nghiệp may mặc với đặc thù có nhiều lao động nữ. Vừa qua, giám đốc đề nghị tổ chức công đoàn của doanh nghiệp cho ý kiến tư vấn đối với 2 trường hợp lao động nữ nghỉ chế độ thai sản: chị Hương, cán bộ Phòng thiết kế đã nghỉ sinh con theo chế độ được 4 tháng nay có đơn xin đi làm và cô Bình, công nhân may đã nghỉ sinh con theo chế độ được 6 tháng nay xin nghỉ thêm. Để có thể tư vấn chính xác cho giám đốc, đề nghị cho tôi biết pháp luật hiện hành quy định về việc lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con và nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản như thế nào?

Trả lời:
Trả lời
Về việc lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con, Điều 40 Luật bảo hiểm xã hội quy định lao động nữ có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con theo quy định sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất được 04 tháng đồng thời phải báo trước và được người sử dụng lao động đồng ý. Ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi hết thời hạn quy định.
Về dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản, lao động nữ ngay sau thời gian hưởng chế độ thai sản theo quy định, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức khoẻ chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.
Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do người sử dụng lao động quyết định. Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được quy định như sau:
- Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên;
- Tối đa 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;
- Tối đa 05 ngày đối với các trường hợp khác.
Mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản một ngày bằng 30% mức lương cơ sở.

Chồng có được nghỉ khi vợ sinh con?
Câu hỏi:

Tôi được biết pháp luật hiện hành quy định khi vợ sinh con thì người chồng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. Vậy thời gian nghỉ là bao nhiêu ngày? Tôi cũng muốn biết thời gian hưởng chế độ khi sinh con hiện nay được quy định như thế nào?

Trả lời:
Trả lời
Theo khoản 2 Điều 34 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau:
- 05 ngày làm việc;
- 07 ngày làm việc khi vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi;
- Trường hợp vợ sinh đôi thì được nghỉ 10 ngày làm việc, từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc;
- Trường hợp vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật thì được nghỉ 14 ngày làm việc.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản nêu trên được tính trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con.
Ngoài quy định về nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với lao động nam khi vợ sinh con, Điều 34 Luật bảo hiếm xã hội còn quy định cụ thể thời gian hưởng chế độ khi sinh con như sau:
- Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.
- Trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì mẹ được nghỉ việc 04 tháng tính từ ngày sinh con; nếu con từ 02 tháng tuổi trở lên bị chết thì mẹ được nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian quy định; thời gian này không tính vào thời gian nghỉ việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động.
- Trường hợp chỉ có mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ theo quy định. Trường hợp mẹ tham gia bảo hiểm xã hội nhưng không đủ điều kiện quy định[1] mà chết thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Nếu  cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng tham gia bảo hiểm xã hội mà không nghỉ việc thì ngoài tiền lương còn được hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của mẹ theo quy định.
- Trường hợp chỉ có cha tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
Thời gian hưởng chế độ thai sản đối với các trường hợp trên tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.



[1] Phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

Thời gian hưởng chế độ ốm đau?
Câu hỏi:

Trên cơ sở kết luận của bác sĩ, anh Minh đã báo cáo với lãnh đạo Công ty xây dựng xin nghỉ để điều trị bệnh. Anh muốn biết pháp luật hiện hành quy định về thời gian hưởng chế độ ốm đau như thế nào?

Trả lời:
Trả lời
Điều 26 Luật bảo hiểm xã hội quy định thời gian người lao động hưởng chế độ ốm đau như sau:
- Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm đối với người lao động thuộc các trường hợp (a), (b), (c), (d) và h (xem các đối tượng ở câu 2) tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần và được quy định như sau:                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                       
+ Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên; 
+ Làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng 40 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm; 50 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 70 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên. 
- Người lao động nghỉ việc do mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành thì được hưởng chế độ ốm đau như sau: tối đa 180 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần; hết thời hạn hưởng chế độ ốm đau theo quy định mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn nhưng thời gian hưởng tối đa bằng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
- Thời gian hưởng chế độ ốm đau đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân thì căn cứ vào thời gian điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.

Điều kiện hưởng chế độ ốm đau?
Câu hỏi:

Anh Minh làm việc tại Công ty xây dựng X theo hợp đồng lao động không xác đinh hạn. Vừa qua, anh Minh đi khám tại bệnh viện, bác sĩ chuyên khoa kết luận anh bị bệnh cần nghỉ nửa tháng để điều trị. Vậy anh Minh có được hưởng chế độ ốm đau không và điều kiện hưởng chế độ này như thế nào?

Trả lời:
Trả lời
Theo Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, ốm đau là một trong 5 chế độ thuộc loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc. Đối tượng áp dụng chế độ ốm đau là người lao động (công dân Việt Nam) thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:
(a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động.
(b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng.
(c) Cán bộ, công chức, viên chức.
(d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu.
(đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân.
(h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương.
Căn cứ theo quy định trên thì anh Minh thuộc đối tượng hưởng chế độ ốm đau. Điều 25 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định điều kiện hưởng chế độ ốm đau như sau:
- Bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế. Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục do Chính phủ quy định thì không được hưởng chế độ ốm đau.
- Phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.

Có được cấp lại thẻ bảo hiểm khi bị mất?
Câu hỏi:

Do gần đây bị ốm đau liên miên nên chị T đã có ý định xin nghỉ làm vài ngày để đi khám bệnh ở bệnh viện tuyến trên. Song khi tìm hồ sơ giấy tờ, thì chị T phát hiện bị mất thẻ bảo hiểm y tế. Chị muốn hỏi việc cấp lại thẻ bảo hiểm y tế được pháp luật quy định như thế nào? Trong thời gian chờ cấp lại thẻ, nếu chị khám bệnh có được hưởng quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế hay không?

Trả lời:
Trả lời
Theo quy định tại Điều 18, Luật Bảo hiểm y tế năm 2008, việc cấp lại thẻ bảo hiểm y tế được quy định như sau:
- Thẻ bảo hiểm y tế được cấp lại trong trường hợp bị mất.
- Người bị mất thẻ bảo hiểm y tế phải có đơn đề nghị cấp lại thẻ.
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị cấp lại thẻ, tổ chức bảo hiểm y tế phải cấp lại thẻ cho người tham gia bảo hiểm y tế. Trong thời gian chờ cấp lại thẻ, người có thẻ vẫn được hưởng quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế.
- Người được cấp lại thẻ bảo hiểm y tế phải nộp phí. Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức phí cấp lại thẻ bảo hiểm y tế.
Như vậy, trong thời gian chờ cấp lại thẻ, chị T vẫn được hưởng quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế.

Du học nước ngoài đóng bảo hiểm như thế nào?
Câu hỏi:

Hai đứa con tôi đều là học sinh đang độ tuổi đến trường, trong đó có cháu gái đầu tiên đang là du học sinh đang học tại Pháp được cấp học bổng từ ngân sách của Nhà nước Việt Nam nên tôi rất quan tâm đến việc đóng bảo hiểm y tế cho con, cũng như trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế. Tôi muốn hỏi xem Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm gì trong việc quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế?

Trả lời:
Trả lời
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế thì trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế như sau:
- Chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện việc xác định, quản lý đối tượng do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý bao gồm người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được cấp học bổng từ ngân sách của Nhà nước Việt Nam và học sinh, sinh viên.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật về trách nhiệm tham gia bảo hiểm y tế của các đối tượng nêu trên do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý.
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, các bộ, ngành liên quan hướng dẫn thành lập, kiện toàn hệ thống y tế trường học để chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với trẻ em, học sinh, sinh viên.

Thủ tục cấp lại sổ bảo hiểm như thế nào?
Câu hỏi:

Do yêu cầu phải thuyên chuyển công việc theo sự điều động của cơ quan, nên anh L đã tìm mua nhà và dọn đến ở địa điểm gần cơ quan mới. Trong quá trình chuyển nhà, anh L đã bị mất một số giấy tờ quan trọng trong đó có sổ bảo hiểm xã hội. Anh L muốn biết việc làm hồ sơ cấp lại sổ bảo hiểm trong trường hợp bị mất gồm những giấy tờ gì? Đồng thời, anh L có mong muốn được điều chỉnh thông tin về nơi làm việc, chỗ ở, cư trú trong Sổ bảo hiểm xã hội mới để thuận tiện cho sử dụng sau này… Xin hỏi pháp luật quy định về việc điều chỉnh thông tin tham gia bảo hiểm xã hội như thế nào?

Trả lời:
Trả lời
Theo quy định tại Điều 97 Luật Bảo hiểm xã hội về hồ sơ đăng ký tham gia và cấp sổ bảo hiểm xã hội:
- Hồ sơ đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội lần đầu bao gồm:
+ Tờ khai tham gia bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động kèm theo danh sách người lao động tham gia bảo hiểm xã hội;
+ Tờ khai tham gia bảo hiểm xã hội của người lao động.
- Hồ sơ cấp lại sổ bảo hiểm xã hội trong trường hợp hỏng hoặc mất bao gồm:
+ Đơn đề nghị cấp lại sổ bảo hiểm xã hội của người lao động;
+ Sổ bảo hiểm xã hội trong trường hợp bị hỏng.
 Chính phủ quy định thủ tục, hồ sơ tham gia, cấp sổ bảo hiểm xã hội đối với đối tượng là hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí.
Việc điều chỉnh thông tin tham gia bảo hiểm xã hội được quy định tại Điều 98 Luật Bảo hiểm xã hội như sau:
- Người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản với cơ quan bảo hiểm xã hội khi có thay đổi thông tin tham gia bảo hiểm xã hội.
- Hồ sơ điều chỉnh thông tin cá nhân của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bao gồm:
+ Tờ khai điều chỉnh thông tin cá nhân;
+ Sổ bảo hiểm xã hội;
+ Bản sao giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến việc điều chỉnh thông tin cá nhân theo quy định của pháp luật.
Quy định về Quỹ bảo hiểm xã hội?
Câu hỏi:

Là một người dân tham gia tích cực đóng bảo hiểm xã hội và thường xuyên vận động gia đình, người thân tham gia đóng bảo hiểm xã hội, nên khi qua báo đài, biết được các thông tin về việc Quỹ Bảo hiểm xã hội có thể được dùng để đầu tư. Bà D rất băn khoăn muốn được biết về các hình thức đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:
Trả lời
Theo quy định tại các điều 91, 92 Luật Bảo hiểm xã hội về nguyên tắc và các hình thức đầu tư của Quỹ Bảo hiểm xã hội như sau:
- Nguyên tắc đầu tư: Hoạt động đầu tư từ quỹ bảo hiểm xã hội phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và thu hồi được vốn đầu tư.
- Các hình thức đầu tư, bao gồm:
+ Mua trái phiếu Chính phủ.
+ Gửi tiền, mua trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi tại các ngân hàng thương mại có chất lượng hoạt động tốt theo xếp loại tín nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
+ Cho ngân sách nhà nước vay.

Có được hưởng lương hưu trợ cấp một lần ?
Câu hỏi:

Sau khi về hưu, chồng chết đã lâu nên bà K sống một mình được một thời gian thì con gái bà đang sống tại Pháp đã bàn bạc với bà mong muốn đưa bà ra nước ngoài để định cư, đoàn tụ cùng gia đình con cái. Bà K có mong muốn được hưởng lương hưu theo chế độ giải quyết hưởng trợ cấp một lần có được không? Mức trợ cấp một lần đối với người đang hưởng lương hưu được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:
Trả lời
Theo quy định tại Điều 65 Luật Bảo hiểm xã hội về việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng ra nước ngoài để định cư cụ thể như sau:
- Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng ra nước ngoài để định cư được giải quyết hưởng trợ cấp một lần.
- Mức trợ cấp một lần đối với người đang hưởng lương hưu được tính theo thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội trong đó mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội trước năm 2014 được tính bằng 1,5 tháng lương hưu đang hưởng, mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội từ năm 2014 trở đi được tính bằng 02 tháng lương hưu đang hưởng; sau đó mỗi tháng đã hưởng lương hưu thì mức trợ cấp một lần trừ 0,5 tháng lương hưu. Mức thấp nhất bằng 03 tháng lương hưu đang hưởng.
- Mức trợ cấp một lần đối với người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng bằng 03 tháng trợ cấp đang hưởng.
Đối tượng nào được áp dụng chế độ ốm đau?
Câu hỏi:

. Do hiếm muộn, lấy nhau gần 05 năm mới có con, nên gia đình chị L rất yêu chiều con. Đứa con gái 02 tuổi lại có thể trạng ốm yếu, thường xuyên lên cơn hen, bị ốm đau liên miên, nên chị L đã nghe lời chồng xin nghỉ việc một thời gian để chăm con. Mặc dù trước đó, chị đã có công việc ổn định, là công chức của Ủy ban nhân dân xã và có thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Chị muốn hỏi xem chị có đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội hay không?

Trả lời:
Trả lời
Theo quy định của Điều 24 Luật bảo hiểm xã hội, đối tượng áp dụng chế độ ốm đau là người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm: người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng; cán bộ, công chức, viên chức; công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu…
Như vậy, chị L là công chức của Ủy ban nhân dân xã thuộc đối tượng áp dụng chế độ ốm đau nếu chị có đủ các điều kiện hưởng chế độ ốm đau được Điều 25 Luật bảo hiểm xã hội, cụ thể:
- Bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế.
Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục do Chính phủ quy định thì không được hưởng chế độ ốm đau.
- Phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.

Lương hưu có nhận được qua ngân hàng không?
Câu hỏi:

Qua báo đài, Ông T được biết khi về hưu có thể nhận lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội thông qua tài khoản tiền gửi của người lao động mở tại ngân hàng. Ông rất phấn khởi. Song bà H - là vợ của ông lại cho rằng, người về hưu phải đến trực tiếp từ cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc tổ chức dịch vụ được cơ quan bảo hiểm xã hội ủy quyền. Xin hỏi ý kiến của ai đúng? Ai sai? Trong trường hợp ông T có công việc bận, liệu ông có thể ủy quyền cho ngư­ời khác nhận lư­ơng h­ưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội thay mình được hay không?

Trả lời:
Trả lời
Ý kiến của ông T về việc nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội thông qua tài khoản tiền gửi của người lao động mở tại ngân hàng là hoàn toàn đúng. Không những thế, ông có thể ủy quyền cho người khác nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội thay mình là hoàn toàn phù hợp với các quy định tại Điều 18 của Luật Bảo hiểm xã hội về quyền của người lao động, bao gồm:
- Được tham gia và hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội.
- Đ­ược cấp và quản lý sổ bảo hiểm xã hội.
- Nhận lư­ơng h­ưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời, theo một trong các hình thức chi trả sau:
+ Trực tiếp từ cơ quan bảo hiểm xã hội hoặc tổ chức dịch vụ được cơ quan bảo hiểm xã hội ủy quyền;
+ Thông qua tài khoản tiền gửi của người lao động mở tại ngân hàng;
+ Thông qua người sử dụng lao động.
- H­ưởng bảo hiểm y tế trong các trường hợp sau đây:
+ Đang hưởng lư­ơng hư­u;
+ Trong thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi;
+ Nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hằng tháng;
+ Đang hưởng trợ cấp ốm đau đối với người lao động mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành.
- Được chủ động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động nếu thuộc trường hợp sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định và đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội; được thanh toán phí giám định y khoa nếu đủ điều kiện để hưởng bảo hiểm xã hội.
- Uỷ quyền cho ngư­ời khác nhận lư­ơng h­ưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội.
- Định kỳ 06 tháng được người sử dụng lao động cung cấp thông tin về đóng bảo hiểm xã hội; định kỳ hằng năm được cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận về việc đóng bảo hiểm xã hội; được yêu cầu ngư­ời sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội cung cấp thông tin về việc đóng, hưởng bảo hiểm xã hội.
- Khiếu nại, tố cáo và khởi kiện về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật.

Phí bảo hiểm tiền gửi được quy định như thế nào?
Câu hỏi:

Vấn đề phí bảo hiểm tiền gửi được thực hiện như thế nào theo quy định của pháp luật?

Trả lời:
Điều 20 Luật bảo hiểm tiền gửi quy định về phí bảo hiểm tiền gửi như sau:
          - Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
          - Căn cứ vào khung phí bảo hiểm tiền gửi, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này.
          - Phí bảo hiểm tiền gửi được tính trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
          - Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp định kỳ hàng quý trong năm tài chính. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi chậm nhất vào ngày 20 tháng đầu tiên của quý kế tiếp.
- Phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

Thành viên tổ chức tín dụng có được tự gửi tiền bảo hiểm
Câu hỏi:

Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là người sở hữu trên 5% vốn điều lệ của chính tổ chức tín dụng đó có được coi là tiền gửi được bảo hiểm hay không?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 18 Luật bảo hiểm tiền gửi thì tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là người sở hữu trên 5% vốn điều lệ của chính tổ chức tín dụng đó không được coi là tiền gửi được bảo hiểm mà là tiền gửi không được bảo hiểm. Ngoài ra, tiền gửi không được bảo hiểm còn bao gồm các loại tiền sau:
- Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của chính tổ chức tín dụng đó; tiền gửi tại chi nhánh ngân hàng nước ngoài của cá nhân là Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của chính chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó.
- Tiền mua các giấy tờ có giá vô danh do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành.

Bổ sung chữ ký trong chứng từ kế toán
Câu hỏi:

Khi kiểm tra chứng từ kế toán của doanh nghiệp A, kiểm toán phát hiện các chứng từ còn thiếu chữ ký của những người trực tiếp thực hiện các hoạt động liên quan đến chứng từ kế toán và đề nghị doanh nghiệp phải bổ sung. Xin hỏi ý kiến của kiểm toán trong trường hợp này có đúng không? Nội dung chứng từ kế toán bao gồm những vấn đề gì?

Trả lời:
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 16 Luật kế toán, chứng từ kế toán phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
-Tên và số hiệu của chứng từ kế toán;
- Ngày, tháng, năm lập chứng từ kế toán;
- Tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cá nhân nhận chứng từ kế toán;
- Nội dung nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh;
- Số lượng, đơn giá và số tiền của nghiệp vụ kinh tế, tài chính ghi bằng số; tổng số tiền của chứng từ kế toán dùng để thu, chi tiền ghi bằng số và bằng chữ;
- Chữ ký, học và tên của người lập, người duyệt và những người có liên quan đến chứng từ kế toán.
Ngoài những nội dung chủ yếu ở trên, chứng từ kế toán còn có thể thêm những nội dung khác theo từng loại chứng từ.
Như vậy ý kiến của kiểm toán trong trường hợp trên là hoàn toàn đúng đắn.

Hành vi nào bị cấm trong hoạt động kế toán
Câu hỏi:

Đơn vị A khi tổ chức hội nghị đã tự ý tăng số lượng đại biểu tham dự, tẩy xóa chứng từ kế toán khi quyết toán việc tổ chức. Xin hỏi hành vi này của đơn vị có bị pháp luật nghiêm cấm hay không?

Trả lời:

Trả lời:
Hành vi của đơn vị A là một trong những hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật kế toán. Theo điều 13, Luật kế toán quy định các hành vi bị nghiêm cấm như sau:
-Giả mạo, khai man hoặc thỏa thuận, ép buộc người khác giả mạo, khai man, tẩy xóa chứng từ kế toán hoặc tài liệu kế toán khác.
- Cố ý, thỏa thuận hoặc ép buộc người khác cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật.
- Để ngoài sổ kế toán tài sản, nợ phải trả của đơn vị kế toán hoặc có liên quan đến đơn vị kế toán.
- Hủy bỏ hoặc cố ý làm hư hỏng tài liệu kế toán trước khi kết thúc thời hạn lưu trữ quy định tại Điều 41 của Luật kế toán.
- Ban hành, công bố chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán không đúng thẩm quyền.
- Mua chuộc, đe dọa, trù dập, ép buộc người làm kế toán thực hiện công việc kế toán không đúng với quy định của Luật kế toán.
- Người có trách nhiệm quản lý, điều hành đơn vị kế toán kiêm làm kế toán, thủ kho, thủ quỹ trừ doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn do một cá nhân làm chủ sở hữu.
- Bố trí hoặc thuê người làm kế toán, người làm kế toán trưởng không đủ tiêu chuẩn, điều kiện quy định tại Điều 51 và Điều 54 Luật kế toán.
- Thuê, mượn, cho thuê, cho mượn chứng chỉ kế toán viên, Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề dịch vụ kế toán dưới mọi hình thức.
- Lập hai hệ thống sổ kế toán tài chính trở lên hoặc cung cấp, công bố các báo cáo tài chính có số liệu không đồng nhất trong cùng một kỳ kế toán.
- Kinh doanh dịch vụ kế toán khi chưa được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán hoặc hành nghề dịch vụ kế toán khi không đảm bảo điều kiện quy định của Luật kế toán.
- Sử dụng cụm từ “dịch vụ kế toán” trong tên gọi của doanh nghiệp nếu đã quá 06 tháng kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà vẫn không được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán hoặc doanh nghiệp đã chấm dứt kinh doanh dịch vụ kế toán.
- Thuê cá nhân, tổ chức không đủ điều kiện hành nghề, điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán cung cấp dịch vụ kế toán cho đơn vị mình.
- Kế toán viên hành nghề và doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán thông đồng, móc nối với khách hàng để cung cấp, xác nhận thông tin, số liệu kế toán sai sự thật.
- Các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kế toán.

Đơn vị nào được sử dụng trong kế toán
Câu hỏi:

Đơn vị tính sử dụng trong kế toán được quy định như thế nào?

Trả lời:
Trả lời:
Theo Điều 10 Luật kế toán, đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế toán là Đồng Việt Nam, ký hiệu quốc gia là “đ”, ký hiệu quốc tế là “VNĐ”. Trong trường hợp nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh bằng ngoại tệ, thì đơn vị kế toán phải ghi theo nguyên tệ và Đồng Việt Nam theo tỷ giá hối đoái thực tế, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; đối với loại ngoại tệ không có tỷ giá hối đoái với Đồng Việt Nam thì phải quy đổi thông qua một loại ngoại tệ có tỷ giá hối đoái với Đồng Việt Nam.
Đơn vị kế toán chủ yếu thu, chi bằng một loại ngoại tệ thì được tự lựa chọn loại ngoại tệ đó làm đơn vị tiền tệ để kế toán, chịu trách nhiệm trước pháp luật và thông báo cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp. Khi lập báo cáo tài chính sử dụng tại Việt Nam, đơn vị kế toán phải quy đổi ra Đồng Việt Nam theo tỷ giá hối đoái thực tế, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Đơn vị hiện vật và đơn vị thời gian lao động sử dụng trong kế toán là đơn vị đo pháp định của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trường hợp đơn vị kế toán sử dụng đơn vị đo khác thì phải quy đổi ra đơn vị đo pháp định của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đơn vị kế toán được làm tròn số, sử dụng đơn vị tính rút gọn khi lập hoặc công khai báo cáo tài chính. 

Tài sản công có phải đối tượng của kế toán?
Câu hỏi:

Xin hỏi tài sản công có phải là đối tượng kế toán hay không? Pháp luật quy định như thế nào về đối tượng kế toán?

Trả lời:
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 8 Luật kế toán, tài sản công là một trong những đối tượng kế toán. Theo đó, đối tượng kế toán được chia thành 04 loại.
Thứ nhất, đối tượng kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, hành chính, sự nghiệp; hoạt động của đơn vị, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước, bên cạnh tài sản công, còn bao gồm: Tiền, vật tư và tài sản cố định; Nguồn kinh phí, quỹ; Các khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán; Thu, chi và xử lý chênh lệch thu, chi hoạt động; Thu, chi và kết dư ngân sách nhà nước; Đầu tư tài chính, tín dụng nhà nước; Nợ và xử lý nợ công; Tài sản, các khoản phải thu, nghĩa vụ phải trả khác có liên quan đến đơn vị kế toán.
Thứ hai, đối tượng kế toán thuộc hoạt động của đơn vị, tổ chức không sử dụng ngân sách nhà nước bao gồm tài sản, nguồn hình thành tài sản (Tiền, vật tư và tài sản cố định; Nguồn kinh phí, quỹ; Các khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán; Thu, chi và xử lý chênh lệch thu, chi hoạt động; Tài sản, các khoản phải thu, nghĩa vụ phải trả khác có liên quan đến đơn vị kế toán).
Thứ ba, đối tượng kế toán thuộc hoạt động kinh doanh (trừ hoạt động ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán, đầu tư tài chính), bao gồm: Tài sản; Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu; doanh thu, chi phí kinh doanh, thu nhập và chi phí khác; Thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước; Kết quả và phân chia kết quả hoạt động kinh doanh; tài sản, các khoản phải thu, nghĩa vụ phải trả khác có liên quan đến đơn vị kế toán.
Thứ tư, đối tượng kế toán thuộc hoạt động ngân hàng, tín dung, bảo hiểm, chứng khoán, đầu tư tài chính gồm: Các đối tượng kế toán thuộc hoạt động kinh doanh ở trên; các khoản đầu tư tài chính, tín dụng; Các khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán; Các khoản cam kết, bảo lãnh, giấy tờ có giá.

Quyền nghĩa vụ doanh nghiệp thẩm định giá
Câu hỏi:

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thẩm định giá có các quyền và nghĩa vụ nào?

Trả lời:
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp thẩm định giá thực hiện theo quy định tại Điều 42 của Luật giá. Theo đó, doanh nghiệp thẩm định giá có các quyền sau đây:
- Cung cấp dịch vụ thẩm định giá;
- Nhận thù lao dịch vụ thẩm định giá theo giá thỏa thuận với khách hàng đã ghi trong hợp đồng;
- Thành lập chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá;
d) Đặt cơ sở kinh doanh dịch vụ thẩm định giá ở nước ngoài;
- Tham gia tổ chức nghề nghiệp trong nước và ngoài nước về thẩm định giá theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu khách hàng thẩm định giá cung cấp hồ sơ, tài liệu, số liệu có liên quan đến tài sản thẩm định giá;
- Từ chối thực hiện dịch vụ thẩm định giá đối với yêu cầu của khách hàng;   
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp thẩm định giá có các nghĩa vụ cụ thể là:
- Tuân thủ quy định về hoạt động thẩm định giá theo quy định của Luật giá và Luật doanh nghiệp;
- Cung cấp Báo cáo kết quả thẩm định giá và Chứng thư thẩm định giá cho khách hàng và bên thứ ba sử dụng kết quả thẩm định giá theo hợp đồng thẩm định giá đã ký kết;
- Chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, khách quan của kết quả thẩm định giá;
- Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động thẩm định giá hoặc trích lập quỹ dự phòng rủi ro nghề nghiệp;
- Bồi thường thiệt hại cho khách hàng theo quy định của pháp luật do vi phạm những thoả thuận trong hợp đồng thẩm định giá và trong trường hợp kết quả thẩm định giá gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng do không tuân thủ các quy định về thẩm định giá;
- Quản lý hoạt động nghề nghiệp của thẩm định viên về giá thuộc quyền quản lý;
- Thực hiện chế độ báo cáo;
- Lưu trữ hồ sơ, tài liệu về thẩm định giá;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Quy định về chi nhánh doanh nghiệp thẩm định
Câu hỏi:

Hoạt động của chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:
          Theo quy định tại Điều 41 của Luật giá, chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thẩm định giá, có nhiệm vụ thực hiện một phần hoặc toàn bộ công việc thẩm định giá theo sự uỷ quyền bằng văn bản của doanh nghiệp thẩm định giá.
Chi nhánh doanh nghiệp thẩm định giá được thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật và phải có ít nhất 02 thẩm định viên về giá, trong đó Giám đốc chi nhánh phải là thẩm định viên về giá đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá đã thành lập chi nhánh đó.
Doanh nghiệp thẩm định giá phải chịu trách nhiệm về hoạt động của chi nhánh thẩm định giá do doanh nghiệp thành lập.

Ai có quyền quyết định sử dụng tài sản trong doanh nghiệp nhà nước
Câu hỏi:

Công ty X là công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, hiện công ty X đang có nhu cầu đầu tư xây dựng tài sản cố định là Tòa nhà 12 tầng làm trụ sở Công ty. Vậy việc đầu tư xây dựng tài sản cố định được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Trả lời:
Điều 24 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư và sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp 2014 quy định về việc đầu tư, xây dựng, mua bán tài sản cố định như sau:
“1. Thẩm quyền quyết định dự án đầu tư, xây dựng, mua, bán tài sản cố định của doanh nghiệp:
a) Căn cứ chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 05 năm và kế hoạch sản xuất, kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty quyết định từng dự án đầu tư, xây dựng, mua, bán tài sản cố định với giá trị không quá 50% vốn chủ sở hữu được ghi trên báo cáo tài chính quý hoặc báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp tại thời điểm gần nhất với thời điểm quyết định dự án nhưng không quá mức vốn của dự án nhóm B theo quy định của Luật đầu tư công.
Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phân cấp cho Tổng giám đốc hoặc Giám đốc quyết định các dự án đầu tư, xây dựng, mua, bán tài sản cố định theo quy định tại điều lệ hoặc quy chế tài chính của doanh nghiệp;
b) Trường hợp dự án đầu tư, xây dựng, mua, bán tài sản cố định có giá trị lớn hơn mức quy định tại điểm a khoản này, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu xem xét, phê duyệt.
2. Trình tự, thủ tục đầu tư, xây dựng, mua, bán tài sản cố định thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Người quyết định dự án đầu tư, xây dựng, mua, bán tài sản cố định phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật nếu quyết định không đúng thẩm quyền hoặc tài sản cố định được đầu tư, xây dựng, mua, bán không sử dụng được, sử dụng không hiệu quả.”
Như vậy, việc đầu tư xây dựng tài sản cố định của công ty X được thực hiện theo quy định trên. 

Khi nào thực hiện thanh tra hoạt động sử dụng vốn?
Câu hỏi:

Việc giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp được quy định như thế nào?

Trả lời:
Trả lời:
Việc giám sát, kiểm tra, thanh tra của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp được quy định tại Điều 57 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư và sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp 2014, cụ thể như sau:
- Cơ quan đại diện chủ sở hữu thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh tra các hoạt động sau:
+ Đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
+ Thực hiện quyền, trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp, Kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước;
+ Việc chấp hành chính sách, pháp luật của doanh nghiệp;
+ Đầu tư, thu hồi vốn, thu lợi nhuận, cổ tức được chia tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên;
+ Thực hiện kiến nghị, cảnh báo của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thanh tra, kiểm toán, cơ quan đại diện chủ sở hữu về đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
- Căn cứ kết quả giám sát, kiểm tra, thanh tra quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan đại diện chủ sở hữu:
+ Cảnh báo, xử lý kịp thời vấn đề phát hiện trong quá trình giám sát, kiểm tra, thanh tra;
+ Yêu cầu thực hiện đầy đủ, kịp thời kiến nghị, cảnh báo của cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan thanh tra, kiểm toán về đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
+ Xử lý hoặc kiến nghị xử lý theo thẩm quyền đối với người quản lý doanh nghiệp, Kiểm soát viên, người đại diện phần vốn nhà nước có hành vi vi phạm về đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
+ Hằng năm tổng hợp, gửi Bộ Tài chính kết quả giám sát về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp do mình quyết định thành lập hoặc được giao quản lý.

Trách nhiệm người đại diện phần vốn góp
Câu hỏi:

Công ty TNHH 1 Thành viên X là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Doanh nghiệp X cử ông B là người đại diện phần vốn góp doanh nghiệp trong Công ty TNHH hai thành viên K. Hỏi, với cương vị là người đại diện phần vốn góp của doanh nghiệp trong công ty K, ông B có quyền và trách nhiệm như thế nào?

Trả lời:
Trả lời:
Quyền và trách nhiệm của người đại diện phần vốn góp của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ được quy định tại Điều 49 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư và sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp 2014. Trong trường hợp này, ông B có quyền và trách nhiệm như sau:
- Báo cáo, xin ý kiến doanh nghiệp đã cử người đại diện trước khi tham gia ý kiến, biểu quyết và quyết định tại Đại hội đồng cổ đông, cuộc họp của Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên về các vấn đề sau đây:
+ Ngành, nghề kinh doanh, mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển, kế hoạch sản xuất, kinh doanh;
+ Ban hành điều lệ, sửa đổi, bổ sung điều lệ; tăng hoặc giảm vốn điều lệ; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, khen thưởng, xử lý vi phạm đối với thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc;
+ Phân phối lợi nhuận, trích lập các quỹ hằng năm của doanh nghiệp;
+ Tổ chức lại, giải thể, phá sản;
+ Các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên.
- Báo cáo kịp thời về việc công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoạt động thua lỗ, không bảo đảm khả năng thanh toán, không hoàn thành nhiệm vụ được giao và những trường hợp sai phạm khác.
- Định kỳ hằng quý, hằng năm và đột xuất theo yêu cầu của doanh nghiệp, người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tổng hợp, báo cáo tình hình sản xuất, kinh doanh, tình hình tài chính và kiến nghị giải pháp.
- Không được tiếp tục làm người đại diện khi thực hiện không đúng quyền, trách nhiệm được giao hoặc không còn đáp ứng tiêu chuẩn của người đại diện.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi vi phạm gây tổn thất vốn của doanh nghiệp.
- Thực hiện quyền, trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, điều lệ doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Điều kiện đại diện phần vốn của doanh nghiệp nhà nước?
Câu hỏi:

Doanh nghiệp X là Công ty TNHH 1 thành viên 100% vốn nhà nước. Doanh nghiệp X dự định đầu tư góp vốn tại Công ty cổ phần Y. Ông A là người được Doanh nghiệp X ủy quyền làm Người đại diện phần vốn của doanh nghiệp tại công ty cổ phần Y. Hỏi ông A cần đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn gì?

Trả lời:
Trả lời:
Căn cứ theo quy định tại Điều 46 Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư và sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp 2014, tiêu chuẩn của người đại diện phần vốn của doanh nghiệp được quy định như sau:
- Công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam;
- Có phẩm chất chính trị, đạo đức, có đủ năng lực hành vi dân sự, đủ sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao;
- Hiểu biết pháp luật, có ý thức chấp hành pháp luật;
- Có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác phù hợp với yêu cầu của vị trí, chức danh được cử làm người đại diện;
- Không trong thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ, xem xét xử lý kỷ luật, điều tra, truy tố, xét xử, chấp hành hình phạt tù, thi hành quyết định kỷ luật;
- Không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em một, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của Chủ tịch và thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị, Chủ tịch công ty, Kiểm soát viên, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc, Phó Tổng giám đốc hoặc Phó Giám đốc, Kế toán trưởng của doanh nghiệp;
- Tiêu chuẩn khác theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. (Đáp ứng điều kiện theo quy định tại Điều 18 Luật doanh nghiệp 2014).
Như vậy, trong trường hợp ông A đáp ứng được các điều kiện nêu trên, doanh nghiệp X có thể ủy quyền cho ông A làm người đại diện phần vốn góp của doanh nghiệp tại công ty cổ phần Y.

Đại hội đồng cổ đông có quyền gì?
Câu hỏi:

Đề nghị cho biết Quyền và nghĩa vụ của Đại hội đồng cổ đông?

Trả lời:
Trả lời:
Căn cứ theo quy định tại Điều 135 Luật doanh nghiệp 2014, Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông có các quyền và nghĩa vụ sau:
- Thông qua định hướng phát triển của công ty;
- Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần;
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên;
- Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác;
- Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;
- Thông qua báo cáo tài chính hằng năm;
- Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại;
- Xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông công ty;
- Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty;
-  Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.

Cố đông sáng lập có được chuyển nhượng cổ phần?
Câu hỏi:

Tôi là cổ đông sáng lập của Công ty cổ phần K (được thành lập từ tháng 12/2014). Hiện nay tôi muốn chuyển nhượng cổ phần của mình cho chị X (chị X không phải là cổ đông sáng lập). Vậy tôi có được quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho chị X không? Tại sao?

Trả lời:
Trả lời:
Khoản 3 Điều 119 Luật doanh nghiệp 2014 quy định như sau:
“[…]3. Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó.[…]”
Như vậy trong trường hợp của bạn,chị X không phải là cổ đông sáng lập của Công ty cổ phần K, đồng thời công ty mới thành lập năm 2014 nên đang trong thời hạn 3 năm sau khi thành lập. Do đó, bạn chỉ được chuyển nhượng cho chị X khi được sự đồng ý của Đại hội đồng cổ đông. Trong trường hợp Đại hội đồng cổ đông chấp thuận, bạn được phép chuyển nhượng cổ phần của mình cho chị X.

Nội dung điều lệ gồm những gì?
Câu hỏi:

Điều lệ công ty gồm những nội dung gì? Cần chú ý điều gì khi đăng ký và khi sửa đổi, bổ sung Điều lệ doanh nghiệp?

Trả lời:
Trả lời:
Căn cứ theo quy định tại Điều 25 Luật doanh nghiệp 2014, Điều lệ công ty bao gồm Điều lệ khi đăng ký doanh nghiệp và Điều lệ được sửa đổi, bổ sung trong quá trình hoạt động. Điều lệ có các nội dung như sau:
a) Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; tên, địa chỉ chi nhánh và văn phòng đại diện (nếu có);
b) Ngành, nghề kinh doanh;
c) Vốn điều lệ; tổng số cổ phần, loại cổ phần và mệnh giá từng loại cổ phần đối với công ty cổ phần;
d) Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch và các đặc điểm cơ bản khác của các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh; của chủ sở hữu công ty, thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần; phần vốn góp và giá trị vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh; số cổ phần, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần từng loại của cổ đông sáng lập;
đ) Quyền và nghĩa vụ của thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; của cổ đông đối với công ty cổ phần;
e) Cơ cấu tổ chức quản lý;
g) Người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần;
h) Thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ;
i) Căn cứ và phương pháp xác định thù lao, tiền lương và thưởng cho người quản lý và Kiểm soát viên;
k) Những trường hợp thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ phần đối với công ty cổ phần;
l) Nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh;
m) Các trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản công ty;
n) Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty.
Điều lệ khi đăng ký doanh nghiệp phải có họ, tên và chữ ký của những người sau:
a) Các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh;
b) Chủ sở hữu công ty là cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu công ty là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
c) Thành viên là cá nhân và người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của thành viên là tổ chức đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên;
d) Cổ đông sáng lập là cá nhân và người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của cổ đông sáng lập là tổ chức đối với công ty cổ phần.
Điều lệ khi sửa đổi, bổ sung phải có họ, tên và chữ ký của những người sau:
a) Chủ tịch Hội đồng thành viên đối với công ty hợp danh;
b) Chủ sở hữu, người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu hoặc người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
c) Người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và công ty cổ phần.

Đối tượng nào được thành lập doanh nghiệp
Câu hỏi:

Những tổ chức, cá nhân nào có quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp?

Trả lời:
Trả lời:
Điều 18 Luật doanh nghiệp 2014 quy định về quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp,cụ thể:
·        Về quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp:
Tổ chức, cá nhân tại Việt Nam có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật này, trừ các trường hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức;
- Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
- Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.
Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh.
·        Về quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp
Tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
- Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

Yếu tố nào ảnh tác động đến thị trường chứng khoán
Câu hỏi:

Điều kiện để thị trường chứng khoán hoạt động tốt?

Trả lời:

 
 
Thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt và hiệu quả nếu như việc mua bán chứng khoán trên thị trường diễn ra thuận lợi, cung cấp cho nhà đầu tư một cơ chế giao dịch thuận tiện, an toàn, công khai, công bằng và minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư. Hay nói khác, thị trường chứng khoán được xem là hoạt động tốt nếu như nó tạo ra tính thanh khoản cao cho các chứng khoán giao dịch, cung cấp đầy đủ thông tin cho nhà đầu tư và các đối tượng tham gia thị trường, qua đó hình thành nên giá chứng khoán hợp lý, tạo được niềm tin của công chúng vào thị trường chứng khoán.
Vì vậy, để có thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả thì phải có một số điều kiện căn bản sau:
Về yếu tỗ vĩ mô: Sự ổn định môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô nhằm khuyến khích đầu tư và tiết kiệm của công chúng; mức độ lạm phát được kiềm chế vừa đủ để duy trì nền kinh tế phát triển; mức thâm hụt ngân sách trong giới hạn an toàn, các chiến lược phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm được thực hiện có hiệu quả.
Về yếu tố vi mô, đó là:
Khung pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ với hệ thống các văn bản pháp quy đầy đủ, rõ ràng, điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường chứng khoán giúp cho thị trường hoạt động an toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường.
          Mạng lưới các trung gian hoạt động trên thị trường chứng khoán như các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư… vv, đóng vai trò cầu nối giữa các nhà đầu tư thực hiện nghiệp vụ môi giới mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khác cho các nhà đầu tư như cho vay, cung cấp thông tin và các dịch vụ liên quan đến  giao dịch chứng khoán cho nhà đầu tư như tư vấn đầu tư chứng khoán, tham gia bảo lãnh phát hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết.
Cung cấp một cơ chế giao dịch hiệu quả thông qua tổ chức, vận hành của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán gồm hệ thống giao dịch, giám sát, công bố thông tin, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ…vv. Sự vận hành của các hệ thống này có những ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của thị trường thông qua năng lực xử lý nhanh, chính xác các giao dịch trên thị trường, giúp tăng tốc độ luân chuyển vốn trên thị trường.
Các tổ chức hỗ trợ phát triển thị trường, như các định chế trung gian khác là tổ chức định mức tín nhiệm, tổ chức kiểm toán, tư vấn, tổ chức lưu ký, ngân hàng thanh toán…vv. Ngoài ra thị trường cần đến sự tham gia của các nhà đầu tư chuyên nghiệp đóng vai trò dẫn dắt thị trường, can thiệp thị trường vào những thời điểm mất cân đối quan hệ cung cầu.
 
Quỹ đầu tư là gì?
Câu hỏi:

Tôi xin hỏi về bản chất quỹ thành viên?, Tôi thấy người ta hay nói về Muatual Fund?

Trả lời:
 
Quỹ đầu tư chứng khoán là một công cụ huy động vốn và đầu tư rất hiệu quả trên các thị trường vốn. Về cơ bản, Quỹ đầu tư chứng khoán có hai dạng chính như sau:
 
+ Các quỹ công chúng:
Đây còn gọi là quỹ đầu tư tập thể, là những quỹ đầu tư được hình thành từ vốn góp của rất nhiều nhà đầu tư và uỷ thác cho một công ty quản lý quỹ để thực hiện các hoạt động đầu tư của quỹ. Thuật ngữ Muatual Fund có nghĩa là quỹ tương hỗ, thuật ngữ này được dùng rất nhiều ở Mỹ, nơi có hệ thống các quỹ đầu tư rất phát triển. Thuật ngữ này cũng là một cách gọi đối với các quỹ công chúng.
 
Việc huy động vốn của các quỹ này được thực hiện thông qua những đợt phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng. Khi tham gia vào các quỹ công chúng, các nhà đầu tư được hưởng các lợi ích sau:
-          Được hưởng lợi từ việc đầu tư đa dạng hoá, nhờ đó, giảm thiểu các rủi ro không không hệ thống.
-          Được hưởng lợi nhờ giảm thiểu các chi phí đầu tư do quy mô đầu tư của các quỹ thường lớn.
-          Vốn của các nhà đầu tư được quản lý bởi các chuyên gia đầu tư có chuyên môn và giàu kinh nghiệm của một công ty quản lý quỹ.
-          Các chứng chỉ quỹ cũng có tính thanh khoản như một loại cổ phiếu, nhờ đó, các nhà đầu tư có thể dễ dàng bán các chứng chỉ quỹ khi cần thiết.
 
Do nguồn vốn của quỹ công chúng được huy động từ nhiều nhà đầu tư nên hoạt động đầu tư của quỹ công chúng phải tuân thủ rất nhiều hạn chế nghiêm ngặt của pháp luật. Công ty quản lý quỹ thực hiện quản lý cũng phải tuân thủ rất nhiều điều kiện khắt khe trong hoạt động quản lý các quỹ này. Mục đích của các hạn chế trên là nhằm đảm bảo sự an toàn cho Quỹ đầu tư chứng khoán, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của các nhà đầu tư.
 
+ Các quỹ thành viên, hay còn gọi là các quỹ đầu tư tư nhân.
 
Về bản chất, Quỹ thành viên là một dạng Quỹ đầu tư chứng khoán, tuy nhiên, quỹ này chỉ giới hạn ở một số ít nhà đầu tư tham gia góp vốn.
 
Mục tiêu chủ yếu của việc thành lập các Quỹ thành viên là để thực hiện các hoạt động đầu tư có tính chất tương đối mạo hiểm. Các hoạt động đầu tư này có thể mạng lại những khoản lợi nhuận tiềm năng rất cao cho các nhà đầu tư, tuy nhiên rủi ro cũng rất lớn.
 
Với tính chất rủi ro như vậy, các quỹ thành viên không phù hợp với việc huy động vốn từ công chúng. Quy mô và phạm vi huy động vốn của quỹ chỉ tập trung vào một số ít nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và có khả năng chấp nhận những rủi ro cao trong hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, để tham gia vào quỹ thành viên, các nhà đầu tư phải đạt được những điều kiện nhất định do pháp luật đặt ra.
Với tính chất và mục tiêu đầu tư như trên, các quỹ thành viên thường không phải chịu các hạn chế như quỹ công chúng.
Hiện tại, hầu hết các nước có thị trường chứng khoán phát triển đều có hình thức quỹ đầu tư này.
 
 

Làm thế nào để gia nhập thị trường chứng khoán?
Câu hỏi:

Xin hướng dẫn cho tôi biết các bước để tham gia giao dịch tại TTCK Việt Nam?

Trả lời:
 
Trả lời:
 
Để tham gia giao dịch mua, bán chứng khoán trên TTCK Việt Nam bạn cần đến công ty chứng khoán để làm thủ tục mở tài khoản giao dịch chứng khoán. Khách hàng và công ty chứng khoán sẽ ký hợp đồng mở tài khoản và mỗi khách hàng sẽ được công ty chứng khoán mở một tài khoản riêng để theo dõi tiền và chứng khoán của khách hàng. Để mua chứng khoán bạn phải có tiền hoặc để bán chứng khoán bạn phải có chứng khoán trong tài khoản này. Vì vậy, bạn phải gửi tiền vào tài khoản đó hoặc nếu đã có chứng khoán thì bạn phải gửi chứng khoán cho công ty chứng khoán nơi bạn đã mở tài khoản. Sau đó, bạn có thể thực hiện giao dịch (mua/bán) chứng khoán trên tài khoản của mình thông qua công ty chứng khoán bằng việc viết phiếu lệnh và chuyển cho công ty chứng khoán nhập lệnh vào hệ thống giao dịch. Kết thúc phiên giao dịch công ty chứng khoán sẽ thông báo kết quả giao dịch cho bạn.
Để biết thêm chi tiết bạn có thể liên hệ trực tiếp với bộ phận môi giới của các công ty chứng khoán.
 

Yếu tố nào ảnh hưởng đến giá cổ phiếu?
Câu hỏi:

Giá cổ phiếu của một công ty khi niêm yết phụ thuộc vào điều gì?

Trả lời:
Trước hết có thể khẳng định rằng câu hỏi giống như câu hỏi của bạn hay tương tự, đã làm đau đầu các nhà học giả, các nhà đầu tư chứng khoán hàng mấy trăm năm kể từ khi thị trường chứng khoán ra đời, nếu bạn là một fan bóng đá, bạn cũng thấy khó khăn như thế nào để dự đoán kết quả của một trận cầu, thì ở đây khó khăn cũng chẳng kém, nếu bạn cho là khó hơn thì cũng không sao. Và ở trong hầu hết mọi trường hợp, câu trả lời có một điểm chung thống nhất là giá cổ phiếu dường như là một điều gì đó rất bí ẩn, rất khó nắm bắt.
Dưới đây, tác giả bài viết này xin trích đăng tóm tắt những kết luận, ý kiến của các nhà kinh tế, các nhà hoạt động thị trường trên thế giới về những nhân tố chủ yếu có thể ảnh hưởng đến giá cổ phiếu để bạn tham khảo. Tuy nhiên, cũng xin lưu ý bạn rằng, tác động của các nhân tố này tới giá cổ phiếu như thế nào cũng còn rất nhiều tranh luận. Các yếu tố này có thể chia thành 3 nhóm yếu tố, đó là: các yếu tố kinh tế, các yếu tố phi kinh tế, và các yếu tố thị trường.
1.         Nhóm yếu tố kinh tế
Về tăng trưởng kinh tế, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển và giảm khi nền kinh tế kém phát triển; tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm cổ phiếu và tình hình biến động của từng cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình hoạt động cụ thể của từng công ty.
Về mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giá cổ phiếu đôi khi xảy ra trước biến động hoạt động kinh doanh, đôi khi xảy ra sau. Thời gian xảy ra và mức độ biến động này có sự chênh lệch đáng kể qua theo dõi tình hình. Qua một thời gian dài, nhiều người cho rằng giá cổ phiếu phổ thông thay đổi trước hoạt động kinh doanh.
Thu nhập công ty, những người theo trường phái này cho rằng, thu nhập hay lợi nhuận của công ty được coi là nhân tố quan trọng nhất tác động tới giá cổ phiếu. Những nhà kinh doanh và nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu chủ yếu dựa trên cơ sở dự đoán về mức thu nhập. Tuy nhiên, giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng có mối quan hệ chặt chẽ với thu nhập. Có những thời điểm, giá cổ phiếu tăng nhanh hơn thu nhập; vào những thời điểm khác, nó bị tụt lại đằng sau thu nhập. Đôi khi trên thực tế, nó lại biến động theo chiều hướng ngược lại với thu nhập. Do vậy, dù một người theo dõi rất sát thị trường đã dự đoán đúng xu hướng thay đổi của thu nhập, nhưng không có gì bảo đảm rằng anh ta có thể dự đoán chính xác xu hướng biến đổi của giá cổ phiếu.
Cổ tức, những người theo trường  phái này cho rằng cổ tức là nhân tố cơ bản, chủ yếu thứ hai sau thu nhập, trong việc xác định giá chứng khoán. Thực chất điều này không khác gì một câu thành ngữ cổ xưa “1 con chim trong nhà có trị giá bằng 2 con chim trong rừng”. Tuy nhiên, cổ tức không đóng vai trò quan trọng đối với loại cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu mà người ta coi sự tăng giá của chúng là rất quan trọng, thường xuyên mang lại lợi suất đầu tư cuối cùng lớn hơn nhiều so với cổ tức hiện tại. Một công ty tăng trưởng có khả năng sử dụng số vốn này có hiệu quả hơn cho các cổ đông, là những người luôn phải tìm kiếm cơ hội đầu tư. Trong tất cả các nhân tố báo chí sử dụng để giải thích về sự biến động giá hàng ngày của từng cổ phiếu, các thông tin về cổ tức luôn được xếp ở vị trí quan trọng gần đầu.
Lãi suất, mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu là gián tiếp và luôn thay đổi. Nguyên nhân là do luồng thu nhập từ cổ phiếu có thể thay đổi theo lãi suất và chúng ta không thể chắc chắn liệu sự thay đổi của luồng thu nhập này có làm tăng hay bù đắp cho mức biến động về lãi suất hay không. Để giải thích rõ vấn đề này, chúng ta sẽ xem xét các khả năng có thể xảy ra khi tỷ lệ lạm phát tăng, cụ thể như sau:
Lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát tăng và thu nhập công ty theo đó cũng tăng vì công ty có thể tăng giá cho phù hợp với mức tăng của chi phí. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có thể khá ổn định vì ảnh hưởng tiêu cực của việc tăng tỷ suất lợi nhuận đã được đền bù một phần hay toàn bộ bởi phần tăng của tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và cổ tức.
Lãi suất tăng, nhưng luồng thu nhập dự tính thay đổi rất ít do công ty không có khả năng tăng giá để phù hợp với chi phí tăng, do vậy, giá cổ phiếu giảm. Tỷ suất lợi nhuận quy định có thể tăng nhưng tỷ lệ tăng trưởng của cổ tức là không đổi, nên mức chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Lãi suất tăng trong khi luồng thu nhập giảm vì các nguyên nhân làm tăng lãi suất lại gây tác động xấu tới thu nhập của công ty. Hoặc là người ta có thể hình dung thời kỳ lạm phát trong đó chi phí sản xuất tăng, nhưng nhiều công ty không thể tăng giá, dẫn tới biên độ lợi nhuận giảm. Tác động của một loạt các sự kiện này là rất tồi tệ. Trong những trường hợp này, giá cổ phiếu sẽ sụt nghiêm trọng vì tỷ suất lợi nhuận giảm khi cổ tức giảm, dẫn tới chênh lệch giữa 2 nhân tố này càng lớn.
Đối với những trường hợp ngược lại so với các trường hợp trên, bạn có thể hình dung ra một loạt các khả năng ngược lại khi lạm phát và lãi suất giảm. Mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và giá cổ phiếu là một vấn đề đòi hỏi phải có kinh nghiệm và ảnh hưởng của chúng thay đổi theo từng thời kỳ. Do vậy, mặc dù mối quan hệ giữa lạm phát, lãi suất và thu nhập từ cổ phiếu là tiêu cực, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Hơn nữa, ngay cả khi điều này là đúng trên toàn bộ thị trường, thì vẫn tồn tại một số ngành nhất định có thể có thu nhập và cổ tức tạo ảnh hưởng tích cực từ những biến động về lạm phát và lãi suất. Trong trường hợp này, giá cổ phiếu có mối quan hệ tốt với lạm phát và lãi suất.
Giá cả hàng hoá (lạm phát), Lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ đã cung cấp nhiều thông tin về sự bất cập của giá chứng khoán trong mối quan hệ với giá hàng hoá. Từ năm 1923 tới 1929 là một giai đoạn đáng ghi nhớ khi giá bán buôn ổn định và giá hàng hoá có xu hướng giảm nhẹ. Tuy nhiên, trong thời kỳ đó, giá chứng khoán theo thống kê tăng vọt phổ biến trên các thị trường đầu cơ giá lên. Ngược lại, giá hàng hoá tăng vào năm 1940, 1941, và 1942, nhưng giá cổ phiếu lại hạ. Vào mùa xuân năm 1946, việc kiểm soát giá hàng hoá đã bị bãi bỏ, và lạm phát về giá hàng hoá đã lên tới đỉnh điểm cho đến hết năm và tiếp tục tăng cho đến đến giữa năm 1948, giá cả tăng đều trong hai năm. Giá cổ phiếu bắt đầu biến động gần như vào đúng ngày giá hàng hoá bắt đầu tăng vào năm 1946; giá cổ phiếu giảm mạnh từ tháng 8 cho tới cuối năm. Nói cách khác, giá chứng khoán sụp đổ vào năm 1946 đúng vào thời điểm nguy cơ lạm phát tăng mạnh nhất do ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới lần thứ II.
Sự không nhất quán trong các phản ứng của giá cổ phiếu trước sự thay đổi giá hàng hoá đã làm nhà phân tích ngày càng chán nản bởi vì giá cổ phiếu trước đây thường có xu hướng biến động trước khi giá hàng hoá biến động tới vài tháng. Do vậy, dường như giá hàng hoá với tư cách là một chỉ số của giá chứng khoán tỏ ra không đáng tin cậy và có lẽ là không có giá trị.
Các yếu tố kinh tế khác
Trong những năm gần đây, các chỉ số hàng đầu thường được các nhà dự báo chứng khoán nhắc tới bao gồm số liệu về việc làm, những thay đổi về hàng tồn kho, và những biến động về lượng cung tiền. Lãi suất cơ bản (thường là lãi suất trái phiếu chính phủ) trong những năm gần đây đã thu hút sự chú ý đáng kể cho dù từ lâu nó chỉ được coi là một nhân tố không đáng kể chứ không phải là nhân tố hàng đầu. Bởi vì giá chứng khoán là một trong những chỉ số được coi trọng nhất trong 12 chỉ số hàng đầu, nên các nhà dự báo cho rằng tốt nhất nên dự tính lãi suất cơ bản theo giá chứng khoán hơn là dự đoán giá chứng khoán theo những thay đổi của lãi suất cơ bản.
Các chỉ số quan trọng khác bao gồm vốn vay liên ngân hàng, các khoản vay thương mại và dịch vụ, giao dịch vốn trên thị trường tiền tệ, và các số liệu về giao dịch và thanh toán của quỹ tương hỗ.
2.         Nhóm yếu tố phi kinh tế
Nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu tiếp theo là những yếu tố phi kinh tế, bao gồm sự thay đổi về các điều kiện chính trị, ví dụ chiến tranh hoặc thay đổi cơ cấu Chính phủ, thay đổi về thời tiết và những nhân tố tự nhiên khác, và thay đổi về điều kiện văn hoá, như tiến bộ về công nghệ v.v Tuy nhiên, những yếu tố này chỉ có ảnh hưởng lớn đối với giá chứng khoán ở những nước có nền kinh thế thị trường phát triển, thị trường sẽ đánh giá những chính sách này. Trong điều kiện Việt Nam, nền chính trị ổn định, mặt khác thị trường chứng khoán còn chưa phát triển, thì yếu tố này ít có tác động.
3.         Nhóm yếu tố thị trường
Các yếu tố thị trường, là những nhân tố bên trong của thị trường, bao gồm sự biến động thị trường và mối quan hệ cung cầu có thể được coi là nhóm yếu tố thứ ba tác động tới giá cổ phiếu. Sự biến động thị trường là một hiện tượng chờ đợi thái quá từ việc dự tính quá cao giá trị thực chất của cổ phiếu khi giá cổ phiếu cao nhờ sự phát đạt của công ty, và ngược lại do dự đoán thấp giá trị tại thời điểm thị trường đi xuống. Mối quan hệ giữa cung và cầu được trực tiếp phản ánh thông qua khối lượng giao dịch trên thị trường, hoạt động của những nhà đầu tư có tổ chức, giao dịch ký quỹ v.v cũng có ảnh hưởng đáng kể. Mặc dù số lượng giao dịch ký quỹ tăng khi mà giá cổ phiếu tăng, nhưng một khi giá cổ phiếu giảm số lượng cổ phiếu bán ra tăng và làm cho giá càng giảm.
Như vậy, dao động giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của nhiều nhân tố khác nhau, hạt nhân chính là các yếu tố về khả năng thu nhập công ty.
Đối với TTCK Việt Nam, theo quan điểm cá nhân của tác giả bài viết này, thì giá cổ phiếu của công ty niêm yết về cơ bản cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố nói trên nhưng mức độ không rõ ràng. Có thể thống kê những yếu tố chủ yếu sau:
Yếu tố tâm lý “bầy đàn”, thuộc nhóm yếu tố thị trường nói ở trên, thể hiện tương đối rõ nét nhất là ở trong giai đoạn đầu thị trường mới thành lập. Bạn có thể thấy rõ hiện tượng này qua biểu hiện giá của đa số các cổ phiếu đều lên hoặc đều xuống, giá cổ phiếu biến động tăng /giảm không phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, mà chủ yếu do yếu tố tâm lý của người đầu tư trên thị trường. Sau này mới có sự phân hoá về biến động giá giữa các loại cổ phiếu khác nhau, tuy nhiên, hiện nay yếu tố này vẫn chiếm xu thế chủ đạo.
Thu nhập công ty, yếu tố này có tác động tương đối rõ rệt tới giá cổ phiếu, chẳng hạn vừa qua giá cổ phiếu của CTCP Chế biến hàng xuất khẩu Long An tăng “kịch trần” nhiều phiên bởi Công ty công bố lợi nhuận sau thuế quý III /2004 đạt 8, 6 tỷ đồng tăng hơn 140% so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài những yếu tố nói trên, có thể tính đến các yếu tố khác như mức trả cổ tức, thông tin mua bán cổ phiếu của các thành viên trong ban lãnh đạo công ty, thông tin tách gộp cổ phiếu, thông tin về việc phát hành thêm cổ phiếu, tin đồn…Những người đầu tư chuyên nghiệp hơn có thể còn tìm hiểu các thông tin liên quan đến chính sách của Chính phủ đối với thị trường chứng khoán, chính sách cổ phần hoá DNNN, tình hình quản trị của công ty niêm yết, tên tuổi của CTCK bảo lãnh phát hành hay tư vấn niêm yết cho công ty niêm yết.
Để kết thúc bài viết này, tác giả cho rằng lời khuyên sau đây của các nhà đầu tư nổi tiếng trên thị trường chứng khoán thế giới đáng để bạn quan tâm, đó là từng nhà đầu tư cần phải có những phân tích, suy xét của riêng mình trước khi đưa ra quyết định mua hay bán, tránh bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tâm lý trên thị trường. Có như vậy thì từng nhà đầu tư mới có thể tìm kiếm được cho mình những cơ hội đầu tư sinh lời bất kể tình hình giá cả thị trường biến động lên hay xuống. Chúc bạn thành công.
TOQUO

Có bắt buộc phải đăng ký bảo hộ
Câu hỏi:

Tôi hiện có nhu cầu sản xuất và bán một số sản phẩm do chúng tôi tự thực hiện như: quần áo thời trang, giày dép... Tôi cũng đã nghĩ ra một thương hiệu cho riêng mình. Nhưng hiện tôi chưa thành lập công ty thì có được đăng ký nhãn hiệu hay không? Và tôi cứ sử dụng thương hiệu này và treo biển quảng cáo thì có bị vi phạm pháp luật hay không?

Trả lời:

Hiện Luật Sở hữu trí tuệ và tất cả các văn bản liên quan tới pháp luật SHTT khác đều không có bất kỳ quy định nào về việc muốn sử dụng nhãn hiệu thì phải qua thủ tục đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ. Các thuật ngữ mà pháp luật Sở hữu trí tuệ sử dụng là "đăng ký bảo hộ" đối với nhãn hiệu, "điều kiện bảo hộ" của nhãn hiệu... Dựa vào đây có thể thấy, bản chất của việc đăng ký nhãn hiệu là "đăng ký để được bảo hộ nhãn hiệu", chứ không phải đăng ký để được sử dụng nhãn hiệu.

 

Thực vậy, nếu có nhu cầu sử dụng nhãn hiệu, quý khách hàng vẫn có thể thiết kế và sử dụng nhãn hiệu hoàn toàn bình thường, tuy nhiên, có một số nội dung cần lưu ý:

Thứ nhất, không giống như quyền tác giả đối với các loại tác phẩm được liệt kê trong Điều 14 của Luật Sở hữu trí tuệ (tác phẩm âm nhạc, tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, tác phẩm viết...) được mặc nhiên bảo hộ quyền tác giả kể từ ngày tác phẩm được hoàn thành thì quyền về quyền sở hữu công nghiệp thì lại khác (có bao gồm nhãn hiệu). Cơ sở để xác lập và phát sinh quyền được bảo hộ đối với nhãn hiệu là chủ nhãn hiệu phải thực hiện thủ tục đăng ký nhãn hiệu tại Cục SHTT (trừ trường hợp đối với tên thương mại). Sau khi đảm bảo đủ các điều kiện để được bảo hộ nhãn hiệu theo quy định tại các Điều 72, 73, 74, 75 của Luật Sở hữu trí tuệ và được Cục SHTT cấp  văn bằng bảo hộ, thì cá nhân/tổ chức là chủ sở hữu của nhãn hiệu hoàn toàn được xác lập toàn bộ quyền bảo hộ của mình đối với nhãn hiệu. Bao gồm: quyền sử dụng, quảng cáo, in ấn nhãn hiệu lên các sản phẩm, nhượng quyền thương mại, nhượng quyền sử dụng nhãn hiệu, nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu cho cá nhân/tổ chức khác.... Nếu phát hiện ra bất kỳ hành vi xâm phạm nào về nhãn hiệu, thương hiệu, chủ sở hữu văn bằng bảo hộ nhãn hiệu ngay lập tức được quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tham gia giải quyết và xử phạt.

Thứ hai, Việc đăng ký nhãn hiệu là cần thiết đối với việc để chủ nhãn hiệu xem xét hàng hoá/dịch vụ có gắn nhãn hiệu của mình có bị coi là vi phạm pháp luật Sở hữu trí tuệ hay các quy định pháp luật khác hay không. Bởi trên thực tế có những trường hợp có các nhãn hiệu đã được cá nhân/tổ chức tiến hành đăng ký tại Cục SHTT nhưng không được các chủ đơn này quảng cáo, sử dụng rộng rãi, nên các chủ thể kinh doanh khác không thể biết được nhãn hiệu đó đã được bảo hộ hay chưa. Việc không rõ ràng này dẫn đến sự vi phạm về pháp luật sở hữu trí tuệ của các bên sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với các nhãn hiệu đã được bảo hộ. Do vậy, đã xảy ra những trường hợp chủ thể kinh doanh rõ ràng không biết, không muốn vi phạm pháp luật nhưng vẫn bị xử phạt vi phạm hành chính về SHTT do sử dụng nhãn hiệu trùng/tương tự gây nhầm lẫn với các sản phẩm do bên khác cung cấp.

Vì vậy, việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu lúc này sẽ được coi như là một bước để các chủ thể kinh doanh biết rằng, nhãn hiệu của mình có thực sự được coi là "độc quyền" hay không, có trùng lặp với nhãn hiệu của người khác hay không để tránh những sự việc đáng tiếc như: mất rất nhiều chi phí quảng cáo thương hiệu và sử dụng lên sản phẩm... thì cuối cùng các sản phẩm này lại bị thu hồi, thương hiệu biến mất....

Với cơ chế thị trường phát triển như hiện nay, cùng với hoạt động xuất nhập khẩu các loại sản phẩm diễn ra vô cùng phổ biến thì lượng hàng hoá với các thương hiệu xuất hiện ngày càng đa dạng và mở rộng hơn. Do đó, việc đăng ký bảo hộ thương hiệu lại là điều cần thiết hơn nữa để bảo vệ được quyền lợi cho các chủ thể kinh doanh trong quá trình hoạt động

Cách xác định vị trí thửa đất chính xác
Câu hỏi:

Thưa luật sư! Họ định vị lô đất tôi từ vỉa hè lùi vào 3m (chỉ giới xd), nhưng họ lấy 2 mốc đầu theo 2 con đường, và đuổi về sau 16m cho 2 mốc phía sau. Nên đất tôi giờ xéo xẹo, ra hình bình hành chứ không còn hình chữ nhật. Tôi không đồng ý, vì đất tôi vuông vức.Tôi bảo họ chỉ được lấy 1 mốc bên phải hoặc bên trái theo một con đường, vì đất tôi chỉ một mặt tiền, bên phía nào mà khi tôi xây dựng không phạm 3m chỉ giới xd là được. Thì bên địa chính đồng ý. Nhưng khi lấy mốc đó, họ định vị theo phương ngang thì nhà tôi đủ 5,5m bề ngang, thì lô đất kế bên chỉ còn lại 5m không đủ 5,5m. Nên giờ họ ko chịu, bắt chúng tôi phải định vị lô đất xéo xẹo theo hình bình hành, để cho đủ bề ngang 5,5m. Như vậy thì lô đất của chúng tôi không giống trong sổ đỏ. Họ không chịu định vị. Vậy nên tôi kính nhờ ls tư vấn giúp tôi nên làm gì trong việc này.
Mong hồi âm sớm lại của quý ls. Chân thành cảm ơn.

Trả lời:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 20 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT về lập bản đồ địa chính và sổ mục kê đất đai:

 

 

"1. Bản đồ địa chính là thành phần của hồ sơ địa chính; thể hiện vị trí, ranh giới, diện tích các thửa đất và các đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất; được lập để đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận và các nội dung khác của quản lý nhà nước về đất đai.

2. Sổ mục kê đất đai là sản phẩm của việc điều tra, đo đạc địa chính, để tổng hợp các thông tin thuộc tính của thửa đất và các đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất gồm: Số hiệu tờ bản đồ, số hiệu thửa đất, diện tích, loại đất, tên người sử dụng đất và người được giao quản lý đất để phục vụ yêu cầu quản lý đất đai.

3. Bản đồ địa chính, sổ mục kê đất đai được lập dưới dạng số và được lưu giữ trong cơ sở dữ liệu địa chính để sử dụng cho quản lý đất đai ở các cấp; được in ra giấy để sử dụng ở những nơi chưa hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính hoặc chưa có điều kiện để khai thác sử dụng bản đồ địa chính, sổ mục kê đất đai dạng số.

4. Việc đo đạc lập, chỉnh lý bản đồ địa chính, sổ mục kê đất đai được thực hiện theo quy định về bản đồ địa chính của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

5. Trường hợp chưa đo đạc lập bản đồ địa chính thì được sử dụng các loại tài liệu đo đạc khác để thực hiện đăng ký đất đai theo quy định như sau:

a) Nơi có bản đồ giải thửa thì phải kiểm tra, đo đạc chỉnh lý biến động ranh giới thửa đất, loại đất cho phù hợp hiện trạng sử dụng và quy định về loại đất, loại đối tượng sử dụng đất theo Thông tư này để sử dụng;

b) Nơi có bản đồ quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn thì phải kiểm tra, chỉnh lý cho phù hợp hiện trạng sử dụng đất và biên tập lại nội dung theo quy định về bản đồ địa chính để sử dụng;

c) Trường hợp không có bản đồ giải thửa hoặc bản đồ quy hoạch xây dựng chi tiết thì thực hiện trích đo địa chính để sử dụng theo quy định về bản đồ địa chính của Bộ Tài nguyên và Môi trường."

Theo nội dung tại Điều 11 Thông 25/2014/TT – BTNMT ngày 19 tháng 05 năm 2014 nguyên tắc xác định ranh giới thửa đất, lập bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất như sau:

“1. Xác định ranh giới thửa đất

1.1. Trước khi đo vẽ chi tiết, cán bộ đo đạc phải phối hợp với người dẫn đạc (là công chức địa chính cấp xã hoặc cán bộ thôn, xóm, ấp, tổ dân phố... để được hỗ trợ, hướng dẫn việc xác định hiện trạng, ranh giới sử dụng đất), cùng với người sử dụng, quản lý đất liên quan tiến hành xác định ranh giới, mốc giới thửa đất trên thực địa, đánh dấu các đỉnh thửa đất bằng đinh sắt, vạch sơn, cọc bê tông, cọc gỗ và lập Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất để làm căn cứ thực hiện đo đạc ranh giới thửa đất; đồng thời, yêu cầu người sử dụng đất xuất trình các giấy tờ liên quan đến thửa đất (có thể cung cấp bản sao các giấy tờ đó không cần công chứng, chứng thực).

1.2. Ranh, giới thửa đất được xác định theo hiện trạng đang sử dụng, quản lý và chỉnh lý theo kết quả cấp Giấy chứng nhận, bản án của tòa án có hiệu lực thi hành, kết quả giải quyết tranh chấp của cấp có thẩm quyền, các quyết định hành chính của cấp có thẩm quyền có liên quan đến ranh giới thửa đất.

Trường hợp đang có tranh chấp về ranh giới thửa đất thì đơn vị đo đạc có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có thửa đất để giải quyết. Trường hợp tranh chấp chưa giải quyết xong trong thời gian đo đạc ở địa phương mà xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thì đo đạc theo ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý đó; nếu không thể xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thi được phép đo vẽ khoanh bao các thửa đất tranh chấp; đơn vị đo đạc có trách nhiệm lập bản mô tả thực trạng phần đất đang tranh chấp thành 02 bản, một bản lưu hồ sơ đo đạc, một bản gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để thực hiện các bước giải quyết tranh chấp tiếp theo theo thẩm quyền.

2. Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất

2.1. Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất được lập theo mẫu quy định tại Phụ lục số 11 kèm theo Thông tư này cho tất cả các thửa đất trừ các trường hợp sau đây:

a) Thửa đất có giấy tờ thỏa thuận hoặc văn bản xác định ranh giới, mốc giới sử dụng đất có bản vẽ thể hiện rõ ranh giới sử dụng đất mà ranh giới hiện trạng của thửa đất không thay đổi so với bản vẽ trên giấy tờ đó;

b) Thửa đất có giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất mà trong giấy tờ đó thể hiện rõ đường ranh giới chung của thửa đất với các thửa đất liền kề và hiện trạng ranh giới của thửa đất không thay đổi so với giấy tờ hiện có;

c) Đối với thửa đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất làm muối, đất nuôi trồng thủy sản có bờ thửa hoặc cọc mốc cố định, rõ ràng trên thực địa thì không phải lập Bản mô tả ranh giới, mốc giới sử dụng đất nhưng sau khi có bản đồ thể hiện hiện trạng sử dụng đất phải công bố công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và khu dân cư trong thời gian tối thiểu là 10 ngày liên tục, đồng thời phải thông báo rộng rãi cho người sử dụng đất biết để kiểm tra, đối chiếu; hết thời gian công khai phải lập Biên bản xác nhận việc công khai bản đồ địa chính theo mẫu quy định tại Phụ lục số 14 kèm theo Thông tư này;

2.2. Trường hợp trên giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất có sơ đồ thể hiện ranh giới thửa đất nhưng khác với ranh giới thửa đất theo hiện trạng khi đo vẽ thì trên Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất phải thể hiện ranh giới theo hiện trạng và ranh giới theo giấy tờ đó.

2.3. Trường hợp ranh giới thửa đất đang có tranh chấp thì trên Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất thể hiện đồng thời theo hiện trạng đang sử dụng, quản lý và theo ý kiến của các bên liên quan.

2.4. Trường hợp người sử dụng đất, người sử dụng đất liền kề vắng mặt trong suốt thời gian đo đạc thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đã được các bên liên quan còn lại và người dẫn đạc xác nhận. Đơn vị đo đạc có trách nhiệm chuyển Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất cho Ủy ban nhân dân cấp xã để thông báo (hoặc gửi) cho người sử dụng đất vắng mặt ký sau đó.”

Xác định ranh giới sử dụng đất và đo đạc, lập bản đồ địa chính được thể hiện trong Thông tư 07/2015/TT-BTNMT như sau:

1. Việc đo đạc xác định ranh giới sử dụng đất thực hiện theo quy định sau:

a) Việc đo đạc xác định ranh giới bao gồm: đo đạc xác định tọa độ mốc ranh giới, điểm đặc trưng và điểm chi tiết khác trên đường ranh giới của công ty nông, lâm nghiệp;

b) Đối với các khu vực đã có bản đồ địa chính đáp ứng theo yêu cầu thì biên tập đường ranh giới từ bản đồ địa chính c theo quy định thì thực hiện đo đạc, chỉnh lý thửa đất khu vực biến động đó;

d) Việc xác định phương pháp đo và yêu cầu độ chính xác điểm mốc ranh giới được thực hiện theo yêu cầu như đối với điểm khống chế đo vẽ quy định.

đ) Việc xác định phương pháp đo và yêu cầu độ chính xác xác định vị trí điểm đặc trưng, điểm chi tiết khác không cắm mốc trên đường ranh giới thực hiện theo yêu cầu đối.

 Như vậy, khi tiến hành đo đạc thì trách nhiệm của cán bộ địa chính thực hiện phải phối hợp với các chủ thể như chủ sử dụng, phối hợp với người dẫn đạc, người quản lý khi đo đạc. Nếu có tranh chấp mà trường hợp tranh chấp chưa giải quyết xong trong thời gian đo đạc ở địa phương mà xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thì đo đạc theo ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý đó; nếu không thể xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thi được phép đo vẽ khoanh bao các thửa đất tranh chấp; đơn vị đo đạc có trách nhiệm lập bản mô tả thực trạng phần đất đang tranh chấp thành 02 bản.

Theo đó, về trình tự thủ tục đo đạc của cán bộ địa chính xã là chưa hợp lý. Bạn có thể làm đơn yêu cầu đo đạc cũng như xác định lại vị trí đất để đúng với phần đất gia điình bạn được cấp trong sổ đỏ. Nếu sau khi nộp đơn yêu cầu và giải quyết chưa thỏa đáng thì gia đình bạn có thể làm đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp gửi tới UBND cấp huyện.

Cách xác định vị trí thửa đất
Câu hỏi:

Thưa luật sư! Họ định vị lô đất tôi từ vỉa hè lùi vào 3m (chỉ giới xd), nhưng họ lấy 2 mốc đầu theo 2 con đường, và đuổi về sau 16m cho 2 mốc phía sau. Nên đất tôi giờ xéo xẹo, ra hình bình hành chứ không còn hình chữ nhật. Tôi không đồng ý, vì đất tôi vuông vức.Tôi bảo họ chỉ được lấy 1 mốc bên phải hoặc bên trái theo một con đường, vì đất tôi chỉ một mặt tiền, bên phía nào mà khi tôi xây dựng không phạm 3m chỉ giới xd là được. Thì bên địa chính đồng ý. Nhưng khi lấy mốc đó, họ định vị theo phương ngang thì nhà tôi đủ 5,5m bề ngang, thì lô đất kế bên chỉ còn lại 5m không đủ 5,5m. Nên giờ họ ko chịu, bắt chúng tôi phải định vị lô đất xéo xẹo theo hình bình hành, để cho đủ bề ngang 5,5m. Như vậy thì lô đất của chúng tôi không giống trong sổ đỏ. Họ không chịu định vị. Vậy nên tôi kính nhờ ls tư vấn giúp tôi nên làm gì trong việc này.
Mong hồi âm sớm lại của quý ls. Chân thành cảm ơn.

Trả lời:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 20 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT về lập bản đồ địa chính và sổ mục kê đất đai:

 

"1. Bản đồ địa chính là thành phần của hồ sơ địa chính; thể hiện vị trí, ranh giới, diện tích các thửa đất và các đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất; được lập để đăng ký đất đai, cấp Giấy chứng nhận và các nội dung khác của quản lý nhà nước về đất đai.

2. Sổ mục kê đất đai là sản phẩm của việc điều tra, đo đạc địa chính, để tổng hợp các thông tin thuộc tính của thửa đất và các đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất gồm: Số hiệu tờ bản đồ, số hiệu thửa đất, diện tích, loại đất, tên người sử dụng đất và người được giao quản lý đất để phục vụ yêu cầu quản lý đất đai.

3. Bản đồ địa chính, sổ mục kê đất đai được lập dưới dạng số và được lưu giữ trong cơ sở dữ liệu địa chính để sử dụng cho quản lý đất đai ở các cấp; được in ra giấy để sử dụng ở những nơi chưa hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính hoặc chưa có điều kiện để khai thác sử dụng bản đồ địa chính, sổ mục kê đất đai dạng số.

4. Việc đo đạc lập, chỉnh lý bản đồ địa chính, sổ mục kê đất đai được thực hiện theo quy định về bản đồ địa chính của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

5. Trường hợp chưa đo đạc lập bản đồ địa chính thì được sử dụng các loại tài liệu đo đạc khác để thực hiện đăng ký đất đai theo quy định như sau:

a) Nơi có bản đồ giải thửa thì phải kiểm tra, đo đạc chỉnh lý biến động ranh giới thửa đất, loại đất cho phù hợp hiện trạng sử dụng và quy định về loại đất, loại đối tượng sử dụng đất theo Thông tư này để sử dụng;

b) Nơi có bản đồ quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn thì phải kiểm tra, chỉnh lý cho phù hợp hiện trạng sử dụng đất và biên tập lại nội dung theo quy định về bản đồ địa chính để sử dụng;

c) Trường hợp không có bản đồ giải thửa hoặc bản đồ quy hoạch xây dựng chi tiết thì thực hiện trích đo địa chính để sử dụng theo quy định về bản đồ địa chính của Bộ Tài nguyên và Môi trường."

Theo nội dung tại Điều 11 Thông 25/2014/TT – BTNMT ngày 19 tháng 05 năm 2014 nguyên tắc xác định ranh giới thửa đất, lập bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất như sau:

“1. Xác định ranh giới thửa đất

1.1. Trước khi đo vẽ chi tiết, cán bộ đo đạc phải phối hợp với người dẫn đạc (là công chức địa chính cấp xã hoặc cán bộ thôn, xóm, ấp, tổ dân phố... để được hỗ trợ, hướng dẫn việc xác định hiện trạng, ranh giới sử dụng đất), cùng với người sử dụng, quản lý đất liên quan tiến hành xác định ranh giới, mốc giới thửa đất trên thực địa, đánh dấu các đỉnh thửa đất bằng đinh sắt, vạch sơn, cọc bê tông, cọc gỗ và lập Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất để làm căn cứ thực hiện đo đạc ranh giới thửa đất; đồng thời, yêu cầu người sử dụng đất xuất trình các giấy tờ liên quan đến thửa đất (có thể cung cấp bản sao các giấy tờ đó không cần công chứng, chứng thực).

1.2. Ranh, giới thửa đất được xác định theo hiện trạng đang sử dụng, quản lý và chỉnh lý theo kết quả cấp Giấy chứng nhận, bản án của tòa án có hiệu lực thi hành, kết quả giải quyết tranh chấp của cấp có thẩm quyền, các quyết định hành chính của cấp có thẩm quyền có liên quan đến ranh giới thửa đất.

Trường hợp đang có tranh chấp về ranh giới thửa đất thì đơn vị đo đạc có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có thửa đất để giải quyết. Trường hợp tranh chấp chưa giải quyết xong trong thời gian đo đạc ở địa phương mà xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thì đo đạc theo ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý đó; nếu không thể xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thi được phép đo vẽ khoanh bao các thửa đất tranh chấp; đơn vị đo đạc có trách nhiệm lập bản mô tả thực trạng phần đất đang tranh chấp thành 02 bản, một bản lưu hồ sơ đo đạc, một bản gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để thực hiện các bước giải quyết tranh chấp tiếp theo theo thẩm quyền.

2. Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất

2.1. Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất được lập theo mẫu quy định tại Phụ lục số 11 kèm theo Thông tư này cho tất cả các thửa đất trừ các trường hợp sau đây:

a) Thửa đất có giấy tờ thỏa thuận hoặc văn bản xác định ranh giới, mốc giới sử dụng đất có bản vẽ thể hiện rõ ranh giới sử dụng đất mà ranh giới hiện trạng của thửa đất không thay đổi so với bản vẽ trên giấy tờ đó;

b) Thửa đất có giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất mà trong giấy tờ đó thể hiện rõ đường ranh giới chung của thửa đất với các thửa đất liền kề và hiện trạng ranh giới của thửa đất không thay đổi so với giấy tờ hiện có;

c) Đối với thửa đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất làm muối, đất nuôi trồng thủy sản có bờ thửa hoặc cọc mốc cố định, rõ ràng trên thực địa thì không phải lập Bản mô tả ranh giới, mốc giới sử dụng đất nhưng sau khi có bản đồ thể hiện hiện trạng sử dụng đất phải công bố công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và khu dân cư trong thời gian tối thiểu là 10 ngày liên tục, đồng thời phải thông báo rộng rãi cho người sử dụng đất biết để kiểm tra, đối chiếu; hết thời gian công khai phải lập Biên bản xác nhận việc công khai bản đồ địa chính theo mẫu quy định tại Phụ lục số 14 kèm theo Thông tư này;

2.2. Trường hợp trên giấy tờ pháp lý về quyền sử dụng đất có sơ đồ thể hiện ranh giới thửa đất nhưng khác với ranh giới thửa đất theo hiện trạng khi đo vẽ thì trên Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất phải thể hiện ranh giới theo hiện trạng và ranh giới theo giấy tờ đó.

2.3. Trường hợp ranh giới thửa đất đang có tranh chấp thì trên Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất thể hiện đồng thời theo hiện trạng đang sử dụng, quản lý và theo ý kiến của các bên liên quan.

2.4. Trường hợp người sử dụng đất, người sử dụng đất liền kề vắng mặt trong suốt thời gian đo đạc thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đã được các bên liên quan còn lại và người dẫn đạc xác nhận. Đơn vị đo đạc có trách nhiệm chuyển Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất cho Ủy ban nhân dân cấp xã để thông báo (hoặc gửi) cho người sử dụng đất vắng mặt ký sau đó.”

Xác định ranh giới sử dụng đất và đo đạc, lập bản đồ địa chính được thể hiện trong Thông tư 07/2015/TT-BTNMT như sau:

1. Việc đo đạc xác định ranh giới sử dụng đất thực hiện theo quy định sau:

a) Việc đo đạc xác định ranh giới bao gồm: đo đạc xác định tọa độ mốc ranh giới, điểm đặc trưng và điểm chi tiết khác trên đường ranh giới của công ty nông, lâm nghiệp;

b) Đối với các khu vực đã có bản đồ địa chính đáp ứng theo yêu cầu thì biên tập đường ranh giới từ bản đồ địa chính c theo quy định thì thực hiện đo đạc, chỉnh lý thửa đất khu vực biến động đó;

d) Việc xác định phương pháp đo và yêu cầu độ chính xác điểm mốc ranh giới được thực hiện theo yêu cầu như đối với điểm khống chế đo vẽ quy định.

đ) Việc xác định phương pháp đo và yêu cầu độ chính xác xác định vị trí điểm đặc trưng, điểm chi tiết khác không cắm mốc trên đường ranh giới thực hiện theo yêu cầu đối.

 Như vậy, khi tiến hành đo đạc thì trách nhiệm của cán bộ địa chính thực hiện phải phối hợp với các chủ thể như chủ sử dụng, phối hợp với người dẫn đạc, người quản lý khi đo đạc. Nếu có tranh chấp mà trường hợp tranh chấp chưa giải quyết xong trong thời gian đo đạc ở địa phương mà xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thì đo đạc theo ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý đó; nếu không thể xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thi được phép đo vẽ khoanh bao các thửa đất tranh chấp; đơn vị đo đạc có trách nhiệm lập bản mô tả thực trạng phần đất đang tranh chấp thành 02 bản.

Theo đó, về trình tự thủ tục đo đạc của cán bộ địa chính xã là chưa hợp lý. Bạn có thể làm đơn yêu cầu đo đạc cũng như xác định lại vị trí đất để đúng với phần đất gia điình bạn được cấp trong sổ đỏ. Nếu sau khi nộp đơn yêu cầu và giải quyết chưa thỏa đáng thì gia đình bạn có thể làm đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp gửi tới UBND cấp huyện.

Thủ tục đăng ký nhận cha cho con
Câu hỏi:

Kính chào các bác luật sư Em có một vấn đề không biết giải quyết như thế nào ? Kính mong văn phòng giúp đỡ. đây là một sự việc hoàn toàn là thật (tên nhân vật đã thay đổi) Sự việc như sau: Cô A đã đăng kí kết hôn và có thai với chồng là anh B. Tuy nhiên khi cô A mang thai thì anh B bỏ đi xa (không lo lắng, chu cấp tiền cho việc chăm lo con cái). Chị A sống một mình, sinh được đứa con gái và nuôi con cho đến khi con chị A được 5 tuổi. Lúc này chị A đi thêm bước nữa. Chị A lấy anh C có thai và sinh ra được một đứa con trai. Tuy nhiên, khi đi làm giấy khai sinh thì không làm được vì chị A và Anh B chưa ly hôn, nên chị A chỉ làm khai sinh cho đứa con trai với người đứng tên là tên chị A, còn tên cha thì để trống (đợi ngày chị li hôn rồi đăng kí kết hôn lại rồi ghi vào). Sau một thời gian dài chưa li hôn được với anh B. Chị A và Anh C lại mâu thuẫn dẫn đến bỏ nhau, Chị A giao con cho Anh C nuôi (Anh C đưa con về nhờ nội nuôi giúp). Đứa con của hai anh chị chuẩn bị đi học. Anh C xin chị A giấy khai sinh của đứa con và xin được toàn quyền nuôi đứa con, nhưng chị A không đồng ý và không giao giấy khai sinh đứa con cho anh C ( đến giờ đứa con này không có giấy khai sinh để đi học). Chị A quê ở Quảng Nam (khai sinh lần đầu cho đứa con trai cũng ở quê là Quảng Nam) Anh C quê ở Huế (có đi xin cấp giấy khai sinh nhưng không được chấp nhận) Em kính mong văn phòng luật sự có thể tư vấn cho em với để làm sao có thể nuôi con và khai sinh cho con một cách hợp pháp ạ Em cám ơn rất nhiều ạ. Xin chân thành cám ơn các luật sư?

Trả lời:

Theo thông tin bạn cung cấp, chị A và anh C có sinh được một đứa con trai, nhưng vì chưa ly hôn với anh B nên chị A và anh C chưa đăng ký kết hôn dẫn đến khi khai sinh mới chỉ ghi thông tin của mẹ, phần thông tin về cha để trống. Hiện anh A và chị C không sống cùng nhau nữa, chị A giao con cho anh C nuôi. Nhưng chị A không giao giấy khai sinh cho anh C. Trong trường hợp này, anh C muốn có giấy khai sinh của con và nuôi con hợp pháp thì anh C phải thực hiện thủ tục đăng ký nhận cha, con. Ở đây, do bạn không nói rõ chị A có đồng ý cho anh nhận bé hay không nên có thể xảy ra hai trường hợp:

Trường hợp 1, chị A đồng ý cho anh C nhận con thì bạn sẽ thực hiện thủ tục nhận cha cho con theo quy định tại Điều 25 Luật Hộ tịch 2014 như sau:

“1. Người yêu cầu đăng ký nhận cha, mẹ, con nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt.

2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp – hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, mẹ, con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu.

Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 05 ngày làm việc”.

Như vậy, theo quy định trên bạn cần chuẩn bị hồ sơ gồm các giấy tờ sau:

Trường hợp 2, chị A không đồng ý cho anh C nhận con thì lúc này bạn có quyền làm đơn khởi kiện tới Tòa án để yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Khoản 4, Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:

"4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ."

Như vậy, bạn cần chuẩn bị hồ sơ gồm các giấy tờ sau:

+ Đơn khởi kiện về việc xác nhận cha cho con (theo mẫu của Tòa án)

+ Giấy tờ xác nhận hai người là cha con (băng ghi hình người yêu bạn chơi với con, hình ảnh chung, xét nghiệm ADN,...)

+ Chứng minh thư nhân dân, Sổ hộ khẩu gia đình của bạn (bản sao chứng thực);

Sau khi thực hiện thủ tục nhận cha con hoặc trước đó bạn và cha bạn đã nhận cha con thì thực hiện thủ tục bổ sung hộ tịch: Cụ thể, theo Khoản 13 Điều 4 Luật Hộ tịch 2014 quy định:

13. Bổ sung hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cập nhật thông tin hộ tịch còn thiếu cho cá nhân đã được đăng ký.

Việc bổ sung hộ tịch được thực hiện tại ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký hộ tịch trước đây hoặc nơi cư trú của cá nhân đối với trường hợp người chưa 14 tuổi; công dân Việt Nam cư trú ở trong nước. Thủ tục bổ sung thông tin cha vào giấy khai sinh được thực hiện như sau:

+ Người yêu cầu nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch, cụ thể ở đây là bản án của Tòa án về việc nhận cha con. 

 

+ Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ, nếu thấy yêu cầu bổ sung hộ tịch là đúng, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung bổ sung vào mục tương ứng trong Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu ký tên vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu. Trong trường hợp này, bổ sung tên cha vào giấy khai sinh của bạn ( trước đó trống tên cha), Công chức tư pháp- hộ tịch ghi nội dung bổ sung vào mục tương ứng và đóng dấu vào nội dung bổ sung.

- Tờ khai đăng ký nhận cha cho con theo mẫu quy định. Khi đăng ký nhận cha, mẹ, con các bên phải có mặt.

- Chứng cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con được hướng dẫn bởi Điều 11 Thông tư 15/2015/TT-BTP gồm một trong các giấy tờ, tài liệu sau đây:

+ Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con.

+ Trường hợp không có văn bản như trên thì phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha, mẹ làm chứng.

Bạn chuẩn bị giấy tờ và đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của vợ bạn hoặc nơi cư trú của bạn. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ, nếu thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng và không có tranh chấp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đăng ký nhận cha, mẹ, con ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 05 ngày làm việc.

Thay đổi người nuôi con sau ly hôn như thế nào?
Câu hỏi:

Xin chào luật sư. Vợ chồng tôi ly hôn đã được 6 tháng. Sau khi ly hôn, tôi nuôi con chung Nguyễn Thảo Vy 2,5 tuổi, chồng tôi nuôi con chung Nguyễn Đức Khang 4 tuổi. Sau khi ly hôn bố cháu lấy lý do cháu bị ốm mỗi khi tôi đón cháu về ngoại chơi nên không cho tôi đón cháu. Hồi còn chung sống bố các cháu nhiều lần đánh tôi, hay đi đánh cờ bạc, không quan tâm tới vợ con. Tôi đã đưa đơn lên tòa đòi giành quyền nuôi con chung Nguyễn Đức Khang. Hiện tại tôi làm công nhân thu nhập trung bình 8 triệu/tháng. Trước đây tôi tốt nghiệp sư phạm 1 môn Văn đã từng đi dạy mầm non hơn một năm, dạy hợp đồng văn tại trường cấp 2 khoảng 3 năm. Bố các cháu làm công nhân gác cầu và làm thêm việc giao hàng thu nhập khoảng 6 triệu/tháng. Về đất đai, diện tích đất nhà đẻ tôi và nhà chồng cũ của tôi ngang nhau. Nhà đẻ tôi đất có sổ đỏ, còn nhà chồng cũ của tôi dù đất rộng nhưng không có sổ đỏ. Vậy trong điều kiện của tôi và chồng cũ của tôi như vậy liệu tôi có giành được quyền nuôi nốt con Khang không? Kính mong được sự tư vấn của luật sư. Tôi trân trọng cảm ơn!

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định thay đổi người trự tiếp nuôi con sau khi ly hôn như sau:

"Điều 84. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

...

2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;

b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con."

Theo quy định trên, nếu bạn có căn cứ chứng minh chồng cũ của bạn không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bạn có quyền khởi kiện tới Tòa án nhân dân cấp huyện nơi chồng cũ bạn đang sinh sống/làm việc để yêu cầu giải quyết. 

Điều kiện nuôi con của chồng bạn được xem xét dựa trên 02 điều kiện chính sau:

- Kinh tế: có thu nhập ổn định, đảm bảo cuộc sống cho con.

- Nhân thân: có nhân thân tốt, chưa từng phạm tội, không có hành vi vi phạm pháp luật

Ngoài ra, Tòa án còn xem xét dựa trên các điều kiện khác như: vấn đề nhà cửa, điều kiện chăm sóc con của chồng bạn,...

Theo đó, nếu bạn có căn cứ chứng minh chồng cũ của bạn không đảm bảo được các điều kiện trên thì bạn có quyền khởi kiện để giành quyền nuôi con với chồng cũ của bạn.

Nếu chồng cũ của bạn có hành vi ngăn cản việc thăm nom con của bạn thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

"Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau."

 

Để xử lý hành vi này, bạn có thể làm đơn tường trình tới cơ quan công an cấp xã nơi chồng cũ của bạn đang cư trú để yêu cầu giải quyết.

 
Xử lý hành vi ngược đãi bố mẹ
Câu hỏi:

Cháu năm nay 16 tuổi học lớp 11, bố cháu thường thích đi uống rượu với bạn bè, có những điều không vui trong công việc, điều không vui trong gia đình là ông ấy lấy nhiều lí do để chửi bới đánh đập cháu, so sánh cháu với các con vật: như chó, trâu, bò; đánh cháu bằng bất cứ thứ gì đánh sướng tay như dây điện, thanh gỗ treo rèm gậy gộc,... Bố cháu còn ép cháu phải làm mọi thứ theo ý của bố cháu chỉ đạo làm sai lệch đi là bị đánh đập và chửi rủa với ngược đãi và gây áp lực tâm lí kích động do bố cháu sử dụng vũ lực. Cháu bị đặt áp lực lên việc học, đem cháu ra so sánh với người khác để mắng mỏ. Cháu từng bị bố cháu lột sạch đồ và suýt đuổi ra ngoài đường, cháu từng bị trói và nhúng mặt xuống nước và dọa giết, đập phá đồ trong nhà khi say hoặc bực tức, về bố cháu thì hàng xóm ai cũng biết nhưng kệ, hiện giờ cháu muốn kiện bố cháu về việc này thì phải làm sao mong các chú bác cho cháu xin tư vấn với?

Trả lời:

Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với con như sau:

"1. Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.

2. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

3. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.

4. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội."

Bố bạn có hành vi như đánh đập bạn, chửi mắng bạn, dọa giết bạn,... là hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm về quyền và nghĩa vụ của cha và con.

Đối với hành vi của của bố bạn tùy từng mức độ, tính chất của hành vi có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại các Điều 49, Điều 50, Điều 51, Điều 52 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

* Về hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình theo quy định tại Điều 49 Nghị định 167/2013/NĐ-CP:

- Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.

- Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình bị phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

+ Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;

+ Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.

* Về hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình theo quy định tại Điều 50 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

- Hành vi hành hạ, ngược đãi thành viên gia đình bị phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

+ Đối xử tồi tệ với thành viên gia đình như: bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân;

+ Bỏ mặc không chăm sóc thành viên gia đình là người già, yếu, tàn tật, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ.

* Về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình theo quy định tại Điều 51 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

- Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình.

- Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

+ Tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

+ Sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình;

+ Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.

Về hành vi cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý theo quy định tại Điều 52 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:

- Hành vi cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

+ Cấm thành viên gia đình ra khỏi nhà, ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, bạn bè hoặc có các mối quan hệ xã hội hợp pháp, lành mạnh nhằm mục đích cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm lý đối với thành viên đó;

+ Không cho thành viên gia đình thực hiện quyền làm việc;

+ Không cho thành viên gia đình tham gia các hoạt động xã hội hợp pháp, lành mạnh.

- Hành vi cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý bị phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi buộc thành viên gia đình phải chứng kiến cảnh bạo lực đối với người, con vật.

- Hành vi cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

+ Cưỡng ép thành viên gia đình thực hiện các hành động khiêu dâm, sử dụng các loại thuốc kích dục;

+ Có hành vi kích động tình dục hoặc lạm dụng thân thể đối với thành viên gia đình mà thành viên đó không phải là vợ, chồng.

Đối với hành vi đánh bạn, bố bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 nếu gây thương tích cho bạn trên 11% hoặc dưới 11% và thuộc một trong các trường hợp theo quy định từ điểm a) đến điểm k) Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999:

"Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

..."

Hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội hành hạ người khác theo quy định tại Điều 110 Bộ luật hình sự 1999:

"Điều 110. Tội hành hạ người khác 

1. Người nào đối xử tàn ác với người lệ thuộc mình thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:

a) Đối với người già, trẻ em, phụ nữ có thai hoặc người tàn tật;

b) Đối với nhiều người."

 

Để xử lý hành vi này, bạn làm đơn tường trình gửi tới cơ quan công an cấp huyện nơi bố bạn đang cư trú để yêu cầu giải quyết.

Đối tượng nào phải tham gia bảo hiểm bắt buộc?
Câu hỏi:

Vào dịp nghỉ hè rảnh rỗi, do khéo tay nên em A - 17 tuổi đã xin phép gia đình xin vào làm việc tại Xí nghiệp thuê thùa, may mặc của bà L gần nhà để kiếm tiền dành cho năm học mới. Mẹ của A đã đại diện cho em ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn với bà L và được bà thông tin, yêu cầu A phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Gia đình A muốn hỏi xem A có phải là đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc không? Bảo hiểm xã hội bắt buộc gồm những chế độ nào?

Trả lời:
Trả lời
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội thì người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:
- Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
- Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
- Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
- Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí;
- Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
Như vậy, theo quy định nêu trên, A thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Theo Khoản 1 Điều 4 Luật Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội bắt buộc có các chế độ sau đây:
- Ốm đau;
- Thai sản;
- Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
- Hưu trí;
- Tử tuất.

Thủ tục trả tiền bảo hiểm như thế nào?
Câu hỏi:

Thủ tục trả tiền bảo hiểm được thực hiện như thế nào

Trả lời:
Trả lời:
          Thủ tục trả tiền bảo hiểm được thực hiện theo quy định tại Điều 26 Luật bảo hiểm tiền gửi, như sau:
- Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải gửi hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm bao gồm văn bản đề nghị trả tiền bảo hiểm, danh sách người được bảo hiểm tiền gửi, số tiền gửi của từng người được bảo hiểm tiền gửi và số tiền bảo hiểm đề nghị tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định tại khoản 1 Điều này, tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiến hành kiểm tra các chứng từ, sổ sách để xác định số tiền chi trả.
- Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm tra theo quy định tại khoản 2 Điều này, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải có phương án trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi; thông báo công khai về địa điểm, thời gian, phương thức trả tiền bảo hiểm trên ba số liên tiếp của một tờ báo trung ương, một tờ báo địa phương nơi đặt trụ sở chính, các chi nhánh của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và trên một báo điện tử của Việt Nam; niêm yết danh sách người được trả tiền bảo hiểm tại địa điểm đã thông báo.
- Khi nhận tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm tiền gửi phải xuất trình các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với các khoản tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
- Tổ chức bảo hiểm tiền gửi trực tiếp trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi hoặc ủy quyền cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khác thực hiện.
- Sau thời hạn 10 năm, kể từ ngày tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thông báo lần thứ nhất về việc trả tiền bảo hiểm, những khoản tiền bảo hiểm không có người nhận sẽ được xác lập quyền sở hữu nhà nước và bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, người có quyền sở hữu khoản tiền gửi được bảo hiểm sẽ không có quyền yêu cầu tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả số tiền bảo hiểm đó. 
Chế độ thai sản khi thôi việc ?
Câu hỏi:

Thưa luật sư, Em tham gia BHXH tháng 11/2015 đến tháng 4/2017, em viết đơn thôi việc. E có thai dự kiến sinh cuối năm 2017. Vậy em có được hưởng chế độ thai sản không?

Trả lời:
Trả lời:
Điều 31 Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định: Điều kiện hưởng chế độ thai sản
1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Lao động nữ mang thai;
b) Lao động nữ sinh con;
c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;
d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;
đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;
e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.
2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
3. Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
4. Người lao động đủ điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 34, 36, 38 và khoản 1 Điều 39 của Luật này.
Như vậy, nếu bạn dự kiến sinh cuối năm 2017 thì trong vòng 12 tháng trước khi sinh tức là từ tháng 12/2016 đến tháng 11/2017 bạn phải đóng đủ 06 tháng BHXH, tuy nhiên đến tháng 04/2017 bạn không đóng BHXH nữa do đó bạn không đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản.
 

Lãi suất vay theo quy định là bao nhiêu?
Câu hỏi:

Tôi có một vấn đề mong luật sư giải đáp: Tôi có cho mượn số tiền 120 triệu cho 1 anh người quen. Khi mượn anh ấy nói dùng để làm ăn với người tôi vợ, và hứa trả tôi lãi suất 1 tháng 7%, khi nào cần lấy lại, tôi chỉ cần báo trước và 1 tháng sau sẽ trả đủ lãi và gốc.
Anh ấy có làm giấy vay nợ viết tay cho tôi nhưng trong giấy viết tay không có ghi lãi suất và thời hạn trả gốc. Sau này, tôi có nhu cầu lấy lại, nhưng anh ấy đã hứa hẹn nhiều lần, từ đó đến nay cũng đã mấy tháng rồi. Anh ấy đưa ra nhiều lý do, mà sau này qua trao đổi với gia đình, anh ấy chỉ nói dối để kéo dài thời gian ra. Và lý do ban đầu anh ấy mượn tiền cũng không đúng. Sau này, để trấn an tôi, anh ấy đã đưa ra 1 tờ giấy hẹn của Cục thi hành án dân sự về việc có người trả tiền anh và trong giấy hẹn có ghi ngày đến lấy tiền. Lúc đó, tôi có dùng điện thoại chụp lại được tờ giấy hẹn đó, nhìn không rõ lắm, nhưng vẫn thấy đầy đủ các từ trong giấy hẹn.Khi đã qua ngày hẹn của giấy hẹn, anh ấy vẫn không trả và đưa ra nhiều lý do, tôi đã liên hệ trực tiếp với Cục thi hành án dân sự thì phát hiện giấy đó anh ta làm giả để cố tình kéo dài thời gian.
Vậy, tôi có thể ra Công an để kiện anh ấy tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Làm giả giấy tờ cơ quan nhà nước không. Với bằng chứng là file hình tôi chụp bằng điện thoại thì có đủ thuyết phục không?
Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong sự phản hồi từ các Quý Luật sư

Trả lời:
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi về cho chuyên mục tư vấn pháp luậtcủa chúng tôi. Câu hỏi của bạn được chúng tôi trả lời như sau:
Thứ nhất, về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Khoản 1 Điều 139 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)  quy định:
"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm."
Trong trường hợp của bạn, việc người đó đưa ra lý do không đúng để vay tiền bạn  sau đó kéo dài thời gian rồi đưa ra 1 tờ giấy hẹn của Cục thi hành án dân sự về việc có người trả tiền cho người đó mà bạn xác minh được giấy tờ này là giả thì có thể khẳng định rằng đây là thủ đoạn gian dối mục đích là để vay và chiếm đoạt tiền của bạn.
Thứ hai, về Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức., Điều 267 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định:
"Điều 267. Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
1. Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu, giấy tờ đó nhằm lừa dối cơ quan, tổ chức hoặc công dân, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c)  Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bốn năm đến bảy năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi  triệu đồng."
Người đó làm giả tài liệu, giấy tờ của Cục thi hành án với mục đích là nhằm lừa dối bạn có thể coi là một trong các  hành vi   của tội làm giả tài liệu của cơ quan. Bạn có thể cung cấp bức ảnh bạn chụp được cho cơ quan điều tra còn nghĩa vụ điều tra chứng minh tội phạm, xác định  sự thật của vụ án sẽ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án.

Doanh nghiệp ép người lao động mang thai nghỉ việc?
Câu hỏi:

Chào luật sư! Em đang mang thai được 9 tuần, do thai nghén nặng và dọa sảy, ở tuần thứ 5 e phải nhập viện 11 ngày ( từ ngày 12/5/2017 đến ngày 22/5/2017) ra viện bác sĩ viết giấy nghỉ ốm hưởng bhxh 7 ngày (từ ngày 23/5 đến ngày 29/5). Hết thời gian nghỉ em đi làm nhưng vẫn nghén nặng nên em xin nghỉ và được công ty cho nghỉ không lương một ngày 30/5. Sau đó em lại tiếp tục đi làm nhưng đến ngày 5/6 em không đi làm được do bị sốt . Em xin nghỉ không lương một tuần nhưng công ty không ký cho nghỉ và 6/6 e đi làm, hết giờ làm việc thì phía công ty gọi em vào nói chuyện để ép em thôi việc với lý do sức khỏe em yếu không làm việc. Em đã làm việc tại công ty từ ngày 27/6/2016 hết 2 tháng thử việc em tham gia bhxh đầy đủ. Vậy 7/6 em đến bệnh viện xin giấy nghỉ ốm hưởng bhxh 1 tuần, mà phía công ty vẫn không giải quyết cho em nghỉ mà ép thôi việc. Điều đó là đúng hay sai luật lao động? Em xin cảm ơn!

Trả lời:
Trả lời:
Điều 155 Bộ luật Lao động 2012 quy định về việc bảo vệ thai sản đối với lao động nữ như sau:
1. Người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa trong các trường hợp sau đây:
a) Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
b) Đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
2. Lao động nữ làm công việc nặng nhọc khi mang thai từ tháng thứ 07, được chuyển làm công việc nhẹ hơn hoặc được giảm bớt 01 giờ làm việc hằng ngày mà vẫn hưởng đủ lương.
3. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.
4. Trong thời gian mang thai, nghỉ hưởng chế độ khi sinh con theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ không bị xử lý kỷ luật lao động.
5. Lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút; trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi, được nghỉ mỗi ngày 60 phút trong thời gian làm việc. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.
Như vậy theo quy định của pháp luật thì trong thời gian bạn mang thai và sinh con thì phía công ty không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hay sa thải bạn. 
Điều 26 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy đinh: Thời gian hưởng chế độ ốm đau
1. Thời gian tối đa hưởng chế độ ốm đau trong một năm đối với người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d và h khoản 1 Điều 2 của Luật này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần và được quy định như sau:
a) Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên;
b) Làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành hoặc làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng 40 ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã hội dưới 15 năm; 50 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 70 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên.
2. Người lao động nghỉ việc do mắc bệnh thuộc Danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày do Bộ Y tế ban hành thì được hưởng chế độ ốm đau như sau:
a) Tối đa 180 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần;
b) Hết thời hạn hưởng chế độ ốm đau quy định tại điểm a khoản này mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn nhưng thời gian hưởng tối đa bằng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
3. Thời gian hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 2 của Luật này căn cứ vào thời gian điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.
Như vậy, trường hợp của bạn đã đóng BHXH nhưng chưa đủ 15 năm nên thời gian nghỉ chế độ ốm đau tối đa trong 1 năm đối với bạn là 30 ngày. Do bạn mới chỉ hưởng chế độ ốm đau 7 ngày nên bạn vẫn đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội. 

Rút tiền sổ bảo hiểm xã hội như thế nào?
Câu hỏi:

Thưa luật sư, xin hỏi : Rút bảo hiểm xã hội có cần sổ hộ khẩu hay giấy tạm trú không ạ? Cảm ơn

Trả lời:
Trả lời:
Hồ sơ hưởng bảo hiểm xã hội một lần được quy định tại Điều 109 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 bao gồm:
1. Sổ bảo hiểm xã hội.
2. Đơn đề nghị hưởng bảo hiểm xã hội một lần của người lao động.
3. Đối với người ra nước ngoài để định cư phải nộp thêm bản sao giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc thôi quốc tịch Việt Nam hoặc bản dịch tiếng Việt được chứng thực hoặc công chứng một trong các giấy tờ sau đây:
a) Hộ chiếu do nước ngoài cấp;
b) Thị thực của cơ quan nước ngoài có thẩm quyền cấp có xác nhận việc cho phép nhập cảnh với lý do định cư ở nước ngoài;
c) Giấy tờ xác nhận về việc đang làm thủ tục nhập quốc tịch nước ngoài; giấy tờ xác nhận hoặc thẻ thường trú, cư trú có thời hạn từ 05 năm trở lên của cơ quan nước ngoài có thẩm quyền cấp.
4. Trích sao hồ sơ bệnh án trong trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 60 và điểm c khoản 1 Điều 77 của Luật này.
5. Đối với người lao động quy định tại Điều 65 và khoản 5 Điều 77 của Luật này thì hồ sơ hưởng trợ cấp một lần được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì sổ hộ khẩu hay giấy tạm trú không phải là giấy tờ cần phải có khi rút BHXH 1 lần.

Gây thương tích 11% có bị xử lý như thế nào?
Câu hỏi:

Tôi có một vấn đề mong luật sư giải đáp: Tôi có người thân trong gia đình bị bắt tạm giam gần 2 tháng nay với lý do người hàng xóm tố cáo tội cố ý gây thương tích 11% (theo lệnh bắt tạm giam đã đọc, thời gian tạm giam là 3 tháng).
Thời gian gần đây, người thân tôi nhận được một giấy thông báo của Công an thành phố ghi là giấy triệu tập mời làm việc. Theo tôi được biết, người thân tôi không hề có hành vi cố ý gây thương tích. Liệu hết thời gian ba tháng tạm giam người thân tôi có được cho về hay sẽ tiến hành lập phiên tòa xét xử? Và nếu xét xử, xin Luật sư cho biết tội cố ý gây thương tích sẽ bị xử phạt như thế nào?
Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong sự phản hồi từ các Quý Luật sư

Trả lời:
Trả lời:
Chào bạn, với câu hỏi của bạn tôi xin trả lời như sau:
Căn cứ Khoản 1, điều 104, Bộ luật hình sự 1999, (Luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009) quy định:
Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Có tổ chức;
g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân...."
Căn cứ vào quy định trên người thân của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự v ề tội cố ý gây thương tích nếu người thân của bạn thực hiện hành vi gây thương tích, việc có hành vi này hay không thì cơ quan điều tra sẽ bằng nghiệp vụ, chức năng của mình sẽ làm rõ. 
Tuy nhiên, tội cố ý gây thương tích là một trong những tội khởi tố theo yêu cầu của người bị hại theo quy định tại điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Vì vây, nếu như người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì người thân của bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. (Chỉ áp dụng khi người thân của bạn bị khởi tố ở khoản 1, điều 104)
Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại
1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
 
Lăng mạ người khác trên mạng xã hội có bị khởi tố không?
Câu hỏi:

Kính chào luật sư, mong luật sư giải đáp giúp tôi một số vấn đề sau để tôi được hiểu rõ về luật hơn. Do ông của tôi bệnh, mẹ tôi gọi địên cho e trai mình (ông A) kêu lên Sài Gòn nuôi bệnh, nhưng lời nói của mẹ tôi nghe cũng khó chịu "lên nuôi được thì lên, còn không thì đừng có lên mắc công cũng không làm được việc gì".
Trưa ngày hôm đó tôi đang đi làm thì con gái của ông A đã nhắn tin cho tôi dùng nhiều lời lẽ nhục mạ mẹ tôi, và kêu tôi về nhắn với mẹ tôi bằng những lời nhục mạ đó. Bên cạnh đó còn vu khống mẹ tôi bằng những lời lẽ rất khó nghe. Sau đó, giờ tôi đang nghỉ trưa thì mẹ của cô gái đó (tức là vợ ông A) đã có điện thoại cho tôi và chửi bên nhà mẹ tôi là "không có con nào là chị chồng tao hết, con nào cũng là đ*", lời lẽ khó nghe vô cùng nên tôi mới tắt máy không nghe. Sau đó thì con ông A và vợ ông A đều lại nhắn tin nhục mạ tôi và mẹ tôi, vợ ông A thì nhắn tin bằng tin nhắn SMS, còn con ông A thì lại nhắn tin bên zalo nhục mạ mẹ con tôi. Tôi nói chuyện tôn trọng đàng hoàng, nhưng vợ ông A và con ông A luôn có hành vi cố ý khiêu khích tôi và mẹ tôi lên nhà ông A để cãi vã. Tôi và mẹ tôi im lặng, nhưng vợ con ông A cứ liên tiếp làm phiền đến tôi bằng những tin nhắn nhục mạ khiêu khích đủ điều. Chưa hết, con ông A con copy hình ảnh của tôi đăng zalo để nhục mạ tôi trên mạng xã hội, và con đăng nhiều lời chửi mắng mẹ con và gia đình tôi! Tôi có chụp lại những lời chửi mắng, và con ông A khi chửi tôi cũng ghi rõ nơi tôi làm việc (trường mầm non).
Với hành vi như vậy, tôi có được khởi tố mẹ con của ông A hay không? Mong luật sư giải đáp và hướng dẫn hướng giải quyết giúp cho tôi. Bởi khi con ông A đăng hình tôi mà nhục mạ tôi thì một phần cũng làm ảnh hưởng danh dự của nơi tôi làm việc (trường mầm non). Tôi muốn khởi tố về hành vi gì là đúng theo luật? Và tôi cũng có giữ lại những tin nhắn, hình ảnh lăng mạ tôi trên mạng xã hội.
Tôi thành thật cảm ơn luật sư!

Trả lời:
Trả lời:
Chào bạn, đối với thắc mắc của bạn, chúng tôi xin được giải đáp và tư vấn như sau:
Bộ luật dân sự 2005 có quy định rõ:
"Điều 37. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín  
Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ."
Do vậy, có thể thấy danh dự, nhân phẩm, uy tín là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân, quyền nhân thân này luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, Bộ luật dân sự 2005 cũng có quy định:
"Điều 25. Bảo vệ quyền nhân thân
Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại."
Khi xét thấy hành vi của các đối tượng nêu trên đã vi phạm đến quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín của bạn, đồng thời có đầy đủ chứng cứ xác minh, thì bạn có thể yêu cầu các đối tượng nêu trên hoặc các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc họ chấm dứt các hành vi vi phạm pháp luật này, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại một cách thỏa đáng.
Trong trường hợp xét thấy các hành vi vi phạm pháp luật trên có mức độ nghiêm trọng hay gây ra hậu quả lớn, bạn có thể làm đơn khởi tố để các cơ quan chức năng xem xét các đối tượng trên có phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội danh sau hay không:
"Điều 121. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm:
A) Phạm tội nhiều lần;
B) Đối với nhiều người;
C) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
D) Đối với người thi hành công vụ;
Đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Điều 122. Tội vu khống
1. Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm:
A) Có tổ chức;
B) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
C) Đối với nhiều người;
D) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
Đ) Đối với người thi hành công vụ;
E) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."
Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về câu hỏi của quý khách hàng. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do quý khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.
Mức xử phạt khi không có bằng lái xe?
Câu hỏi:

Thưa luật sư, Tôi muốn hỏi: Tôi chưa có bằng lái nhưng tôi mượn xe của bố tôi để đi chơi thì bị công an yêu cầu xử phạt và tạm giữ phương tiện, Tôi muốn biết mức xử phạt hành chính khi không có bằng lái xe máy?

Trả lời:
Trả lời:
Thưa Quý khách, vấn đề mà quý khách quan tâmVăn phòng Luật sư Tô Đình Huy xin được trao đổi như sau:
Các cá nhân muốn lái các phương tiện cơ giới trên đường đều phải có giấy phép lái xe. Tất cả các trường hợp lái xe mà không có giấy phép đều là các trường hợp vi phạm các quy định của pháp luật và bị xử lý vi phạm hành chính. Đây là vấn đề quan trọng, nhằm hướng tới an toàn trong hoạt động giao thông của cả nước.
Thủ tục và mức xử phạt đối với hành vi này được quy định trong Nghị định số 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và Thông tư 11/2013/TT-BCA hướng dẫn NĐ 34/2010/NĐ-CP và 71/2012/NĐ-CP xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
1. Mức xử phạt Theo Điều 24 về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới thì hành vi tham gia giao thông không có giấy phép lái xe hoặc giấy phép lái xe không đúng quy định có 3 mức phạt tiền.
- Từ 60.000 đồng đến 80.000 - Từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng - Từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng Cụ thể:
“2. Phạt tiền từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: ….
c) Người điều khiển xe mô tô không mang theo Giấy phép lái xe. …. 4.
Phạt tiền từ 120.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Người điều khiển xe mô tô không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa, trừ các hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 8 Điều này;
b) Người điều khiển xe ô tô không mang theo Giấy đăng ký xe, Giấy phép lái xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
5. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự ô tô có Giấy phép lái xe nhưng đã hết hạn sử dụng dưới 6 (sáu) tháng.’ ….
8. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự ô tô vi phạm một trong các hành vi sau đây:
a) Có Giấy phép lái xe nhưng không phù hợp với loại xe đang điều khiển hoặc đã hết hạn sử dụng từ 6 (sáu) tháng trở lên;
b) Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa. Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển phương tiện vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: vi phạm điểm a khoản 4, điểm b khoản 8 Điều này bị tịch thu Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa. (Khoản 9 Điều 24)
2. Thủ tục xử phạt Theo Điều 53 Thủ tục xử phạt Nghị định số 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - Trong trường hợp chủ phương tiện vi phạm có mặt tại nơi xảy ra vi phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt hành vi vi phạm hành chính theo các điểm, khoản tương ứng của Điều 33 Nghị định này; - Trong trường hợp chủ phương tiện vi phạm không có mặt tại nơi xảy ra vi phạm, thì người có thẩm quyền xử phạt căn cứ vào hành vi vi phạm để lập biên bản vi phạm hành chính đối với chủ phương tiện và tiến hành xử phạt theo quy định của pháp luật, người điều khiển phương tiện phải ký vào biên bản vi phạm hành chính với tư cách là người chứng kiến và được chấp hành quyết định xử phạt thay cho chủ phương tiện.
Trường hợp người điều khiển phương tiện không chấp hành quyết định xử phạt thay cho chủ phương tiện thì người có thẩm quyền xử phạt tiến hành tạm giữ phương tiện để bảo đảm cho việc xử phạt đối với chủ phương tiện.” Theo Thông tư 11/2013/TT-BCA hướng dẫn NĐ 34/2010/NĐ-CP và Nghị định số 71/2012/NĐ-CP xử phạt hành chính trong lĩnh vực GTĐB; tại Điều 6 hướng dẫn chi tiết thủ tục xử phạt hành vi người điều khiển xe không mang theo Giấy đăng ký xe, Giấy phép lái xe. Cụ thể như sau: “Tại thời điểm dừng xe kiểm tra, người điều khiển xe không xuất trình được các loại giấy tờ như Giấy đăng ký xe, GPLX, kiểm định, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về GTĐB...mà trình bày là có nhưng không mang theo thì lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi không có giấy tờ theo quy định; tạm giữ phương tiện theo quy định.
a) Trong thời hạn hẹn giải quyết, nếu chưa ra quyết định xử phạt, người vi phạm xuất trình được các giấy tờ thì cán bộ xử lý tạm giữ giấy tờ đó, ghi vào mặt sau biên bản vi phạm hành chính về thời gian xuất trình được giấy tờ và làm thủ tục trả lại xe tạm giữ cho người vi phạm; ra quyết định xử phạt về hành vi không mang theo giấy tờ.
b) Trong thời hạn hẹn giải quyết, nếu đã ra quyết định xử phạt về hành vi không có giấy tờ, người vi phạm xuất trình được các giấy tờ thì cán bộ xử lý tạm giữ giấy tờ đó, ghi vào mặt sau biên bản vi phạm hành chính về thời gian xuất trình giấy tờ; làm thủ tục hủy quyết định xử phạt về hành vi không có giấy tờ theo quy định, trả lại phương tiện bị tạm giữ cho người vi phạm; ra quyết định xử phạt về hành vi không mang theo giấy tờ.
c) Hết thời hạn hẹn giải quyết, người vi phạm mới xuất trình được giấy tờ thì phải chấp hành quyết định xử phạt về hành vi vi phạm ghi trong biên bản vi phạm hành chính”. Theo quy định tại Điều 53 của Nghị định 34/2010/NĐ-CP và Chương IV thủ tục xử phạt vi phạm hành chính được quy định trong Nghị định 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 thì việc xử phạt trên phải lập biên bản xử phạt và ra quyết định xử phạt theo mẫu thống nhất của chính phủ.
Xử lý kỷ luật lao động như thế nào?
Câu hỏi:

Hỏi:
Thưa Luật sư, công ty chúng tôi cần tìm hiểu thông tin về xử lý kỷ luật đối với nhân viên công ty. Kính mong quý Luật sư giải đáp những thông tin pháp luật về xử lý kỷ luật. Trân trọng cảm ơn.

Trả lời:
Đáp:
Với câu hỏi của bạn, chúng tôi đưa ra ý kiến pháp lý về Xử lý kỷ luật lao động như sau:
01. Về áp dụng hình thức xử lý kỷ luật
Căn cứ Điều 125 Bộ luật lao động 2012 và Mục 1 Chương II Nội quy lao động, Công ty chỉ quy định 3 nhóm hình thức xử lý kỷ luật nên không thể áp dụng 2 cách thức xử lý kỷ luật Công ty đề xuất.
Đối với hình thức xử lý bố trí công việc khác, quy định hiện hành không xác định đây là hình thức xử lý kỷ luật. Khi bố trí công việc khác cho nhân viên trong thời gian lâu dài, Công ty và nhân viên cần tiến hành ký kết phụ lục hợp đồng lao động.
Đối với hình thức hạ 01 bậc lương, đây được xác định là hình thức cắt giảm lương của người lao động, vi phạm điều cấm của Bộ luật lao động và Nội quy công ty nên không thể áp dụng. Công ty có thể xem xét hình thức khiển trách bằng văn bản hoặc kéo dài thời gian nâng lương (nếu có căn cứ chứng minh vi phạm gây hậu quả, thiệt hại nghiêm trọng).
Về căn cứ xử lý kỷ luật, Công ty có thể áp dụng các hình thức xử lý kỷ luật đã quy định trong Nội quy lao động khi chứng minh được nhân viên có hành vi:
-          Vi phạm quy trình, hướng dẫn công việc gây ra sự cố, sai sót cho sản phẩm từ đó áp dụng hình thức khiển trách bằng văn bản (mục 1.1.b.xi Chương II Nội quy lao động); hoặc
-          Vi phạm không tuân thủ quy trình làm việc đã được công ty hướng dẫn gây hậu quả thiệt hại nghiêm trọng từ đó áp dụng hình thức kéo dài thời gian nâng lương (mục 1.2.b.xii Chương II Nội quy lao động).
02. Về trình tự thủ tục tiến hành xử lý kỷ luật
Về thẩm quyền xử lý kỷ luật: Công ty căn cứ quy định về thẩm quyền xử lý kỷ luật đã được ghi nhận trong Nội quy lao động là phù hợp quy định pháp luật lao động (khoản 4 Điều 30 Nghị định 05/2015/NĐ-CP), theo đó:
-          Hình thức xử lý kỷ luật khiển trách do Tổng giám đốc (hoặc người được Tổng giám đốc ủy quyền giao kết hợp đồng lao động) được áp dụng;
-          Hình thức kỷ luật kéo dài thời gian nâng lương do Tổng giám đốc (hoặc người được Tổng giám đốc ủy quyền khi Tổng giám đốc đi vắng) được áp dụng.
Về trình tự thủ tục tiến hành (Điều 30 Nghị định 05/2015/NĐ-CP, Điều 12 Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH):
(i)            Công ty gửi thông báo bằng văn bản về việc tham dự cuộc họp xử lý kỷ luật lao động cho Ban chấp hành công đoàn cơ sở, người lao động ít nhất 05 ngày làm việc trước khi tiến hành cuộc họp;
(ii)          Đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở, người lao động là thành phầm bắt buộc tham dự cuộc họp xử lý kỷ luật. Sau 3 lần gửi văn bản thông báo nếu các thành phần trên vắng mặt thì Công ty tiến hành họp xử lý kỷ luật;
(iii)        Cuộc họp xử lý kỷ luật phải được lập thành biên bản, có đầy đủ chữ ký thành phần tham dự, chữ ký người lập biên bản. Những thành phần vắng mặt phải được ghi nhận rõ lý do trong biên bản.
Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website hoặc gọi tổng đài tư vấn 1900 6279 để được luật sư tư vấn trực tiếp, hoặc hẹn luật sư gọi 097 88 456 17.
 

Cách chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Câu hỏi:

Hỏi:
Chào luật sư, cháu ở Nghệ An. Cháu và chồng cháu kết hôn năm 2011, đến năm 2014 bố mẹ chồng cháu có tặng cho vợ chồng cháu một miếng đất trên miếng đất đó có một căn nhà 3 gian có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có mang tên của 2 vợ chồng cháu.Vậy miếng đất và căn nhà đó có được tính là tài sản chung không? Nếu ly hôn cháu có được chia không? Và miếng đất đó có phải chia cho bố mẹ chồng nữa không?

Trả lời:
Đáp:
Chào bạn,
Với thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:
Thứ nhất, đất và nhà được bố mẹ chồng tặng cho vợ chồng bạn và đã có giấy chứng nhận ghi tên cả hai vợ chồng, căn cứ quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình (Luật HNGĐ) thì đây là tài sản chung của vợ chồng bạn. Căn cứ Điều 33 Luật HNGĐ, tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản được tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân và quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Căn cứ Điều 34 Luật HNGĐ, tài sản chung của vợ chồng được đăng ký hợp pháp, ghi tên của cả vợ và chồng. Vì đất và nhà đã được tặng cho, cấp giấy chứng nhận cho nên bố mẹ chồng bạn không có quyền sở hữu, sử dụng đối với phần đất và nhà này.
Thứ hai, về vấn đề phân chia tài sản khi ly hôn, đất và nhà là tài sản chung nên được phân chi cho vợ chồng khi ly hôn. Căn cứ Điều 59 Luật HNGĐ, khi phân chia tài sản, vợ chồng có thể thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo nguyên tắc phân chia tài sản, tài sản được chia đôi trong đó có tính đến hoàn cảnh gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên vợ, chồng.
Như vậy, căn cứ vào các quy định pháp luật, theo những gì bạn trình bày, có cơ sở để xác định bạn được quyền chia phần đất và nhà trên, đồng thời không phải phân chia tài sản này cho bố mẹ chồng.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi liên quan đến vấn đề tài sản chung của vợ chồng.

 
Một số căn cứ pháp lý Luật HNGĐ giúp bạn tham khảo:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Điều 34. Đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung
1. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.
Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Điều 62. Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
1. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.
2. Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:
a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này.
Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;
b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồnSg được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;
c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này;
d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật này.
Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website hoặc gọi tổng đài tư vấn 1900 6279 để được luật sư tư vấn trực tiếp, hoặc hẹn luật sư gọi 097 88 456 17.
 
 
 
 
 

Thủ tục đăng ký tạm trú như thế nào?
Câu hỏi:

Tôi có hộ khẩu tại P.17, Q.Bình Thạnh. TP.HCM. Đứng tên sổ hộ khẩu là mẹ tôi. Sau khi tôi lập gia đình thì con trai tôi cũng nhập khẩu vào sổ này. Tuy nhiên 2 vợ chồng tôi và con trai sinh sống, làm việc và mua nhà và đăng ký tạm trú dài hạn tại P.Tân Đông Hiệp, Dĩ An, Bình Dương được 5 năm. Năm 2018, con trai tôi sẽ vào lớp 1, nhưng 2 vợ chồng tôi đã mua nhà ở P.An Bình, Dĩ An, Bình Dương, và sẽ nhận nhà vào tháng 4/2018 (hiện tôi chỉ có hợp đồng mua bán với bên chủ đầu tư). Như vậy tôi muốn năm sau con học tại trường Tiểu Học An Bình B thuộc P.An Bình, tôi có nên tìm cách đăng ký KT3 trước cho mẹ con em tại P.An Bình bây giờ trước không. Vì tôi lo ngại đến khi nhận nhà mới làm thì không đủ điều kiện xin học cho con. Và nếu đăng ký bây giờ có được không? Hay có cách nào giải quyết trường hợp của tôi không?

Trả lời:
Luật sư tư vấn:
Căn cứ theo những thông tin bạn cung cấp, dựa trên các quy định pháp luật VPLS Tô Đình Huy xin được trả lời câu hỏi của bạn như sau:
Về điều kiện đăng ký tạm trú: Trong trường hợp bạn muốn chuyển từ phường Tân Đông Hiệp sang phường an Bình thì phải thực hiện đăng ký lại nơi tạm trú. Căn cứ Điều 30 Luật Cư trú, trong thời hạn ba mươi ngày từ ngày đến nơi cư trú mới, bạn phải đăng ký tạm trú tại Công phường An Bình. Căn cứ theo nguyên tắc đăng ký cư trú và quy định tại Điều 30 Luật cư trú, để đăng ký tạm trú, người cư trú phải đến ở tại địa phương tạm trú. Hiện nay bạn đang tạm trú tại phường Tân Đông Hiệp nên chưa có cơ sở thực hiện đăng ký tạm trú tại phường An Bình.
Khi chuyển đến nơi ở mới, bạn cần chuẩn bị các hồ sơ đăng ký tạm trú theo quy định tại Điều 16 Thông tư 35/2014/TT-BCA của Bộ Công an, gồm:
- Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu; bản khai nhân khẩu (đối với các trường hợp phải khai bản khai nhân khẩu);
- Giấy tờ, tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp, trong đó Hợp đồng mua bán nhà ở là loại giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 31/2014/NĐ-CP.
- Xuất trình chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn nơi thường trú.
Căn cứ vào hồ sơ đăng ký tạm trú có giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp, trong thời hạn 3 ngày làm việc, cơ quan có thẩm quyền thực hiện cấp sổ tạm trú cho người đến tạm trú.
Như vậy, khi được cấp sổ tạm trú, bạn có thể thực hiện các thủ tục liên quan đến nơi học tập của con bạn. Đối với yêu cầu thời hạn đăng ký tạm trú để thực hiện thủ tục nhập học, đây là thẩm quyền riêng của các địa phương, bạn tham khảo quy chế cho Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh ban hành để có cách thức thực hiện phù hợp nhất.
Trên đây là tư vấn của VPLS Tô Đình Huy liên quan đến vấn đề đăng ký tạm trú theo Luật Cư trú. Trân trọng.
Hợp đồng cho thuê lại nhà không công chứng?
Câu hỏi:

Cách đây 15 ngày tôi có đi tìm thuê 1 nhà nghỉ. Khi gặp anh A đang đứng ra kinh doanh tại nhà nghỉ này, tôi đã làm hợp đồng thuê lại 12 phòng của nhà nghỉ để sử dụng.hợp đồng có thời hạn 1 năm, 3 tháng đóng tiền 1 lần với số tiền là 14.000.000vnd/tháng. Tôi đặt cọc trang thiết bị trong 12 phòng là 30.000.000vnd. Nhưng chỉ ký kết thoả thuận 2 bên không công chứng vì theo tôi biết Luật Nhà ở 2014 không bắt buộc công chứng. Nhưng tới nay tôi phát hiện ra anh A đứng ra làm hợp đồng với tôi không phải đứng tên kinh doanh cơ sở nhà nghỉ đó, chỉ là người thuê lại toà nhà đó từ một người khác đang là chủ sở hữu toà nhà và cũng đồng thời đứng tên kinh doanh của nhà nghỉ.mà hợp đồng của tôi chưa có văn bản đồng ý của chủ sở hữu toà nhà.
Do sợ rắc rối nên tôi muốn huỷ hợp đồng sớm nhưng anh A không đồng ý và nói nếu tôi huỷ hợp đồng sẽ không trả lại tiền cọc và tiền thuê 3 tháng của tôi. Vậy trong trường hợp này tôi phải giải quyết ra sao? Có người nói với tôi là anh A đã vi phạm luật cố tình chiếm hữu tài sản của tôi. Kính mong sự tư vấn của các luật sư.một lần nữa xin cám ơn!

Trả lời:

Luật sư tư vấn:
Căn cứ pháp lý áp dụng: Điều 117, Điều 122, Điều 418, Điều 428, Điều 475 Bộ luật dân sự 2015
Trong tình huống của bạn, trước hết bạn cần yêu cầu bên cho thuê lại (anh A) xuất trình hợp đồng cho thuê tòa nhà giữa A và chủ sở hữu. Điều 475 Bộ luật dân sự 2015 quy định bên thuê có quyền cho thuê lại nếu được sự đồng ý của bên cho thuê.
Trường hợp hợp đồng cho thuê không có thỏa thuận cho thuê lại, đồng thời không có sự đồng ý của chủ sở hữu, thì anh A không có quyền cho thuê lại tòa nhà. Như vậy, hợp đồng thuê lại giữa bạn và anh A đương nhiên vô hiệu theo quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự 2015. Như vậy, bạn có quyền yêu cầu anh Anh trả lại tiền thanh toán trước 3 tháng và tiền cọc trang thiết bị.
Trường hợp hợp đồng cho thuê giữa anh A và chủ sở hữu có thỏa thuận cho thuê lại, việc hủy bỏ hợp đồng cần sự thỏa thuận giữa bạn và anh A, các bên tự thỏa thuận giải quyết các vấn đề về tiền cọc, thanh toán. Nếu không thỏa thuận được, việc bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng là vi phạm hợp đồng đồng theo khoản 5 Điều 428 Bộ luật dân sự.
Trách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng dẫn đến vi phạm hợp đồng bao gồm: trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại, anh A có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại phát sinh. Đối với trách nhiệm phạt vi phạm, để xác định yêu cầu không trả lại tiền cọc và tiền thuê 3 tháng của anh A có hợp lý hay không cần căn cứ vào nội dung thỏa thuận trong hợp đồng liên quan đến điều khoản phạt vi phạm hợp đồng. Theo quy định tại Điều 418 Bộ luật dân sự, phạt vi phạm do các bên tự thỏa thuận; Trường hợp các bên có thoả thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.
Trên đây là tư vấn liên quan đến vấn đề hợp đồng thuê nhà.

Xây dựng công trình trên đất quy hoạch
Câu hỏi:

Hỏi:
Xin cho hỏi luật mới năm 2017 về việc xin giấy phép xây dựng tạm trên đất quy hoạch cây xanh nhưng chưa có quyết định thu hồi có được xây dựng không ạ? tôi xin cảm ơn.

Trả lời:
Luật sư tư vấn:
Với câu hỏi của bạn, chúng tôi đưa ra ý kiến pháp lý như sau:
Thứ nhất, hoạt động xây dựng trên đất quy hoạch cây xanh nhưng chưa có quyết định thu hồi đất là phù hợp quy định pháp luật nếu chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện, Điều 49 Luật Đất đai 2013 quy định:
“2. Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, trong trường hợp đất đã có quy hoạch nhưng UBND huyện chưa ban hành kế hoạch sử dụng đất hàng năm thì người sử dụng đất có các quyền của mình, được xây mới nhà ở, công trình xây dựng.
Thứ hai, việc cấp phép xây dựng tạm được thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 41 Nghị định 59/2015/NĐ-CP về cấp phép xây dựng có thời hạn. Trường hợp xây dựng mới nhà ở riêng lẻ, chủ đầu tư (người sử dụng đất xây dựng công trình) chuẩn bị hồ sơ gồm có:
·        Đơn đề nghị cấp giấy phép xây dựng;
·        Bản sao một trong những giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; 
·        Bản vẽ thiết kế xây dựng;
·        Đối với công trình xây dựng có công trình liền kề phải có bản cam kết bảo đảm an toàn đối với công trình liền kề.
Tùy từng trường hợp cụ thể, việc cấp phép xây dựng yêu cầu bổ sung một/ một số loại giấy tờ liên quan khác.
 
 
 

Tách thửa đất ở nông thôn
Câu hỏi:

Thưa luật sư
Hai vợ chồng tôi và hai vợ chồng người bạn có mua lô đất 20m x 40,3m, có 100m2 đất ở, 706m2 đất CLN sử dụng đến 2048 ở ấp 4, xã Hắc Dịch, Tân Thành, Bà Rịa – Vũng Tàu. Đất được chủ cũ phân lô, mở đường đi chung 9m ở giữa và phân lô hai bên để bán vào năm 2008 và được cấp GCN với diện tích như trên. Nay chúng tôi muốn tách thửa đất trên thành 2 thửa bằng nhau. Mỗi thửa 1 sổ với diện tích 403m2, 50m2 thổ cư để xây nhà ở. Nhưng hỏi ở xã thì bảo không tách được vì dính vào quyết định 59 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, tôi có tham khảo thì không hiểu vì không có liên quan gì cả.
Vậy xin luật sư tư vấn giúp ạ, và xem dùm trường hợp của tôi có tách thửa được không?
Tôi xin chân thành cảm ơn Luật sư.

Trả lời:
Luật sư tư vấn:
Chào bạn,
Trên cơ sở quy định pháp luật về vấn đề tách thửa đất, cụ thể là Quyết định số 59/2014/QĐ-UBND ngày 28/11/2014của UBND tỉnh BRVT, chúng tôi đưa ra ý kiến tư vấn như sau:
Để thực hiện tách thửa đất, các thửa đất được tách ra phải đảm bảo các điều kiện:
+ Kích thước (chiều rộng mặt tiền) và diện tích tối thiểu sau khi tách thửa đã trừ phần diện tích hành lang lộ giới, đường giao thông đã có quy hoạch.
+ Thửa đất tách ra phải có ít nhất một cạnh tiếp giáp với đường giao thông hiện hữu hoặc phải tạo lối đi chung bề rộng không nhỏ hơn 6m (không yêu cầu làm vỉa hè), phải kết nối được với hạ tầng hiện hữu và phù hợp quy hoạch xây dựng chi tiết khu vực.
Qua phần trình bày của bạn, chúng tôi xác định phần đất của bạn là đất thuộc khu vực các xã, phải đáp ứng cả 2 điều kiện sau khi tách thửa theo quy định của Quyết định 59 như sau:
+ Đối với thửa đất được tách: diện tích tối thiểu 100 m2 và chiều rộng mặt tiền không nhỏ hơn 5m. Khu đất 20m x 40,3m đã đáp ứng điều kiện này.
+ Đối với phần đất ở sau khi được tách: diện tích tối thiểu 40 m2 và chiều rộng mặt tiền không nhỏ hơn 5m. Qua phần trình bày của bạn, chúng tôi nhận thấy phần đất ở đảm bảo diện tích tối thiểu. Tuy nhiên đối với điều kiện chiều rộng mặt tiền không nhỏ hơn 5m, do không có thông tin cụ thể nên chúng tôi chưa xác định phần đất của bạn sau khi tách ra có đảm bảo điều kiện chiều rộng mặt tiền hay không.
Bên cạnh đó bạn cần tuân thủ điều kiện về kết nối hạ tầng, điều kiện về tạo lối đi chung. Như vậy, bạn cần xem xét lại nhu cầu tách thửa đất của mình phù hợp với các điều kiện nêu trên theo Quyết định số 59 để có hướng xử lý phù hợp.
Trên đây là tư vấn liên quan đến vấn đề tách thửa đất ở nông thôn. Trân trọng.
 

Thủ tục cấp lại sổ đỏ do bị mất
Câu hỏi:

Gia đình tôi có sở hữu 1 mảnh đất trên địa bàn xã TP Lai Châu . Do sơ suất gia đình đã đánh mất sổ đỏ của mảnh đất trên. Gia đình tôi đã liên lạc với địa chính phường để được hướng dẫn làm thủ tục xin cấp lại bìa đỏ. Nhưng khi liên lạc với địa chính phường thì yêu cầu gia đình cung cấp seri số bìa đỏ. Do gia đình đã bị mất sổ nên k có được thông tin seri. Và theo như địa chính cung cấp là do thời điểm cấp sổ cho gia đình đã lâu, nên hồ sơ sổ sách tại xã không còn lưu seri. Vậy Quý Sở cho gia đình tôi hỏi: Liệu gia đình tôi có được cấp lại sổ đỏ không? Do gia đình đã rất nhiều lần liên lạc với địa chính mà không được hướng dẫn với lý do rằng: nếu không có được seri sổ đỏ, thì sẽ không huỷ được cái sổ cũ và không cấp được sổ mới. Vì vậy gia đình tôi muốn được cơ quan chức năng nhà nước hướng dẫn cho gia đình chúng tôi.

Trả lời:
Trả lời: 
Trường hợp gia đình ông đã được cấp giấy chứng nhận nhưng mất giấy chứng nhận và không nhớ số serri; căn cứ Điều 77, Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định cấp lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng do bị mất " Hộ gia đình và cá nhân, cộng đồng dân cư phải khai báo với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất về việc bị mất Giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm niêm yết thông báo mất Giấy chứng nhận tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, trừ trường hợp mất giấy do thiên tai, hỏa hoạn”.
Như vậy, gia đình để được cấp lại gia đình ông cần Ủy ban nhân dân xã, phường nơi có đất để thực hiện thủ tục cấp lại giấy chứng nhận theo quy định; trường hợp không cung cấp được serri, gia đình ông có thể đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Lai Châu hoặc Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường (địa chỉ Đại Lộ Lê Lợi, phường Tân Phong, Thành phố Lai Châu) để tra cứu thông tin./.

Đính chính lại nội dung Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Câu hỏi:

Thẩm quyền đính chính nội dung sai sót do chỉnh lý tại trang 04 GCNQSDĐ.
Cho tôi hỏi, tôi được UBND huyện bến cát cấp GCNQSDD vào năm 2000, theo đó tên người sử dụng đất ghi tại trang 2 là ông Nguyễn Văn A, sau đó đến năm 2004 tôi lập thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất và đã được cập nhật chỉnh lý tại trang 04, tuy nhiên khi đó Phòng nông nghiệp phát triển nông thôn và địa chính (nay là Phòng Tài nguyên Môi trường thị xã) lại ghi: hộ ông Nguyễn Văn A chuyển mục đích sử dụng đất với diện tích....., nay tôi lập thủ tục biến động thì nhận thấy việc cập nhật chỉnh lý biến động nêu trên ghi hộ ông... là không chính xác vì tất cả hồ sơ gốc và các giấy tờ liên quan đều ghi nhận là cá nhân tôi thực hiện các quyền nêu trên. Vậy, xin quý cơ quan cho tôi hỏi hiện nay với sai sót như đã nêu thì thẩm quyền đính chính lại trang 4 GCNQSDĐ thuộc về cơ quan nào? Chi nhánh văn phòng đăng ký, phòng Tài nguyên môi trường hay Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Trả lời:
Trả lời:
 
Căn cứ tại điểm a khoản 1 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 có quy định như sau:
“ Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
1. Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận có trách nhiệm đính chính Giấy chứng nhận đã cấp có sai sót trong các trường hợp sau:
a) Có sai sót thông tin về tên gọi, giấy tờ pháp nhân hoặc nhân thân, địa chỉ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất so với giấy tờ pháp nhân hoặc nhân thân tại thời điểm cấp GCN của người đó; ”
Như vậy, trường của Ông nêu trên thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện đính chính và đề nghị ông liên hệ tại Bộ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả (01 cửa) của UBND cấp huyện nơi có thửa đất để được hướng dẫn cụ thể.

Thời gian miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là bao lâu
Câu hỏi:

Thời gian miễn thuế, giảm thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp?

Trả lời:
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 14 về Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi, bổ sung năm 2013 thì thời gian miễn thuế, giảm thuế đối với thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:
1. Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới quy định tại Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 13 của Luật này và doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được miễn thuế tối đa không quá bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá chín năm tiếp theo.
2. Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới quy định tại Khoản 3 Điều 13 của Luật này và thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại khu công nghiệp, trừ khu công nghiệp thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi theo quy định củapháp luật được miễn thuế tối đa không quá hai năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá bốn năm tiếp theo.
3. Thời gian miễn thuế, giảm thuế đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 14 luật này được tính từ năm đầu tiên có thu nhập chịu thuế từ dự án đầu tư, trường hợp không có thu nhập chịu thuế trong ba năm đầu, kể từ năm đầu tiên có doanh thu từ dự án thì thời gian miễn thuế, giảm thuế được tính từ năm thứ tư. Thời gian miễn thuế, giảm thuế đối với doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 13 của Luật này được tính từ ngàyđược cấp giấy chứng nhận là doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
4. Doanh nghiệp có dự án đầu tư phát triển dự án đầu tư đang hoạt động thuộc lĩnh vực, địa bàn ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật này mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao công suất, đổi mới công nghệ sản xuất (đầu tư mở rộng) nếu đáp ứng một trong ba tiêu chí quy định tại khoản này thì được lựa chọn hưởng ưu đãi thuế theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có) hoặc được miễn thuế, giảm thuế đối với phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mở rộng. Thời gian miễn thuế, giảm thuế đối với thu nhập tăng thêm do đầutư mở rộng quy định tại khoản này bằng với thời gian miễn thuế, giảm thuế áp dụng đối với dự án đầu tư mới trên cùng địa bàn, lĩnh vực ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Dự án đầu tư mở rộng được hưởng ưu đãi quy định tại khoản này phải đáp ứng một trong các tiêu chí sau:
a) Nguyên giá tài sản cố định tăng thêm khi dự án đầu tư hoàn thành đi vào hoạt động đạt tối thiểu từ hai mươi tỷ đồng đối với dự ánđầu tư mở rộng thuộc lĩnh vực hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật này hoặc từ mười tỷ đồng đối với các dự ánđầu tư mở rộng thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;
b) Tỷ trọng nguyên giá tài sản cố định tăng thêm đạt tối thiểu từ 20% so với tổng nguyên giá tài sản cố định trước khi đầu tư;
c) Công suất thiết kế tăng thêm tối thiểu từ 20% so với công suất thiết kế trước khi đầu tư.
Trường hợp doanh nghiệp đang hoạt động có đầu tư mở rộng thuộc lĩnh vực, địa bàn ưu đãi thuế theo quy định của Luật này mà không đáp ứng một trong ba tiêu chí quy định tại khoản này thì áp dụng ưu đãi thuế theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn lại (nếu có).
Trường hợp doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế theo diện đầu tư mở rộng thì phần thu nhập tăng thêm do đầu tư mở rộng được hạch toán riêng; trường hợp không hạch toán riêng được thì thu nhập từ hoạt động đầu tư mở rộng xác định theo tỷ lệ giữa nguyên giá tài sản cố định đầu tư mới đưa vào sử dụng cho sản xuất, kinh doanh trên tổng nguyên giá tài sản cố định của doanh nghiệp.
Thời gian miễn thuế, giảm thuế quy định tại khoản này được tính từ năm dự án đầu tư hoàn thành đưa vào sản xuất, kinh doanh.
Ưu đãi thuế quy định tại khoản này không áp dụng đối với các trường hợp đầu tư mở rộng do sáp nhập, mua lại doanh nghiệp hoặc dự án đầu tư đang hoạt động. 

Thủ tục khai thuế nhà thầu như thế nào?
Câu hỏi:

Xin cho biết tại sao phải kê khai thuế nhà thầu nước ngoài hàng năm thì mới được hoàn thuế? Chúng tôi cho rằng việc doanh nghiệp không có cơ sở kinh doanh cố định tại Việt Nam phải khai báo hàng tháng hoặc mỗi lần phát sinh thì mới được hoàn thuế nhà thầu nước ngoài là điều bất hợp lý. Bên cạnh đó, thủ tục khai thuế rất khó khăn và dù có tiến hành theo trình tự thủ tục một cách bình thường thì việc có được hoàn thuế hay không lại được quyết định theo phán đoán của cán bộ cơ quan thuế nên điều này càng bất hợp lý. Liệu Bộ Tài chính có kế hoạch đơn giản hóa và làm minh bạch thủ tục khai thuế hay không?
Trường hợp không được miễn thuế nhà thầu nước ngoài thì có được khấu trừ vào tiền thuế người nước ngoài nộp trực tiếp khi doanh nghiệp Hàn Quốc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hay không?
Trường hợp những khoản thuế không được công nhận là phần lỗ tính gộp vào chi phí khi điều tra thuế thì số thuế ấy sẽ được xử lý như thế nào?
Khi bị đánh thuế hai lần với thuế nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam và thuế thu nhập doanh nghiệp tại Hàn Quốc thì phải có phương án xử lý ra sao?

Trả lời:
Trả lời:
       Về câu hỏi trên, chúng tôi trả lời theo nguyên tắc sau:
       - Văn bản hướng dẫn về chính sách thuế hiện hành đối với Nhà thầu nước ngoài: Thông tư số 60/2012/TT-BTC ngày 12/4/2012 của Bộ Tài chính
       - Văn bản hướng dẫn về Quản lý thuế hiện hành liên quan đến Nhà thầu nước ngoài: Thông tư số 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.
       Tại Điều 18 Thông tư số 28/2011/TT-BTC nêu trên hướng dẫn về việc khai thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Nhà thầu nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài.
       Tại Điều 47 Thông tư số 28/2011/TT-BTC nêu trên hướng dẫn về hồ sơ hoàn thuế theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
       Theo đó, Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài có trách nhiệm khai thuế theo đúng phương pháp đã đăng ký với cơ quan thuế ((i)Khai thuế đối với trường hợp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, nộp thuế TNDN trên cơ sở kê khai doanh thu, chi phí để xác định thu nhập chịu thuế TNDN, (ii) Khai thuế đối với trường hợp nộp thuế GTGT tính trực tiếp trên GTGT, nộp thuế TNDN theo tỷ lệ % tính trên doanh thu, (iii) Khai thuế đối với trường hợp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, nộp thuế TNDN theo tỷ lệ % tính trên doanh thu) theo quy định tại Điều 18 Thông tư số 28/2011/TT-BTC nêu trên.
       Đối với trường hợp các Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài thuộc diện được miễn thuế, giảm thuế theo Hiệp định thì thực hiện nộp hồ sơ miễn, giảm thuế theo Hiệp định hướng dẫn tại Điều 18 Thông tư 28/2011/TT-BTC nêu trên.
       Đối với trường hợp Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài thuộc diện được hoàn thuế theo Hiệp định thì thực hiện nộp hồ sơ hoàn thuế theo Hiệp định hướng dẫn tại Điều 47 Thông tư số 28/2011/TT-BTC nêu trên.

Trường hợp nào được giảm tiền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Theo quy định của pháp luật, những trường hợp nào được giảm tiền sử dụng đất?

Trả lời:
Trả lời:
Điều 12 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định việc giảm tiền sử dụng đất như sau:
1. Giảm 50% tiền sử dụng đất trong hạn mức đất ở đối với hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo tại các địa bàn không thuộc phạm vi quy định tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định này khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất; công nhận (cấp Giấy chứng nhận) quyền sử dụng đất lần đầu đối với đất đang sử dụng hoặc khi được chuyển mục đích sử dụng từ đất không phải là đất ở sang đất ở.
Việc xác định hộ nghèo theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; việc xác định hộ gia đình hoặc cá nhân là đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của Chính phủ.
2. Giảm tiền sử dụng đất đối với đất ở trong hạn mức giao đất ở (bao gồm giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp Giấy chứng nhận cho người đang sử dụng đất) đối với người có công với cách mạng mà thuộc diện được giảm tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về người có công.
3. Thủ tướng Chính phủ quyết định việc giảm tiền sử dụng đất đối với các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính trình trên cơ sở đề xuất của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Trường hợp nào được miễn tiền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Theo quy định của pháp luật, những trường hợp nào được miễn tiền sử dụng đất?

Trả lời:
Trả lời:
Điều 11 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP quy định miễn tiền sử dụng đất trong những trường hợp sau đây:
1. Miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức giao đất ở khi sử dụng đất để thực hiện chính sách nhà ở, đất ở đối với người có công với cách mạng thuộc đối tượng được miễn tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về người có công; hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo; sử dụng đất để xây dựng nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở; nhà ở cho người phải di dời do thiên tai.
Việc xác định hộ nghèo theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; việc xác định hộ gia đình hoặc cá nhân là đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của Chính phủ.
2. Miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức giao đất ở khi cấp Giấy chứng nhận lần đầu đối với đất do chuyển mục đích sử dụng từ đất không phải là đất ở sang đất ở do tách hộ đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi theo Danh mục các xã đặc biệt khó khăn do Thủ tướng Chính phủ quy định.
3. Miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao trong hạn mức giao đất ở cho các hộ dân làng chài, dân sống trên sông nước, đầm phá di chuyển đến định cư tại các khu, điểm tái định cư theo quy hoạch, kế hoạch và dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
4. Miễn tiền sử dụng đất đối với phần diện tích đất được giao trong hạn mức giao đất ở để bố trí tái định cư hoặc giao cho các hộ gia đình, cá nhân trong các cụm, tuyến dân cư vùng ngập lũ theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
5. Thủ tướng Chính phủ quyết định việc miễn tiền sử dụng đất đối với các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính trình trên cơ sở đề xuất của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Số tiền bồi thường trong bảo hiểm xây dựng là bao nhiêu?
Câu hỏi:

Số tiền bồi thường của DNBH trong bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba trong xây dựng, lắp đặt được tính dựa trên những căn cứ nào? Người được bảo hiểm có quyền đòi bồi thường đối với DNBH nào trong trường hợp có nhiều DNBH đồng bảo hiểm?

Trả lời:
Trả lời :  
a)  Những căn cứ cơ bản cho việc tính số tiền bồi thường bao gồm:
      1.  Hạn mức bồi thường mà các bên thỏa thuận và ghi trong đơn bảo hiểm, gồm có:
-         Thương tật:  Giới hạn trách nhiệm cho một người và cho tổng số
-         Thiệt hại tài sản:  Giới hạn trách nhiệm về thiệt hại tài sản
Giới hạn trách nhiệm nói trên được chú thích kèm theo là: hạn mức bồi thường cho mỗi và mọi mất mát hay thiệt hại và/hoặc hàng loạt mất mát hay thiệt hại nảy sinh từ một sự cố.
      2 .  Mức khấu trừ
      3.  Trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm cho người thứ ba và các chi phí liên quan thuộc phạm vi bảo hiểm (xem câu 302)
b) Trường hợp có nhiều doanh nghiệp đồng bảo hiểm (thông thường cho cả bảo hiểm tổn thất vật chất và trách nhiệm đối với người thứ ba) thì về nguyên tắc, quan hệ giữa người được bảo hiểm và các doanh nghiệp đồng bảo hiểm là độc lập trong vấn đề trả phí bảo hiểm và thanh toán bồi thường. Người được bảo hiểm thực hiện khiếu nại bồi thường trực tiếp đối với tất cả các doanh nghiệp đồng bảo hiểm theo tỷ lệ phân định trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trên thực tế, thông thường có thể thông qua môi giới bảo hiểm mà quan hệ giữa các doanh nghiệp đồng bảo hiểm đã được thiết lập trong thỏa thuận cung cấp dịch vụ bảo hiểm về phân chia trách nhiệm và vai trò của DNBH chủ trì. DNBH chủ trì chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý HĐBH, phân bổ tổn thất và yêu cầu các doanh nghiệp đồng bảo hiểm đóng góp bồi thường cho người được bảo hiểm. 
Trường hợp nào bảo hiểm không bồi thường cho người thứ ba
Câu hỏi:

Bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba trong xây dựng, lắp đặt không chịu trách nhiệm trong những tr­ường hợp nào?

Trả lời:
Trả lời
Bên cạnh những điểm loại trừ áp dụng chung cho cả bảo hiểm thiệt hại vật chất (trong đơn bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng, lắp đặt) bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba không có trách nhiệm bồi thường đối với:
1.      Mức khấu trừ quy định trong HĐBH
2.      Chi phí chế tạo, chế tạo lại, nâng cấp, sữa chữa hay thay thế các hạng mục được bảo hiểm hoặc có thể được bảo hiểm theo hợp đòng bảo hiểm thiệt hại vật chất của công trình xây dựng
3.      Thiệt hại đối với tài sản, đất đai hay nhà cửa do chấn động hay kết cấu chịu lực và địa chất công trình bị chuyển dịch hay suy yếu; thương vong hay thiệt hại đối với người hay tài sản do những sự việc nếu trên gây ra (trừ khi có thỏa thuận khác bằng điều khoản sửa đổi bổ sung)
4.      Trách nhiệm do hậu quả của:
-         Các thương vong, ốm đau gây ra cho người làm thuê hay công nhân của nhà thầu hay của chủ công trình hoặc của bất kỳ doanh nghiệp nào khác có liên quan đến công trình được bảo hiểm (toàn bộ hay một phần theo thỏa thuận trong HĐBH thiệt hại vật chất) hay gây ra cho thành viên trong gia đình họ
-         Tổn thất gây ra đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay quyền quản lý, chăm nom, coi sóc hay kiểm soát của nhà thầu, của chủ công trình hay của bất kỳ doanh nghiệp nào khác có liên quan đến công trình được bảo hiểm (toàn bộ hay một phần theo thỏa thuận trong HĐBH thiệt hại vật chất công trình xây dựng) hay của người làm thuê hoặc công nhân của một trong những người nói trên
-         Tai nạn gây ra bởi xe cơ giới được phép lưu hành trên đưường công cộng hay bởi phương tiện vận tải thủy hay máy bay
-         Bất kỳ thỏa thuận nào của người được bảo hiểm về việc trả một khoản tiền dưới hình thức đền bù hay dưới hình thức khác, trừ khi trách nhiệm đó thuộc trách nhiệm bồi thường của DNBH theo HĐBH
5.      Trách nhiệm phát sinh do người được bảo hiểm cung cấp hoặc không cung cấp lời khuyên, dịch vụ có tính chất chuyên môn hoặc do bất cứ lỗi hoặc thiếu sót nào có liên quan
6.      Trách nhiệm phát sinh từ sự ô nhiễm hoặc nhiễm bẩn (trừ việc phá hủy hoặc gây thiệt hại đến đối tượng bảo hiểm do ô nhiễm hoặc nhiễm bẩn xuất phát từ bất cứ rủi ro được bảo hiểm nào và trách nhiệm phát sinh liên quan đến các vật liệu hoặc chất phế thải sẵn có hay được thải ra
7.      Trách nhiệm phát sinh từ hay có liên quan đến chất Amiăng
8.      Trách nhiệm liên quan đến tiền phạt khi không thực hiện hợp đồng.

Thế nào là ngày hồi tố trong bảo hiểm nghề nghiệp?
Câu hỏi:

Thế nào là ngày hồi tố trong bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp tư­ vấn đầu t­ư và xây dựng?

Trả lời:
Trả lời:
Ngày hồi tố là thời điểm bắt đầu hiệu lực hồi tố. Quy định về thời gian hồi tố có nghĩa là: nếu tổn thất xảy ra đối với bên thứ ba xảy ra trước thời điểm bắt đầu hiệu lực hồi tố thì khiếu nại liên quan sẽ không thuộc phạm vi bảo hiểm. Một tổn thất chỉ có thể được xem xét bồi thường khi nó xảy ra sau thời điểm bắt đầu hiệu lực hồi tố và trước thời điểm kết thúc thời hạn bảo hiểm. Đồng thời khiếu nại liên quan phải được lập trong thời hạn bảo hiểm (có thể  mở rộng cho 36 tháng tiếp theo kể từ ngày HĐBH kết thúc với điều kiện là thông báo về sự cố có thể dẫn đến khiếu nại phải được gửi cho DNBH trong vòng 30 ngày sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm)
Cách thức quy định ngày hồi tố tùy thuộc vào 2 trường hợp sau:
-         Bảo hiểm có thời hạn bảo hiểm theo năm: không áp dụng ngày hồi tố khi ký hợp đồng năm đầu tiên hoặc đã ký trước đây nhưng gián đoạn. Trong những năm tiếp theo, đối với khách hàng tái tục hợp đồng và có thời gian tham gia bảo hiểm liên tục, thời gian hồi tố được phép tính từ ngày bắt đầu thời hạn bảo hiểm của đơn đầu tiên (thường là 3 năm trước đó) không hồi tố cho những thỏa thuận mới không thuộc phạm vi bảo hiểm trước đó hoặc có mức trách nhiệm thấp hơn.
-         Bảo hiểm có thời hạn bảo hiểm theo dự án: Chỉ hồi tố cho những hợp đồng khi không có tổn thất hoặc tổn thất tiềm tàng được biết đến cho đến khi HĐBH có hiệu lực.
Như vậy, người được bảo hiểm phải chú ý thực hiện nghĩa vụ của trong trường hợp phát hiện tổn thất, cụ thể:
+       Trong thời hạn sớm nhất có thể được, nhưng trong mọi trường hợp không được chậm hơn 30 ngày kể từ ngày kết thúc thời hạn bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm/ phụ lục hợp đồng, người được bảo hiểm phải gửi thông báo bằng văn bản cho DNBH hoặc người đại diện được ủy quyền của doanh nghiệp với đầy đủ thông tin về thời gian, địa điểm và tình huống phát sinh tổn thất, tên và địa chỉ của những người bị thương và của nhân chứng nếu có.
+       Gửi ngay cho DNBH mọi thư yêu cầu, thông báo, trát triệu tập hoặc các yêu cầu khác mà người được bảo hiểm hoặc đại diện của họ đã nhận nếu có khiếu nại phát sinh hay khiếu kiện chống lại người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm hay đại diện của họ không được thừa nhận, hứa hẹn hoặc chi trả bất kỳ khoản tiền nào nếu không được sự đồng ý bằng văn bản của DNBH. DNBH có quyền đứng tên người được bảo hiểm tiến hành bào chữa hoặc giải quyết bất kỳ khiếu nại nào hoặc vì lợi ích của chính mình thay mặt người được bảo hiểm theo đuổi bất kỳ khiếu kiện nào và được tự mình toàn quyền trong việc tiến hành bất kỳ thủ tục pháp lý và giải quyết bất kỳ khiếu nại nào.
 

Thời hạn tham gia bảo hiểm của tổ chức xây dựng
Câu hỏi:

Tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng có thể tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp theo thời hạn như thế nào ? Thế nào là bảo hiểm trên cơ sở khiếu nại được lập ?

Trả lời:
Trả lời:
a) Thời hạn bảo hiểm: đơn bảo hiểm có thể được cấp mới hoặc được gia hạn theo thời hạn cố định là 01 năm (gọi tắt là bảo hiểm theo năm) hoặc bảo hiểm theo dự án. Bảo hiểm theo năm có nghĩa là bảo hiểm mọi trách nhiệm nghề nghiệp của người được bảo hiểm trong năm bảo hiểm phát sinh từ bất kỳ dự án nào họ thực hiện.
Bảo hiểm theo dự án chỉ bảo hiểm trách nhiệm chuyên môn của người được bảo hiểm phát sinh từ một dự án cụ thể
b) Đối với bảo hiểm trên cơ sở khiếu nại được lập thì các khiếu nại được lập trong thời hạn bảo hiểm sẽ được xem xét bồi thường dù cho tổn thất xảy ra vối bên thứ ba  có thể xảy ra trước khi cấp đơn bảo hiểm (trong thời gian hiệu lực hồi tố). Có thể mở rộng thời hạn khiếu nại (36 tháng sau khi kết thúc thời hạn HĐBH) với sự thông báo cuả người được bảo hiểm.
Khiếu nại của bên thứ ba được coi là lập lần đầu tiên ngay sau khi người được bảo hiểm và/hoặc đại lý hoặc đại diện của người được bảo hiểm:
1.      nhận được văn bản yêu cầu bồi thường những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm của hợp đống bảo hiểm, bao gồm chi phí khiếu kiện hoặc tổ chức pháp lý hoặc các thủ tục trọng tài; hoặc
2.      biết được người có yêu cầu đòi bồi thường; hoặc
3.      biết được bất kỳ một sự việc, tình huống hoặc sự kiện nào có thể phán đoán hợp lý rằng sẽ dẫn đến một khiếu nại trong tương lai
4.      bất kể sự việc nào nêu trên xảy ra trước
5.      Nếu có bất kỳ vụ kiện nào chống lại người được bảo hiểm phát sinh sau này do kết quả trực tiếp của của bất kỳ một vấn đề hoặc những vấn đề nào đối với thông báo đưa ra theo các điểm 2) hoặc 3) nêu trên, bất kể những khiếu kiện đó diễn ra trong thời hạn bảo hiểm hay sau khi hết hạn hîp ®ång b¶o hiÓm, thì vẫn được coi là khiếu nại được lập lần đầu tiên nhằm chống lại người được bảo hiểm tại thời điểm người được bảo hiểm lần đầu tiên biết được sự kiện hoặc những sự kiện đó. Tuy nhiên DNBH sẽ không chịu trách nhiệm đối với bất kỳ sự kiện hoặc những sự kiện mà trong vòng 3 năm kể từ ngày thông báo bằng văn bản nói trên đưa ra mà không dẫn đến thủ tục pháp lý nào chống lại người được bảo hiểm.
 

Trách bồi thường của hãng hàng không đối với khách
Câu hỏi:

Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của các Hãng hàng không đối với thiệt hại của hành khách và người thứ ba khác?

Trả lời:
Trả lời:    
Việc xác định trách nhiệm bồi thường của các hãng hàng không căn cứ vào các nguồn luật quốc tế như Công ước Vacsava, nghị định thư Lahay… và  nguồn luật quốc gia như: Luật hàng không dân dụng Việt nam. Các nguồn luật một mặt quy kết trách nhiệm bồi thường của các hãng hàng không trong các trường hợp khác nhau, mặt khác cho phép các hãng hàng không được phép giới hạn trách nhiệm bồi thường đối với những loại thiệt hại nhất định. Chẳng hạn, theo  Luật hàng không dân dụng của CHXHCN Việt nam, có những điểm đáng chú ý sau:
-  Mức bồi thường của người vận chuyển đối với mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hàng hóa, hành lý được tính như sau:
+       Theo thỏa thuận giữa các bên nhưng không vượt quá giá trị thực tế
+       Theo mức giá trị đã kê khai của việc nhận hàng hóa, hành lý ký gửi tại địa điểm đến. Trường hợp người vận chuyển chứng minh được giá trị kê khai cao hơn giá trị thực tế thì mức bồi thường tính theo giá trị thực tế
+       Theo giá trị thiệt hại thực tế của hàng hóa, hành lý ký gửi không kê khai giá trị
+       Theo mức giá trị thiệt hại thực tế đối với hành lý xách tay
-  Trong trường hợp hàng hóa hành lý ký gửi không kê khai giá trị mà bị mất mát, thiếu hụt, hư hỏng và không xác định được giá trị thiệt hại thực tế thì mức bồi thường của người vận chuyển được tính đến mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại, quy định như sau:
+       Đối với vận chuyển hành khách, mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của hành khách là 100.000 đơn vị tính toán cho mỗi hành khách. Người vận chuyển chỉ được hưởng mức giới hạn trách nhiệm trong trường hợp chứng minh được rằng thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của mình hoặc hoàn toàn do lỗi của bên thứ ba
+       Đối với vận chuyển hành khách, mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vận chuyển chậm là 4150 đơn vị tính toán cho mỗi hành khách
+       Đối với vận chuyển hành lý bao gồm cả hành lý ký gửi và hành lý xách tay, mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hoặc do vận chuyển chậm là 1000 đơn vị tính toán cho mỗi hành khách
+       Đối với vận chuyển hàng hóa, mức giới hạn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mất mát, thiếu hụt, hư hỏng hoặc do vận chuyển chậm là 17 đơn vị tính toán cho mỗi kg hàng hóa
Đơn vị tính toán là đơn vị tiền tệ do Quỹ tiền tệ quốc tế xác định – Quyền rút vốn đặc biệt, được chuyển đổi sang đồng Việt nam theo tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước Việt nam công bố tại thời điểm thanh toán.

Bảo hiểm đối với chủ tàu cá
Câu hỏi:

Bảo hiểm TNDS chủ tàu cá bảo hiểm cho những trường hợp nào?

Trả lời:
Trả lời:    
Thực chất đây là loại bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà chủ tàu thuyền đánh bắt cá có thể phải gánh chịu trong trường hợp tàu cá có lỗi, gây thiệt hại về tài sản và tính mạng sức khỏe của người khác, bảo hiểm chịu trách nhiệm bồi thường:
1)  Những chi phí thực tế phát sinh do tàu thuyền được bảo hiểm gây ra mà chủ tàu thuyền phải chịu trách nhiệm dân sự theo pháp luật, quyết định của tòa án, gồm:
-         Chi phí tẩy rửa ô nhiễm dầu, tiền phạt của chính quyền địa phương và các khiếu nại về hậu quả do ô nhiễm dầu gây ra
-         Chi phí đánh dấu, phá hủy, di chuyển, trục vớt  xác tàu thuyền bị đắm theo yêu cầu của chính quyền địa phương
-         Chi phí cần thiết và hợp lý trong việc ngăn ngừa, hạn chế tổn thất, trợ giúp cứu nạn
-         Chi phí liên quan đến việc tố tụng, tranh chấp khiếu nại về bảo hiểm TNDS
2)  Trách nhiệm mà chủ tàu thuyền phải gánh chịu do tàu thuyền được bảo hiểm gây ra làm:
-         Thiệt hại cầu cảng, kè, cống, bè mảng, giàng đáy, đê đập, công trình trên bờ, dưới nước cố định hoặc di động
-         Bị thương hoặc thiệt hại tính mạng người thứ ba khác (trừ thuyền viên, những người đi trên tàu được bảo hiểm)
-         Những khoản chi phí phải trả do sự cố đâm va làm cho tàu thuyền khác:
+       Thiệt hại, hư hỏng vật chất, làm thiệt hại kinh doanh, làm mất giá trị sử dụng
+       Thiệt hại hàng hóa, tài sản trên tàu thuyền bị đâm va
+       Tàu thuyền, hàng hóa, tài sản bị đắm phải trục vớt, di chuyển hoặc phá hủy
+       Trách nhiệm về ô nhiễm dầu
+       Gây chết người, bị thương
+       Những chi phí liên quan đến tổn thất chung và chi phí cứu nạn

Cách tính tiền bồi thưởng bảo hiểm ?
Câu hỏi:

Căn cứ tính số tiền bồi thường của bảo hiểm bắt buộc TNDS của người kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa dễ cháy, dễ nổ trên đường thủy nội địa?

Trả lời:

Trả lời:    
Số tiền bồi thường của DNBH được tính dựa trên  nguyên tắc, c¨n cø sau:
1.      Tổng số tiền bồi thường không vượt quá mức trách nhiệm bảo hiểm ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm và không vượt quá số tiền thực tế mà chủ phương tiện phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo bản án hoặc quyết định của tòa án.
2.      Mức trách nhiệm mà chủ phương tiện tham gia. Hiện nay các chủ phương tiện có thể mua bảo hiểm với mức trách nhiệm như sau:
-         Bảo hiểm TNDS của người kinh doanh vận tải hành khách: mức trách nhiệm bắt buộc: 30 triệu đồng/ hành khách/ vụ
-         Bảo hiểm TNDS của người kinh doanh vận tải hàng hóa dễ cháy, dễ nổ đối với người thứ ba:
+       Thiệt hại về người: mức trách nhiệm bắt buộc là: 30 triệu đồng/ người/ vụ
+       Thiệt hại về tài sản: chủ phương tiện có thể thỏa thuận để mua các mức trách nhiệm như là 300 triệu đồng/vụ; 500 triệu đồng/ vụ; 1 tỷ đồng/ vụ
3.      Mức khấu trừ quy định trong Bảo hiểm TNDS của người kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa dễ cháy, dễ nổ. Theo quy định của quy tắc bảo hiểm bắt buộc, mức khấu trừ quy định là:
     +    Đối với thiệt hại về người: 100.000 đồng/ vụ
     +  Đối với thiệt hại khác: 2% số tiền yêu cầu bồi thường, tối thiểu là 1.000.000 đồng/ vụ

Bồi thường bảo hiểm cho người thứ ba
Câu hỏi:

Người thứ ba trong bảo hiểm bắt buộc TNDS của người kinh doanh vận tải hàng hóa dễ cháy, dễ nổ trên đường thủy nội địa bao gồm những người nào? DNBH có trách nhiệm đối với các loại thiệt hại, chi phí nào?

Trả lời:

Trả lời:    
-   Đây là loại bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là TNBT ngoài hợp đồng của chủ phương tiện nên người thứ ba là những người bị thiệt hại về thân thể, tài sản do phương tiện thủy nội địa gây ra, trừ những người sau:
   +  Chủ phương tiện, người lái phương tiện, hoa tiêu và thuyền viên của phương tiện
   +   Hành khách
-  DNBH có trách nhiệm đối với số tiền mà chủ phương tiện (người được bảo hiểm) phải bồi thường cho bên thứ ba theo quy định của pháp luật, cụ thể bao gồm:
+       Đối với thiệt hại về người: chi phí mà người được bảo hiểm phải trả theo quy định của pháp luật nhưng không vượt quá mức quy định trong Bảng quy định trả tiền bồi thường thiệt hại về người ban hành kèm theo Quyết định số 99/2005/QĐ-BTC ngày 22 tháng 12 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
+       Đối với thiệt hại về tài sản: Trách nhiệm bồi thường của chủ phương tiện được xác định căn cứ vào thiệt hại thực tế về tài sản và mức độ lỗi của chủ phương tiện. Thiệt hại thực tế được tính căn cứ vào giá trị thị trường của tài sản bị tổn thất tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế
+       Các chi phí thực tế phát sinh mà người được bảo hiểm phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật và quyết định của Tòa án, bao gồm:
▪  Chi phí khi thực hiện nghĩa vụ hay các biện pháp cần thiết nhằm cứu sinh mạng trên đường thủy nội địa với điều kiện là người được bảo hiểm có nghĩa vụ pháp lý đối với các chi phí đó và các chi phí đó không thể đòi được từ người thứ ba
▪  Chi phí tẩy rửa ô nhiễm dầu, tiền phạt của chính quyền địa phương và các khiếu nại về hậu quả do ô nhiễm dầu gây ra
▪  Chi phí cần thiết và hợp lý trong việc ngăn ngừa và hạn chế tổn thất, trợ giúp cứu nạn
▪  Chi phí liên quan đến việc tố tụng, tranh chấp khiếu nại về trách nhiệm đối với bên thứ ba
▪  Chi phí thắp sáng, đánh dấu, phá hủy hay di chuyển xác phương tiện bị đắm (nếu có). DNBH chỉ chịu trách nhiệm về chi phí di chuyển xác phương tiện khi chủ phương tiện tuyên bố từ bỏ phương tiện.
 

Cách tính tiền bồi thưởng cua bản hiểm P and I
Câu hỏi:

Phí bảo hiểm được tính dựa trên những căn cứ nào? Thời gian tàu ngừng hoạt động có được hoàn phí hay không?

Trả lời:

Trả lời:    
Hội P & I tính mức phí thu/ 1GT hàng năm cho mỗi loại tàu, chủ tàu. Về nguyên tắc  mức phí tương hỗ không cố định trước mà phụ thuộc vào tình hình phát sinh các khoản chi bồi thường và chi phí quản lý khác của Hội và chia thành phí đóng trước và phí đóng thêm. Phí đóng trước sẽ dựa vào các căn cứ như là:

-         Loại tàu, tuổi tàu, phạm vi hoạt động, mức khấu trừ, trình độ nghề nghiệp của thủy thủ đoàn

-         Kết quả thống kê về tình hình tổn thất của chủ tàu trong nhiều năm trước
Đối với các chủ tàu Việt nam với đặc thù tham gia bảo hiểm (xem câu 279), nên các DNBH vẫn áp dụng mức phí cố định. Tỷ lệ phí bảo hiểm hàng năm áp dụng cho các loại tàu, nhóm tàu do DNBH tính toán trên cơ sở phí và điều kiện bảo hiểm do Hội bảo hiểm P&I qui định. Phí bảo hiểm P&I sau khi cân đối với nghiệp vụ bảo hiểm thân tàu trong cùng một đội tàu có thể được điều chỉnh tăng hoặc giảm phụ thuộc vào tỉ lệ tổn thất so với phí bảo hiểm trong từng thời gian 05 năm liên tục. Phí bảo hiểm thanh toán bằng USD và được qui đổi tương đương ra tiền Việt Nam theo tỷ giá liên ngân hàng thương mại tại thời điểm thanh toán.
DNBH chỉ hoàn phí với điều kiện chủ tàu đã đóng toàn bộ phí bảo hiểm cho nguyên thời gian bảo hiểm ghi trên giấy chứng nhận bảo hiểm và thông báo thu phí kèm theo, và:
a)      Trường hợp tàu nằm đậu tại nơi an toàn trong thời gian liên tục 30 ngày trở lên với điều kiện không có thuyền viên trên tàu (ngoại trừ thuyền viên trên tàu để bảo quản hay bảo vệ tàu) và tàu không chở hàng hóa, đồng thời chủ tàu gửi thông báo bằng văn bản cho DNBH 01 tuần trước khi tàu nằm đậu và được DNBH đồng ý: DNBH sẽ hoàn lại 90% phí bảo hiểm cho thời gian tàu nằm đậu này.
b)     Trường hợp tàu nằm đậu tại nơi an toàn trong thời gian liên tục 30 ngày trở lên kể cả trường hợp có thuyền viên trên tàu nhưng không có hàng hóa chở trên tàu, đồng thời  chủ tàu gửi thông báo bằng văn bản cho DNBH 01 tuần trước khi tàu nằm đậu và được DNBH đồng ý: DNBH sẽ hoàn lại 50% phí bảo hiểm cho thời gian tàu nằm đậu này.
c)      Trường hợp chủ tàu gửi thông báo bằng văn bản cho DNBH trước 01 tuần yêu cầu chấm dứt bảo hiểm với lí do chính đáng: DNBH sẽ hoàn lại 80% phí bảo hiểm cho khoảng thời gian còn lại không bảo hiểm.
d)     Áp dụng cho khoản (a) và (b) trong phần này: chỉ hoàn lại phí bảo hiểm khi kết thúc năm bảo hiểm và tàu không bị tổn thất toàn bộ.
 

Hồ sơ bồi thưởng của bảo hiểm P and I
Câu hỏi:

Chủ tàu tham gia bảo hiểm P and I phải làm gì khi xảy ra sự cố ?

Trả lời:

Trả lời:     
Khi xảy ra các tai nạn, sự cố hay khiếu nại có liên quan đến tàu được bảo hiểm, thì trong vòng 72 giờ (trừ các ngày lễ, tết) kể từ khi phát sinh các tai nạn, sự cố hay khiếu nại nêu trên người được bảo hiểm phải bằng mọi cách thông báo ngay cho người bảo hiểm mọi thông tin về sự cố thu thập và gửi cho DNBH hồ sơ gồm các chứng từ sau:
-         Giấy chứng nhận bảo hiểm P & I và giấy sửa đổi bổ sung (nếu có)
-         Biên bản giám định trước khi nhận bảo hiểm (pre-entry survey) nếu có, biên bản giám định trước khi xếp hàng lên tàu (preloading survey) nếu có; biên bản giám định điều kiện nếu có (condition survey) và biên bản giám định tiếp theo nếu có (follow-up survey)
-         Các giấy tờ đăng kiểm, giấp phép của tàu
-         Bằng cấp của thuyền trưởng, máy trưởng
-         Kháng nghị hàng hải (có xác nhận của cơ quan cơ thẩm quyền nơi tàu xảy ra tai nạn hoặc cảng đến đầu tiên nếu sự cố xảy ra khi tàu đang ở ngoài khơi).
-         Trích sao đầy đủ và chi tiết Nhật ký hàng hải, Nhật ký máy, Nhật ký vô tuyến điện, Thông báo thời tiết ...
-         Thông báo sự cố của chủ tàu, người thuê tàu
-         Biên bản giám định sự cố; các chứng từ hóa đơn liên quan đến việc khắc phục sự cố
-         Yêu cầu bồi thường của bên thứ ba gửi người được bảo hiểm
-         Các chứng từ chuyển trả tiền của chủ tàu nếu chủ tàu buộc phải trả tiền trong trường hợp khẩn cấp
-         Giấy yêu cầu bồi thường
-         Các tài liệu liên quan đến trách nhiệm của người thứ ba (trường hợp tổn thất có liên quan đến người thứ ba), hoặc các giấy tờ cần thiết khác theo yêu cầu của người bảo hiểm.
-         Các chứng từ cần thiết khác (tùy vào từng trường hợp cụ thể: hậu quả là tổn thất hàng hóa; thương tật cá nhân; trách nhiệm đâm va; ô nhiễm, tổn thất chung...)

Sau 30 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ khiếu nại, nếu người bảo hiểm không có yêu cầu gì thêm thì hồ sơ khiếu nại được coi là đầy đủ và hợp lệ

 
Có được thế quyền trong bảo hiểm?
Câu hỏi:

Thế quyền có áp dụng trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự không?

Trả lời:

Trả lời:    
Thế quyền sẽ đ­ược áp dụng trong trường hợp xác định đ­ược trách nhiệm của người thứ ba (tổ chức, cá nhân không thuộc các bên của HĐBH) có lỗi đối với thiệt hại của đối tượng bảo hiểm xảy ra trong sự kiện bảo hiểm. DNBH sau khi bồi thường sẽ thế quyền ng­ười đ­ược bảo hiểm để đòi tổ chức, cá nhân đó. Thế quyền là biện pháp mà luật pháp cho phép áp dụng nhằm tránh việc kiếm lời không hợp lý từ việc tham gia bảo hiểm.
▪ Ví dụ: Vụ cháy một tòa nhà văn phòng đã àm phát sinh trách nhiệm bồi thường của HĐBH TNDS của chủ sử dụng lao động (doanh nghiệp X) đối với người lao động (một số nhân viên của doanh nghiệp X bị thương trong vụ cháy).  Xác định được lỗi của vụ cháy thuộc về  một chủ xưởng hàn. Trong trường hợp này sau khi bồi thường cho doanh nghiệp X theo thỏa thuận của HĐBH trách nhiệm dân sự của chủ sử dụng lao động, DNBH sẽ thế quyền doanh nghiệp X để đòi chủ xưởng hàn một phần hoặc toàn bộ số tiền mà chủ xưởng hàn phải bồi thường theo quy định về trách nhiệm dân sự của pháp luật.
 

Một người có thể mua nhiều bảo hiểm không?
Câu hỏi:

Một đối tượng - trách nhiệm dân sự có thể được bảo hiểm đồng thời tại các DNBH khác nhau không? Bảo hiểm sẽ giải quyết bồi thường như thế nào trong trường hợp đó?

Trả lời:

Trả lời:   
-   Có thể xảy ra trường hợp trách nhiệm bồi thường của người được bảo hiểm đối với thiệt hại của bên thứ ba được bảo hiểm đồng thời bằng nhiều HĐBH trách nhiệm dân sự.
-   Nếu sự cố xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm của nhiều HĐBH, sẽ thực hiện việc chia sẻ trách nhiệm bồi th­ường. Việc chia sẻ trách nhiệm bồi thường có thể tuân theo điều khoản sẵn có trong các HĐBH hoặc các phương pháp khác và về nguyên tắc cơ bản là: tổng số tiền bồi thường của các hợp đồng không  lớn hơn số tiền bồi thường mà người được bảo hiểm phải trả cho bên thứ ba.      
▪ Ví dụ: Trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại của bên thứ ba của chủ thầu xây dựng được bảo hiểm bằng 2 HĐBH TNDS :
-         HĐBH thứ nhất có mức trách nhiệm đối với thiệt hại về tài sản là: 500.000.000 đồng / 1 sự cố
-         HĐBH thứ hai có mức trách nhiệm đối với thiệt hại về tài sản là: 100.000.000 đồng/ 1 sự cố
Nếu xảy ra sự cố thuộc phạm vi bảo hiểm của cả hai HĐBH và số tiền mà chủ thầu phải bồi thường đối với thiệt hại về tài sản cho bên thứ ba là: 60.000.000 đồng. Nếu trong các HĐBH không có điều khoản quy định về vấn đề này và với giả định chưa tính đến các điều khoản khác, như là mức khấu trừ thì các HĐBH có thể áp dụng cách thức chia sẻ số tiền bồi thường như sau:
-         HĐBH thứ nhất  đóng  góp bồi thường:
 
                                               500.000.000
                   60.000.000 đ   ----------------------------------   = 50.000.000 đ
                                          500.000.000 + 100.000.000
-         HĐBH thứ hai đóng  góp bồi thường:
                                              100.000.000
                  60.000.000 đ  x   ----------------------------------   = 10.000.000 đ
                                           500.000.000 + 100.000.000

Bảo hiểm có giới hạn và không giới hạn là gì?
Câu hỏi:

Thế nào là bảo hiểm có giới hạn và bảo hiểm không giới hạn trách nhiệm trong bảo hiểm TNDS ?

Trả lời:

Trả lời:   
- Trường hợp bảo hiểm không giới hạn trách nhiệm, HĐBH không đặt ra giới hạn về số tiền bồi thường của DNBH. Điều đó có nghĩa là DNBH cam kết bồi thường toàn bộ số tiền bồi thường mà người đ­ược bảo hiểm phải trả cho bên thứ ba.
▪ Ví dụ: HĐBH trách nhiệm của người vận chuyển hàng không đối với trách nhiệm bồi thường về thương vong của hành khách có thể được bảo hiểm không giới hạn, DNBH nhận trách nhiệm bồi thường toàn bộ số tiền mà hãng hàng không phải bồi thường cho hành khách bị thương vong trong các sự cố thuộc phạm vi bảo hiểm.
- Tr­ường hợp bảo hiểm có giới hạn trách nhiệm, HĐBH thỏa thuận xác định rõ số tiền bồi th­ường tối đa mà DNBH có thể phải chi trả trong một sự cố bảo hiểm hoặc cho cả thời hạn bảo hiểm. Giới hạn trách nhiệm đó được gọi là mức trách nhiệm, tổng mức trách nhiệm hoặc hạn mức bồi thường
▪ Ví dụ: Trong giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của một hãng cung cấp gas  có ghi giới hạn trách nhiệm:
○  Đối với thiệt hại về tài sản: 100.000 USD / vụ
○  Đối với thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con ng­ười: 10.000 USD/người/vụ; tối đa: 40.000 USD/ vụ
○  Mức miễn thường không khấu trừ đối với bồi thường về tài sản: 500 USD/ vụ               
Trong thời hạn bảo hiểm đã xảy ra 1 vụ nổ gây thiệt hại về tài sản và tính mạng, sức khoẻ của một số nạn nhân (bên thứ ba) và số tiền mà người được bảo hiểm, (hãng cung cấp gas) phải bồi thường nh­ư sau:

Tên nạn nhân
(bên thứ ba)
Số tiền bồi thường của NĐBH (USD)
Thiệt hại vê tài sản Thiệt hại vê sức khỏe
A 100.000 15.000
B 20.000 20.000
C 10.000 5.000
D - 10.000
E - 12.000
 
Số tiền bồi thường của DNBH(với giả định không phát sinh các chi phí liên quan khác) sẽ là:

Thiệt hại vê tài sản Thiệt hại vê sức khỏe
- Tổng số tiền bồi thường về tài sản trong vụ nổ là:
100.000 USD + 20.000 USD + 10.000 USD
                                             = 130.000 USD
 
- Số tiền bồi thường đối với từng nạn nhân nếu chỉ căn cứ vào mức trách nhiệm 10.000/ người :
+ Nạn nhân A:  10.000 USD
+ Nạn nhân B:  10.000 USD
+ Nạn nhân C:    5.000 USD
+ Nạn nhân D:  10.000 USD
+ Nạn nhân E:   10.000 USD
- Tổng số tiền bồi thường của người được bảo hiểm cho bên thứ ba lớn hơn mức miễn thường nên bảo hiểm sẽ bồi thường.
-  Tổng số tiền bồi thường của người được bảo hiểm cho bên thứ ba  lớn hơn giới hạn trách nhiệm 100.000 USD/vụ  nên bảo hiểm chỉ bồi thường 100.000 USD.
- Tổng số tiền bồi thường nếu chỉ căn cứ vào mức trách nhiệm/người là 45.000 USD, tuy nhiên giới hạn trách nhiệm cho một vụ chỉ là 40.000 USD nên bảo hiểm chỉ bồi thường 40.000 USD.
 
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là gì?
Câu hỏi:

Thế nào là trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ?

Trả lời:

Trả lời:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng đ­ược xác định dựa trên cơ sở các nghĩa vụ dân sự hình thành theo thoả thuận giữa các bên trong một hợp đồng. Bên có nghĩa vụ dân sự đã cam kết trong hợp đồng mà không thực hiện hoặc thực hiện khômg đúng nghĩa vụ đó sẽ phải bồi thường cho bên kia.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh trên cơ sở các nghĩa vụ dân sự do luật dân sự quy định cho các chủ thể. Hành vi gây hại không liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của bất kỳ hợp đồng nào. Việc xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên cơ sở quy định chung của luật dân sự.
▪ Ví dụ: xe tải chở hàng theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa giữa chủ xe tải và chủ hàng. Xảy ra sự cố trên đường do lỗi của chủ xe tải dẫn đến thiệt hại của hàng chuyên chở; thiệt hại về xe và người của một người đi xe máy. Trường hợp này đã phát sinh trách nhiệm của chủ xe tải ở cả 2 loại: trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa đối với thiệt hại của chủ hàng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với thiệt hại của người đi xe máy.

Đối tượng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự là gì?
Câu hỏi:

Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm trách nhiệm dân sự là gì? DNBH có bảo hiểm cho trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính không?

Trả lời:

Trả lời:
a) Đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm TNDS nói chung là TNDS - những hậu quả pháp lý mà luật dân sự quy định đối với trường hợp tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ dân sự nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự đó và vì thế phải chịu trách nhiệm đối với bên có quyền (tổ chức, cá nhân khác).
Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (bên có nghĩa vụ) phải  chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (bên có quyền). Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Trong các hậu quả pháp lý theo quy định về TNDS có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo điều 307, mục 3, chương XVII, Bộ Luật dân sự CHXHCN Việt nam, trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần:
-         Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.
-         Trách nhiệm bù đắp tổn thất về tinh thần: người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
Như vậy, đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm TNDS nếu nói cụ thể hơn chính là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người được bảo hiểm phát sinh theo quy định về TNDS của luật pháp.
b) Bảo hiểm trách nhiệm nhìn chung không bảo hiểm cho các loại trách nhiệm hình sự, trách nhiệm hành chính.
 

Đánh giá mức độ nguy hiểm của tai nạn giao thông
Câu hỏi:

Đánh giá mức độ nghiêm trọng của tai nạn giao thông và xử lý như thế nào?

Trả lời:

Hiện nay Cơ quan công an đã chia mức độ nghiêm trọng của tai nạn giao thông như sau:
-       Đặc biệt nghiêm trọng: tai nạn làm chết người với số lượng từ 3 người chở lên.
-       Rất nghiêm trọng: tai nạn làm chết người với số lượng từ 2 người thiệt hại tài sản trên 50 triệu đồng.
-       Nghiêm trọng: tai nạn làm chết người với số lượng 1 hoặc nhiền người bị thương tật với mức độ trên 30%, thiệt hại tài sản trên 50 triệu đồng.
-       Ít nghiêm trọng không gây chết người hoặc nạn nhân bị thương tật dưới 30%
-       Ngoài ra những vụ tai nạn gây thiệt hại dưới mức “ít nghiêm trọng” gọi là va chạm giao thông.
Tất cả các vụ tai nạn giao thông từ mức nghiêm trọng trở lên đều phải được cơ quan công an thụ lý hồ sơ giải quyết. Nếu tai nạn gây chết người thì cảnh sát điều tra tiếp tục xem xét lỗi vô ý hay có ý của lái xe để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Năm 2009 toàn quốc xảy ra 11.798 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 11.091 người bị thương 7.654 người thiệt hại tài sản 18.4 tỉ đồng. Ngoài ra còn có khoảng 55.000 vụ va chạm giao thông gây cho nhiều người bị thương tích nhẹ và thiệt hại nhiều về tài sản số liệu của cục (theo cục Cảnh sát giao thông)

Phí bảo hiểm bắt buộc là bao nhiêu?
Câu hỏi:

Phí bảo hiểm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới được tính như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:    
            Thông tư 126 quy định phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới được tính theo biểu phí bảo hiểm.
            Phí bảo hiểm quy định như sau:
 

Số TT Loại xe Phí bảo hiểm năm (đồng)  
 
I Mô tô 2 bánh:    
1 Từ 50 cc trở xuống 55.000  
2 Trên 50 cc 60.000  
II Xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự 265.000  
III Xe ô tô không kinh doanh vận tải    
1 Loại xe dưới 6 chỗ ngồi 345.000  
2 Loại xe từ 6 đến 11 chỗ ngồi 690.000  
3 Loại xe từ 12 đến 24 chỗ ngồi 1.104.000  
4 Loại xe trên 24 chỗ ngồi 1.587.000  
5 Xe vừa chở người vừa chở hàng (Pickup) 811.000  
IV Xe ô tô kinh doanh vận tải    
       
1 Dưới 6 chỗ ngồi theo đăng ký 630.000  
2 6 chỗ ngồi theo đăng ký 774.000  
3 7 chỗ ngồi theo đăng ký 900.000  
4 8 chỗ ngồi theo đăng ký 1.044.000  
5 9 chỗ ngồi theo đăng ký 1.170.000  
6 10 chỗ ngồi theo đăng ký 1.260.000  
7 11 chỗ ngồi theo đăng ký 1.380.000  
8 12 chỗ ngồi theo đăng ký 1.518.000  
9 13 chỗ ngồi theo đăng ký 1.639.000  
10 14 chỗ ngồi theo đăng ký 1.777.000  
11 15 chỗ ngồi theo đăng ký 1.915.000  
12 16 chỗ ngồi theo đăng ký 2.036.000  
13 17 chỗ ngồi theo đăng ký 2.174.000  
14 18 chỗ ngồi theo đăng ký 2.295.000  
15 19 chỗ ngồi theo đăng ký 2.433.000  
16 20 chỗ ngồi theo đăng ký 2.553.000  
17 21 chỗ ngồi theo đăng ký 2.691.000  
18 22 chỗ ngồi theo đăng ký 2.812.000  
19 23 chỗ ngồi theo đăng ký 2.950.000  
20 24 chỗ ngồi theo đăng ký 3.088.000  
21 25 chỗ ngồi theo đăng ký 3.209.000  
22 Trên 25 chỗ ngồi 3.209.000 + 30.000 x
(số chỗ ngồi - 25 chỗ)
 
V Xe ô tô chở hàng (xe tải)    
1 Dưới 3 tấn 656.000  
2 Từ 3 đến 8 tấn 1.277.000  
3 Từ 8 đến 15 tấn 1.760.000  
4 Trên 15 tấn 2.243.000  
  (Phí bảo hiểm trên đây chưa bao gồm 10% thuế Giá trị gia tăng)  
 
Phạm vi bồi thường bảo hiểm xe máy
Câu hỏi:

Hiện nay các chủ xe phải mua bảo hiểm bắt buộc TNDS với mức trách nhiệm là bao nhiêu?

Trả lời:
Trả lời
Mức trách nhiệm bảo hiểm  bắt buộc tối thiểu  quy định như sau:
1. Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về người do xe cơ giới gây ra là 50.000.000 đồng/1 người/1 vụ tai nạn.
2. Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe gắn máy và các loại xe cơ giới tương tự (kể cả xe cơ giới dùng cho người tàn tật) gây ra là 30.000.000 đồng/1 vụ tai nạn.
3. Mức trách nhiệm bảo hiểm đối với thiệt hại về tài sản do xe ô tô, máy kéo, xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phũng (kể cả rơ-moóc và sơ mi rơ-moóc được kéo bởi xe ô tô hoặc máy kéo) gây ra là 50.000.000 đồng/1 vụ tai nạn.
            Bên cạnh mức trách nhiệm tối thiểu đó các chủ xe cũng có thể tự nguyện thỏa thuận tham gia bảo hiểm với mức trách nhiệm cao hơn (mức trách nhiệm tự nguyện) mà các DNBH chủ động đưa ra để khách hàng lựa chọn.

Trách nhiệm khi tham gia giao thông
Câu hỏi:

Để đảm bảo quyền lợi bảo hiểm thì chủ xe, lái xe có trách nhiệm gì khi tham gia bảo hiểm bắt buộc TNDS Chủ xe cơ giới? Trường hợp Cơ quan Công an, chính quyền địa phương không có mặt tại nơi xảy ra tai nạn thì giải quyết như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
a)         Chủ xe, lái xe có các trách nhiệm sau:
1. Phải tham gia và đóng đầy đủ phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo quy định tại Thông tư 126 và các quy định của pháp luật có liên quan. Khi mua bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải cung cấp đầy đủ và trung thực những nội dung đã được quy định trong Giấy chứng nhận bảo hiểm.
2. Tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp bảo hiểm xem xét tình trạng xe trước khi cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm.
3. Trường hợp có sự thay đổi về mục đích sử dụng xe dẫn đến tăng hoặc giảm các rủi ro được bảo hiểm, chủ xe cơ giới phải kịp thời thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm để áp dụng mức phí bảo hiểm phù hợp cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.
4. Chủ xe cơ giới phải luôn mang theo Giấy chứng nhận bảo hiểm còn hiệu lực khi tham gia giao thông, xuất trình giấy tờ này khi có yêu cầu của lực lượng cảnh sát giao thông và cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật.
5. Tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn giao thông đường bộ.
6. Khi tai nạn giao thông xảy ra, chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm:
- Thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm để phối hợp giải quyết, tích cực cứu chữa, hạn chế thiệt hại về người và tài sản, bảo vệ hiện trường tai nạn; đồng thời thông báo cho cơ quan Công an hoặc chính quyền địa phương nơi gần nhất;
- Không được di chuyển, tháo gỡ hoặc sửa chữa tài sản khi chưa có ý kiến chấp thuận của doanh nghiệp bảo hiểm; trừ trường hợp cần thiết để đảm bảo an toàn, đề phòng hạn chế thiệt hại về người và tài sản hoặc phải thi hành theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
- Cung cấp các tài liệu trong Hồ sơ bồi thường liên quan đến xe, lái xe (bản sao có xác nhận của doanh nghiệp bảo hiểm sau khi đã đối chiếu với bản chính), tài liệu chứng minh thiệt hại về người (bản sao của các cơ sở y tế hoặc bản sao có xác nhận của doanh nghiệp bảo hiểm) và tài liệu chứng minh thiệt hại về tài sản, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình xác minh các tài liệu đó.
7. Chủ xe cơ giới phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm  trong trường hợp xe cơ giới thuộc đối tượng được hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm.
8. Thông báo và trả tiền bồi thường cho người bị tai nạn số tiền họ được doanh nghiệp bảo hiểm trả đối với từng trường hợp thiệt hại về người theo đúng mức tiền quy định tại Phụ lục 6 Thông tư 126.
9. Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.
Chủ xe cơ giới và/hoặc lái xe cơ giới không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm quy định trên thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bồi thường tương ứng với thiệt hại do lỗi của chủ xe cơ giới và /hoặc lái xe cơ giới gây ra.
b)        Trường hợp cơ quan công an, chính quyền địa phương không có mặt tại nơi xảy ra tai nạn thì chủ xe cơ giới hoặc lái xe thông báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm được biết và thực hiện các công việc theo sự chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm mà không nhận được thông tin liên lạc thì chủ xe cơ giới, lái xe cần xin xác nhận của ít nhất 2 nhân chứng có mặt tại hiện trường nơi xảy ra tai nạn hoặc là người địa phương nơi xảy ra tai nạn về tình trạng, mức độ, thời gian, địa điểm, nguyên nhân xảy ra tai nạn, mô phỏng hiện trường hoặc chụp ảnh hiện trường bằng điện thoại di động. Những tài liệu này được chuyển cho doanh nghiệp bảo hiểm làm căn cứ quy định tổn thất và giải quyết bồi thường.
 

Trách nhiệm của Doanh nghiệp bảo hiểm?
Câu hỏi:

Trách nhiệm của DNBH khi bán bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ giới ?

Trả lời:

Trả lời:
Trách nhiệm của DNBH gồm có:
1. Phải bán bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo đúng Quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm bảo hiểm theo quy định tại Thông tư 126. Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhận được thông báo của chủ xe cơ giới về sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số tiền chênh lệch cho chủ xe cơ giới.
2. Phải tổ chức tuyên truyền rộng rãi về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm và giải thích rõ Quy tắc, điều khoản và biểu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cho chủ xe cơ giới.
3. Phải sử dụng mẫu Giấy chứng nhận bảo hiểm theo quy định của Bộ Tài chính để cấp cho chủ xe cơ giới.
4. Không được chi hỗ trợ đại lý bán bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới dưới mọi hình thức ngoài mức hoa hồng bảo hiểm đại lý được hưởng theo quy định của Bộ Tài chính.
5. Không được khuyến mại dưới mọi hình thức đối với bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
6. Thanh toán cho cơ quan Công an chi phí sao chụp những hồ sơ, biên bản tai nạn đã được cung cấp và có trách nhiệm giữ gìn bí mật trong quá trình điều tra.
7. Thu thập các tài liệu trong Hồ sơ bồi thường chứng minh thiệt hại về tài sản (trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện sửa chữa, khắc phục thiệt hại) và bản sao các tài liệu liên quan của cơ quan có thẩm quyền về vụ tai nạn.
8. Thông báo cho người bị tai nạn, chủ xe cơ giới biết số tiền bồi thường thiệt hại về người và thanh toán số tiền bồi thường theo đúng mức quy định.
9. Chi trả bồi thường nhanh chóng và chính xác theo quy định của Thông tư 126 và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
10 Trong vòng 15 ngày trước khi hết thời hạn bảo hiểm phải thông báo cho chủ xe cơ giới về việc hết thời hạn của hợp đồng bảo hiểm.
11. Trích tối thiểu 2% doanh thu phí bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới hàng năm đóng vào Quỹ bảo hiểm xe cơ giới. Mức đóng góp hàng năm theo quy định của Bộ Tài chính.
12. Phải hạch toán tách biệt doanh thu phí bảo hiểm, hoa hồng, bồi thường và các khoản chi phí khác liên quan đến bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
13. Xây dựng và vận hành hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo việc thống kê và cập nhật tình hình triển khai bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đảm bảo kết nối vào cơ sở dữ liệu về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
14. Báo cáo Bộ Tài chính về tình hình thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới theo định kỳ hoặc khi có yêu cầu.
15. Chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
16. Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

Các loại bảo hiểm đối với xe cơ giới
Câu hỏi:

Các chủ xe cần phải mua loại bảo hiểm TNDS nào, loại nào là bắt buộc?

Trả lời:
   
            Theo Thông tư 126/2008/TT-BTC, chủ xe cơ giới tham gia giao thông trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tham gia bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với phạm vi bồi thường thiệt hại gồm:
- Thiệt hại về thân thể, tính mạng và tài sản đối với bên thứ ba do xe cơ giới gây ra;
- Thiệt hại về thân thể và tính mạng của hành khách theo hợp đồng vận chuyển hành khách do xe cơ giới gây ra.
            Ngoài ra, chủ xe có thể mua bảo hiểm theo hình thức bảo hiểm với các sản phẩm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá vận chuyển; bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe (không phải là hành khách) và lái, phụ xe hoặc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với mức trách nhiệm cao hơn, rủi ro được bảo hiểm và loại trừ bảo hiểm khác với quy định của Thông tư 126.

Bồi thường thiệt hại do xe cơ giới gây ra
Câu hỏi:

Tại sao chủ xe cơ giới phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị tai nạn giao thông do xe cơ giới của mình gây ra theo mức độ lỗi của lái xe?

Trả lời:

Trả lời:
            Chủ xe cơ giới có nghĩa vụ đảm bảo an toàn cho xe của mình tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật hiện hành (hệ thống đèn, gương, còi, phanh, lốp...)
            Đồng thời chủ xe có nghĩa vụ tuyển dụng, giao việc cho lái xe có đủ bằng cấp chuyên môn, đảm bảo đủ sức khoẻ trong suốt hành trình (không mệt mỏi, căng thẳng, ngủ gật, tác hại của chất kích thích...).
            Khi tai nạn giao thông do xe của chủ xe gây ra, ít nhiều phía xe gây tai nạn có lỗi như sau:
-           Bản thân chiếc xe gây tai nạn không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật đảm bản an toàn giao thông.
-           Bản thân lái xe gây tai nạn có ít nhiều lỗi vi phạm luật lệ an toàn giao thông  (phóng nhanh, vượt ẩu, lấn đường, không kịp phanh, ngủ gật...).
            Vì vậy, chủ xe cơ giới phải bồi thường thiệt hại cho người bị tai nạn giao thông do xe cơ giới của chủ xe gây nên.
            Trường hợp lái xe gây tai nạn nghiêm trọng sẽ được cơ quan có thẩm quyền tiếp tục điều tra (có lỗi đây là lỗi vô ý hay lỗi cố ý để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự, không phải bồi thường trách nhiệm dân sự).
            Đặc biệt, Bộ luật dân sự  còn quy định xe cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ (là cỗ máy chứa nhiều khả năng trục trặc kỹ thuật lưu thông trên đường với tốc độ cao) nên chủ xe phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi mình không có lỗi.

Xe cơ giới có phải nguồn nguy hiểm cao độ
Câu hỏi:

Xe cơ giới có phải nguồn nguy hiểm cao độ không? Trách nhiệm của chủ xe như thế nào?

Trả lời:
Trả lời:
            Điều 623 Bộ luật dân sự quy định phương tiện giao thông vận tải cơ giới là nguồn nguy hiểm cao độ. Chủ sở hữu phương tiện giao thông vận tải phải bồi thường thiệt hại do phương tiện giao thông vận tải gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng phương tiện giao thông vận tải phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
-           Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
-           Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết.
            Trong trường hợp phương tiện giao thông vận tải bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng phương tiện giao thông vận tải cũng có lỗi trong việc để phương tiện giao thông vận tải bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.

Chi phí khi công chứng
Câu hỏi:

Khi yêu cầu công chứng, các chi phí khác được tính sẽ phát sinh trong trường hợp nào?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 68 Luật công chứng quy định như sau:
1. Trường hợp người yêu cầu công chứng đề nghị xác minh, giám định hoặc thực hiện công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng thì người yêu cầu công chứng phải trả chi phí để thực hiện việc đó.
Mức chi phí do người yêu cầu công chứng và tổ chức hành nghề công chứng thỏa thuận. Tổ chức hành nghề công chứng không được thu chi phí cao hơn mức chi phí đã thỏa thuận.
2. Tổ chức hành nghề công chứng phải niêm yết rõ nguyên tắc tính chi phí khác và có trách nhiệm giải thích rõ cho người yêu cầu công chứng về các chi phí cụ thể đó.

Công chứng tại cơ quan đại diện như thế nào?
Câu hỏi:

Ông A là công dân Việt Nam, hiện đang cư trú tại Úc. Ông A hỏi, ông có thể đến cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài để công chứng hợp đồng, giao dịch với người Việt Nam cũng ở nước ngoài không?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 78 Luật công chứng quy định như sau:
1. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài được công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản, văn bản ủy quyền và các hợp đồng, giao dịch khác theo quy định của Luật này và pháp luật về lãnh sự, ngoại giao, trừ hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn bằng bất động sản tại Việt Nam.
2. Viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao được giao thực hiện công chứng phải có bằng cử nhân luật hoặc được bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng.
3. Viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao thực hiện công chứng theo thủ tục chung về công chứng theo quy định của Luật công chứng và có các quyền: Được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật công chứng; đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện việc công chứng; được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội. Đồng thời viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao thực hiện công chứng có các nghĩa vụ sau: Tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng; tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng; giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng; giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.
Như vậy, ông A có thể đến cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài để công chứng các hợp đồng, giao dịch trừ hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn bằng bất động sản tại Việt Nam.

Xử phạt khi giả mạo chữ ký người khác
Câu hỏi:

Do có tính ham cờ bạc và đang nợ một khoản tiền nên ông K đã giả mạo chữ ký của vợ để ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để công chứng hợp đồng chuyển nhượng giá trị quyền sử dụng đất cho ông B. Hỏi trong trường hợp này ông K bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 75 Luật công chứng quy định về xử lý vi phạm đối với người yêu cầu công chứng cụ thể như sau:
Người yêu cầu công chứng có hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo, sửa chữa, tẩy xóa giấy tờ, văn bản trái pháp luật hoặc có hành vi gian dối khác khi yêu cầu công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào quy định trên và Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vị phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì hành vi của ông A là gian dối, không trung thực khi yêu cầu công chứng, theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 12 của Nghị định này thì hành vi của ông A bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 1.000.000 ðồng ðến 3.000.000 ðồng. 

Phí khi lưu giữ di chúc đã công chứng
Câu hỏi:

Ngay sau khi thực hiện công chứng bản di chúc, tôi muốn nhờ Phòng công chứng lưu giữ bản di chúc này. Phòng công chứng cho biết tôi phải trả phí cho việc lưu giữ bản di chúc này. Xin hỏi, điều này có đúng không và pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?

Trả lời:

Trả lời:
Việc bạn yêu cầu phòng công chứng lưu giữ di chúc được thực hiện theo quy định tại Điều 60 Luật công chứng về nhận lưu giữ di chúc, khi phòng công chứng thực hiện yêu cầu nhận lưu giữ di chúc của bạn thì bạn phải nộp một khoản “phí công chứng” theo quy định tại Điều 66 Luật công chứng, cụ thể như sau:
1. Phí công chứng bao gồm phí công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch, phí lưu giữ di chúc, phí cấp bản sao văn bản công chứng.
Người yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch, lưu giữ di chúc, cấp bản sao văn bản công chứng phải nộp phí công chứng.
2. Mức thu, chế độ thu, nộp, sử dụng và quản lý phí công chứng được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Như vậy, việc Phòng công chứng yêu cầu ông/bà phải trả phí cho việc lưu giữ bản di chúc là đúng.

Giải quyết hồ sơ khi văn phòng công giải thế?
Câu hỏi:

Trong trường hợp tổ chức hành nghề công chứng bị giải thể hoặc chấm dứt hoạt động thì việc giải quyết hồ sơ công chứng được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 64 Luật công chứng thì kho tổ chức hành nghề công chứng chuyển đổi, giải thể, chấm dứt hoạt động, hồ sơ công chứng phải được chuyển cho một Phòng hoặc Văn phòng công chứng khác đang hoạt động.
Cụ thể:
- Trường hợp Phòng công chứng được chuyển đổi thành Văn phòng công chứng thì hồ sơ công chứng do Văn phòng công chứng được chuyển đổi quản lý.
- Trường hợp Phòng công chứng bị giải thể thì hồ sơ công chứng phải được chuyển cho một Phòng công chứng khác hoặc một Văn phòng công chứng do Sở Tư pháp chỉ định.
- Trường hợp Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động thì Văn phòng công chứng đó phải thỏa thuận với một Văn phòng công chứng khác về việc tiếp nhận hồ sơ công chứng; nếu không thỏa thuận được hoặc Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động do toàn bộ công chứng viên hợp danh chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì Sở Tư pháp chỉ định một Phòng công chứng hoặc một Vãn phòng công chứng khác tiếp nhận hồ sơ công chứng.
Ngoài ra, Khoản 2 Điều 31 Luật công chứng còn quy định trường hợp Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động do bị hợp nhất, sáp nhập thì quyền, nghĩa vụ của Văn phòng công chứng do Văn phòng công chứng được hợp nhất hoặc Văn phòng công chứng nhận sáp nhập tiếp tục thực hiện. Như vậy, hồ sơ công chứng sẽ được chuyển cho Văn pḥng công chứng được hợp nhất hoặc Văn phòng công chứng nhận sáp nhập.

Có được xin bản sao khi công chứng?
Câu hỏi:

Trong quá trình chuyển nhà, ông D bị mất một bản hợp đồng đã được công chứng, nay ông muốn xin bản sao hợp đồng từ Văn phòng công chứng có được không?

Trả lời:

          Trả lời:
          Việc cấp bản sao văn bản công chứng được quy định tại Điều 65 Luật công chứng. Theo đó, việc cấp bản sao văn bản công chứng được thực hiện trong các trường hợp:
- Theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản công chứng và các giấy tờ khác có liên quan. Việc đối chiếu bản sao văn bản công chứng với bản chính chỉ được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ công chứng.
- Theo yêu cầu của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng.
Việc cấp bản sao văn bản công chứng do tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ bản chính văn bản công chứng đó thực hiện.
Như vậy, ông D có quyền đến tổ chức hành nghề công chứng đang lưu giữ bản chính của hợp đồng đã công chứng để đề nghị cấp bản sao.
Từ chối nhận di sản như thế nào
Câu hỏi:

Bà M có 03 người con, trong đó chị O là con cả đang định cư ở nước ngoài. Khi bà M mất, chị O đã nói với hai em là mình không nhận di sản của mẹ và để lại cho hai em. Có người nói rằng việc từ chối nhận di sản của chị O phải công chứng. Xin hỏi pháp luật quy định vấn đề này như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Việc từ chối nhận di sản thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự tại Điều 642, theo đó, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.
          Đồng thời Điều 59 Luật công chứng quy định việc công chứng văn bản từ chối nhận di sản: Người thừa kế có thể yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản. Khi yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận di sản, người yêu cầu công chứng phải xuất trình bản sao di chúc trong trường hợp thừa kế theo di chúc hoặc giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người yêu cầu công chứng theo pháp luật về thừa kế; giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác chứng minh người để lại di sản đã chết.
          Căn cứ vào các điều luật trên thì việc từ chối nhận di sản của chị O phải lập thành văn bản. Pháp luật không quy định phải công chứng văn bản từ chối nhận di sản, việc có công chứng hay không công chứng văn bản từ chối nhận di sản do người từ chối thừa kế quyết định. Tuy nhiên, người này có nghĩa vụ (bắt buộc) phải thông báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.

Công chứng văn bản phân chia thừa kế như thế nào
Câu hỏi:

Đề nghị cho biết việc công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản được quy định tại Điều 57 Luật công chứng như sau:
1. Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản.
Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ hoặc một phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế khác.
2. Trường hợp di sản là quyền sử dụng đất hoặc tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản của người để lại di sản đó.
Trường hợp thừa kế theo pháp luật, thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp thừa kế theo di chúc, trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có bản sao di chúc.
3. Công chứng viên phải kiểm tra để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản; nếu thấy chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng pháp luật thì từ chối yêu cầu công chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định.
Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản trước khi thực hiện việc công chứng.
4. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản.
 
Trường hợp từ chối công chứng di chúc
Câu hỏi:

Anh N là con trai bà Y chở bà đến phòng công chứng để công chứng di chúc của bà. Thấy thái độ của bà Y rất sợ sệt có biểu hiện bị cưỡng ép, công chứng viên đã từ chối công chứng. Xin hỏi việc từ chối này có đúng không?

Trả lời:

Trả lời:
Công chứng viên có quyền từ chối công chứng di chúc trong các trường hợp quy định tại Điều 56 Luật công chứng.
Điều 56 Luật công chứng quy định người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác yêu cầu công chứng di chúc.
Trường hợp công chứng viên nghi ngờ người lập di chúc bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình hoặc có căn cứ cho rằng việc lập di chúc có dấu hiệu bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép thì công chứng viên đề nghị người lập di chúc làm rõ, trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối công chứng di chúc đó.
Trong trường hợp của bà Y, công chứng viên cần hỏi riêng bà Y (không có mặt của anh N) về nội dung di chúc có phải là ý chí cá nhân của bà Y không, bà có bị ai đe dọa hoặc cưỡng ép không. Nếu bà Y không trả lời hoặc trả lời chung chung, không rõ vấn đề thì công chứng viên từ chối công chứng.

Công chứng ngoài trụ sở như thế nào
Câu hỏi:

Do bị tai nạn giao thông, tôi bị giảm 70% sức khỏe và không đi lại được. Nay tôi muốn chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho ông M, nhưng không thể đến Văn phòng công chứng được. Ông M có nói rằng ông sẽ mời công chứng viên về tận nhà tôi để công chứng hợp đồng chuyển nhượng này. Xin hỏi, công chứng viên có đến nhà tôi theo lời mời của ông M không?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 44 Luật công chứng quy định việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Khoản 2 Điều 44 quy định: Việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng trong trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.
Như vậy, vì ông/bà không thể đến tổ chức hành nghề công chứng để công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên theo lời mời của ông M thì công chứng viên có thể đến nhà ông/bà để thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch của ông/bà.

Không được công chứng hợp đồng chuyển nhượng khác tỉnh
Câu hỏi:

Tôi có nhận chuyển nhượng 300m2 quyền sử dụng đất tại thị trấn Bần tỉnh Hưng Yên của ông Q. Vì tôi sống ở Hà Nội nên có đề nghị một Văn phòng công chứng ở Hà Nội công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này. Tuy nhiên công chứng viên ở Văn phòng công chứng ở Hà Nội đã từ chối công chứng cho tôi và hướng dẫn tôi đến Văn phòng công chứng ở Hưng Yên. Xin hỏi, vì sao Văn phòng công chứng ở Hà Nội này lại từ chối công chứng hợp ðồng chuyển nhýợng quyền sử dụng ðất của tôi?

Trả lời:

          Trả lời:
Việc Văn phòng công chứng ở Hà Nội này lại từ chối công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thị trấn Bần tỉnh Hưng Yên giữa ông/bà với ông Q là thực hiện theo quy định tại Điều 42 Luật công chứng.
Theo đó, Điều 42 quy định: Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản.
Quy định này nhằm bảo đảm quyền lợi của người yêu cầu công chứng, tránh tình trạng bất động sản đã được thế chấp, cầm cố hoặc chuyển nhượng cho một người, nay lại tiếp tục mang ra cầm cố, thế chấp hoặc chuyển nhượng cho người khác. 

Nhờ văn phòng công chứng soạn di chúc?
Câu hỏi:

Tôi muốn lập di chúc, do đã già yếu nên không soạn thảo được bản di chúc, nay tôi nhờ phòng công chứng soạn thảo bản di chúc theo ý tôi và công chứng bản di chúc đó có được không?

Trả lời:

          Trả lời:
          Đề nghị của ông/bà hoàn toàn được chấp nhận. Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng thực hiện soạn thảo hợp đồng, giao dịch theo đề nghị của người yêu cầu công chứng theo quy định tại Điều 41 Luật công chứng.
Cụ thể,
Người yêu cầu công chứng nộp một bộ hồ sơ gồm: Phiếu yêu cầu công chứng; bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng; bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng; bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có và nêu nội dung, ý định giao kết hợp đồng, giao dịch.
Công chứng viên thực hiện các việc quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 40 của Luật này.
Trường hợp nội dung, ý định giao kết hợp đồng, giao dịch là xác thực, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội thì công chứng viên soạn thảo hợp đồng, giao dịch.
Người yêu cầu công chứng tự đọc dự thảo hợp đồng, giao dịch hoặc công chứng viên đọc cho người yêu cầu công chứng nghe. Trường hợp người yêu cầu công chứng đồng ý toàn bộ nội dung trong dự thảo hợp đồng, giao dịch thì ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên yêu cầu người yêu cầu công chứng xuất trình bản chính của các giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này để đối chiếu trước khi ghi lời chứng, ký vào từng trang của hợp đồng, giao dịch.
Nghĩa vụ của văn phòng công chứng
Câu hỏi:

Xin hỏi, tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Trả lời:
Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng được quy định tại Điều 33 Luật Công chứng gồm:
- Quản lý công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình trong việc tuân thủ pháp luật và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
- Chấp hành quy định của pháp luật về lao động, thuế, tài chính, thống kê.
- Thực hiện chế độ làm việc theo ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước.
- Niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, nội quy tiếp người yêu cầu công chứng, phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác tại trụ sở của tổ chức mình.
- Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình và bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 38 của Luật công chứng.
- Tiếp nhận, tạo điều kiện thuận lợi và quản lý người tập sự hành nghề công chứng trong quá trình tập sự tại tổ chức mình.
- Tạo điều kiện cho công chứng viên của tổ chức mình tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hằng năm.
- Thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc báo cáo, kiểm tra, thanh tra, cung cấp thông tin về hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã công chứng.
- Lập sổ công chứng và lưu trữ hồ sơ công chứng.
- Chia sẻ thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin khác về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch do công chứng viên của tổ chức mình thực hiện công chứng để đưa vào cơ sở dữ liệu công chứng.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Công chứng ngoài giờ làm việc
Câu hỏi:

Tôi định công chứng hợp đồng tặng cho quyền sở hữu nhà cho cháu tôi, tuy nhiên vào giờ hành chính thì tôi phải đi làm còn cháu tôi thì đi học. Xin hỏi các văn phòng công chứng có làm việc vào buổi tối hoặc thứ bảy, chủ nhật không?

Trả lời:

          Trả lời:

          Theo quy định tại Khoản 3 Điều 32 Luật công chứng thì tổ chức hành nghề được quyền “Cung cấp dịch vụ công chứng ngoài ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước để đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân”.

          Như vậy, pháp luật cho phép các tổ chức hành nghề công chứng được làm việc ngoài ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, ông/bà cần liên hệ với văn phòng công chứng cụ thể để biết lịch làm việc của văn phòng đó hoặc đặt lịch giao dịch với văn phòng công chứng để làm thủ tục công chứng hợp đồng tặng cho quyền sở hữu nhà của ông/bà.

          Ngoài ra, tổ chức hành nghề công chứng quyền còn có các quyền quy định tại Điều 32 như sau:

- Ký hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động với công chứng viên và các nhân viên làm việc cho tổ chức mình.

- Thu phí công chứng, thù lao công chứng, chi phí khác.

- Được khai thác, sử dụng thông tin từ cơ sở dữ liệu công chứng.

- Các quyền khác theo quy định của Luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Thủ tục chấm dứt hoạt động văn phòng công chứng
Câu hỏi:

Đề nghị cho biết, khi chấm dứt hoạt động, Văn phòng công chứng phải thực hiện những thủ tục gì, thông báo cho cơ quan nào?

Trả lời:

          Trả lời:
          Thủ tục chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng được quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 31 Luật công chứng.
          - Đối với trường hợp tự chấm dứt hoạt động thì chậm nhất là 30 ngày trước thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động, Văn phòng công chứng phải có báo cáo bằng văn bản gửi Sở Tư pháp nơi đã đăng ký hoạt động. Trước thời điểm chấm dứt hoạt động, Văn phòng công chứng có nghĩa vụ nộp đủ số thuế còn nợ, thanh toán các khoản nợ khác, làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với công chứng viên, nhân viên của tổ chức mình, thực hiện các yêu cầu công chứng đã tiếp nhận. Trường hợp không thể thực hiện xong các yêu cầu công chứng đã tiếp nhận thì phải thỏa thuận với người yêu cầu công chứng về việc thực hiện các yêu cầu đó.
Văn phòng công chứng có nghĩa vụ đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi đã đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động. Sở Tư pháp có trách nhiệm thu hồi giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng, báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thu hồi quyết định cho phép thành lập và thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng với cơ quan thuế, cơ quan thống kê, cơ quan công an cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi Văn phòng công chứng đặt trụ sở.
- Đối với trường hợp sáp nhập, hợp nhất thì quyền, nghĩa vụ của Văn phòng công chứng do Văn phòng công chứng được hợp nhất hoặc Văn phòng công chứng nhận sáp nhập tiếp tục thực hiện.
- Đối với trường hợp Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động do bị thu hồi quyết định cho phép thành lập thì trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày có quyết định thu hồi quyết định cho phép thành lập, Sở Tư pháp có trách nhiệm thu hồi giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng, thông báo bằng văn bản với cơ quan thuế, thống kê, công an cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, đồng thời đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi Văn phòng công chứng đã đăng ký hoạt động trong ba số liên tiếp về việc chấm dứt hoạt động của Văn phòng công chứng đó.
          Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày bị thu hồi quyết định cho phép thành lập, Văn phòng công chứng có nghĩa vụ nộp đủ số thuế còn nợ, thanh toán xong các khoản nợ khác, làm thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với công chứng viên, nhân viên của tổ chức mình; đối với yêu cầu công chứng đã tiếp nhận mà chưa công chứng thì phải trả lại hồ sơ yêu cầu công chứng cho người yêu cầu công chứng. Hết thời hạn này mà Văn phòng công chứng chưa hoàn thành xong các nghĩa vụ về tài sản hoặc trường hợp Văn phòng công chứng chấm dứt hoạt động do bị thu hồi quyết định cho phép thành lập vì toàn bộ công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì tài sản của Văn phòng công chứng, của công chứng viên hợp danh được sử dụng để thanh toán các khoản nợ của Văn phòng công chứng theo quy định của pháp luật về dân sự.
Thủ tục thành lập văn phòng công chứng
Câu hỏi:

Chúng tôi là những công chứng viên đang có nguyện vọng thành lập Văn phòng công chứng. Xin hỏi, Luật công chứng quy định về thành lập và đăng ký hoạt động Văn phòng công chứng như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 23 Luật công chứng quy định về thành lập và đăng ký hoạt động Văn phòng công chứng như sau:
1. Các công chứng viên thành lập Văn phòng công chứng phải có hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gồm đơn đề nghị thành lập và đề án thành lập Văn phòng công chứng, trong đó nêu rõ sự cần thiết thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện; bản sao quyết định bổ nhiệm công chứng viên tham gia thành lập Văn phòng công chứng.
2. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được quyết định cho phép thành lập, Văn phòng công chứng phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi đã ra quyết định cho phép thành lập.
Nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng bao gồm tên gọi của Văn phòng công chứng, họ tên Trưởng Văn phòng công chứng, địa chỉ trụ sở của Văn phòng công chứng, danh sách công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và danh sách công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng của Văn phòng công chứng (nếu có).
4. Hồ sơ đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng gồm đơn đăng ký hoạt động, giấy tờ chứng minh về trụ sở của Văn phòng công chứng phù hợp với nội dung đã nêu trong đề án thành lập và hồ sơ đăng ký hành nghề của các công chứng viên hợp danh, công chứng viên làm việc theo chế độ hợp đồng lao động tại Văn phòng công chứng (nếu có).
Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đăng ký hoạt động, Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng; trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
5. Văn phòng công chứng được hoạt động công chứng kể từ ngày Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động.

Trình tự giải thể văn phòng công chứng
Câu hỏi:

Đề nghị cho biết trong trường hợp nào thì chuyển đổi, giải thể Phòng công chứng. Yêu cầu, trình tự, thủ tục giải thể được Luật công chứng quy định như thế nào?

Trả lời:
 Trả lời:
 Điều 21 Luật công chứng quy định về chuyển đổi, giải thể Phòng công chứng như sau:
1. Trong trường hợp không cần thiết duy trì Phòng công chứng thì Sở Tư pháp lập đề án chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Chính phủ quy định chi tiết việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng.
2. Yêu cầu, trình tự, thủ tục giải thể Phòng công chứng
Trường hợp không có khả năng chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng thì Sở Tư pháp lập đề án giải thể Phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Phòng công chứng chỉ được giải thể sau khi thanh toán xong các khoản nợ, làm xong thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với người lao động, thực hiện xong các yêu cầu công chứng đã tiếp nhận.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giải thể Phòng công chứng, Sở Tư pháp phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi có trụ sở của Phòng công chứng trong ba số liên tiếp về việc giải thể Phòng công chứng.
 

Nguyên tắc thành lập văn phòng công chứng
Câu hỏi:

Luật công chứng quy định về nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng như thế nào?Tôi thấy thời gian vừa qua ở thành phố nơi tôi cư trú có nhiều Phòng công chứng được thành lập, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản. Đề nghị cho biết, Luật công chứng quy định về việc thành lập Phòng công chứng được quy định như thế nào?

Trả lời:
Trả lời:
Điều 18 Luật công chứng quy định về nguyên tắc thành lập tổ chức hành nghề công chứng như sau:
1. Việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải tuân theo quy định của Luật này và phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2. Phòng công chứng chỉ được thành lập mới tại những địa bàn chưa có điều kiện phát triển được Văn phòng công chứng.
3. Văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ.
 

 Quy định về việc thành lập Phòng công chứng 

Điều 20 Luật công chứng năm 2014 quy định về thành lập Phòng công chứng như sau:
1. Căn cứ vào nhu cầu công chứng tại địa phương, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Đề án nêu rõ sự cần thiết thành lập Phòng công chứng, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện.
2. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thành lập Phòng công chứng, Sở Tư pháp phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi có trụ sở của Phòng công chứng trong ba số liên tiếp về các nội dung sau đây:
a) Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Phòng công chứng;
b) Số, ngày, tháng, năm ra quyết định thành lập và ngày bắt đầu hoạt động của Phòng công chứng.
3. Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thay đổi tên gọi hoặc địa chỉ trụ sở của Phòng công chứng thì Sở Tư pháp phải đăng báo những nội dung thay đổi đó theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật công chứng năm 2014.

Công chứng viên có quyền và nghĩa vụ gì?
Câu hỏi:

Tôi được biết nhằm nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, Luật công chứng năm 2014 bổ sung một số quyền và nghĩa vụ mới so với Luật công chứng năm 20016. Đề nghị cho biết, theo Luật công chứng, công chứng viên có các quyền và nghĩa vụ gì?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 17 Luật công chứng quy định công chứng viên có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
1. Công chứng viên có các quyền sau đây:
- Được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng;
- Tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng;
- Được công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này;
- Đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện việc công chứng;
- Được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội;
- Các quyền khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
2. Công chứng viên có các nghĩa vụ sau đây:
- Tuân thủ các nguyên tắc hành nghề công chứng;
- Hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng;
- Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng;
- Giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng;
- Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác;
- Tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm;
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh;
- Tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên;
- Chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ chức hành nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
 

Quy định về bổ nhiệm lại công chứng viên
Câu hỏi:

Luật công chứng quy định về bổ nhiệm lại công chứng viên như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 16 Luật công chứng quy định về bổ nhiệm lại công chứng viên như sau:
1. Người được miễn nhiệm công chứng viên được xem xét bổ nhiệm lại công chứng viên khi có đề nghị bổ nhiệm lại.
2. Người bị miễn nhiệm công chứng viên được xem xét bổ nhiệm lại công chứng viên khi đáp ứng đủ tiêu chuẩn công chứng viên quy định tại Điều 8 của Luật này và lý do miễn nhiệm không còn, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Người bị miễn nhiệm công chứng viên do bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về tội phạm do cố ý, bị xử phạt vi phạm hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề công chứng mà còn tiếp tục vi phạm, bị xử lý kỷ luật bằng hình thức từ cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc thì không được bổ nhiệm lại công chứng viên.
4. Thủ tục bổ nhiệm lại công chứng viên được thực hiện như đối với bổ nhiệm công chứng viên. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm lại công chứng viên gồm:
- Đơn đề nghị bổ nhiệm lại công chứng viên theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định;
- Phiếu lý lịch tư pháp;
- Giấy chứng nhận sức khỏe do cơ quan y tế có thẩm quyền cấp;
- Bản sao quyết định miễn nhiệm công chứng viên;
- Bản sao các giấy tờ chứng minh lý do miễn nhiệm không còn, trừ trường hợp người được miễn nhiệm công chứng viên được xem xét bổ nhiệm lại.

Miễn nhiệm công chứng viên như thế nào
Câu hỏi:

Đề nghị cho biết Luật công chứng quy định về miễn nhiệm công chứng viên như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 15 Luật công chứng quy định việc miễn nhiệm công chứng viên như sau:
1. Công chứng viên được miễn nhiệm theo nguyện vọng của cá nhân hoặc chuyển làm công việc khác.
Công chứng viên nộp đơn đề nghị miễn nhiệm tại Sở Tư pháp ở nơi mình đăng ký hành nghề. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị miễn nhiệm của công chứng viên, Sở Tư pháp có văn bản đề nghị kèm theo đơn đề nghị miễn nhiệm của công chứng viên gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
2. Công chứng viên bị miễn nhiệm trong các trường hợp sau đây:
- Không còn đủ tiêu chuẩn công chứng viên theo quy định tại Điều 8 của Luật công chứng năm 2014;
- Bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác;
- Không hành nghề công chứng trong thời hạn 02 năm kể từ ngày được bổ nhiệm công chứng viên hoặc không hành nghề công chứng liên tục từ 12 tháng trở lên;
- Hết thời hạn tạm đình chỉ hành nghề công chứng mà lý do tạm đình chỉ hành nghề công chứng vẫn còn;
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề công chứng mà còn tiếp tục vi phạm; bị xử lý kỷ luật bằng hình thức từ cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc;
- Bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án;
- Thuộc các trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên quy định tại Điều 13 của Luật công chứng tại thời điểm được bổ nhiệm.
3. Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát, kiểm tra việc bảo đảm tiêu chuẩn hành nghề của công chứng viên tại địa phương mình. Khi có căn cứ cho rằng công chứng viên thuộc trường hợp bị miễn nhiệm, Sở Tư pháp có văn bản đề nghị miễn nhiệm công chứng viên kèm theo các tài liệu liên quan làm căn cứ cho việc đề nghị miễn nhiệm gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị miễn nhiệm công chứng viên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định việc miễn nhiệm công chứng viên.

Diện tích tách thửa đất quận 2
Câu hỏi:

Chào anh Luật Sư.
cho tôi hỏi. tôi có một miếng đất dt: 8,4x25m. 100% thổ cư, mặt tiền đường Lương Định Của, quận 2. vậy tôi có thể tách thành 2 sổ. 4,2x25m hk vậy. A Luật sư tư vấn giúp. Cảm ơn anh.

Trả lời:
 
​Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 3 Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND của Ủy  ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh: 
Thửa đất mới hình thành và thửa đất còn lại, sau khi trừ lộ giới, diện tích tối thiểu như sau:

Khu vực Đất ở
Đất ở chưa có nhà (m2) Đất có nhà hiện hữu (m2)

 
   
Khu vực 2: gồm các Quận 2, 7, 9, 12, Bình Tân, Thủ Đức và thị trấn các huyện được quy hoạch đô thị hóa.
​​
80
​​
m2 và chiều rộng mặt tiền thửa đất không nhỏ hơn 05 mét.

​​
50m2 và chiều rộng mặt tiền thửa đất không nhỏ hơn 04 mét.
​Như vậy, thửa đất của anh thuộc khu vực quận 2, nếu hiện đang là đất trống chưa có nhà thì ​Thửa đất mới hình thành và thửa đất còn lại, sau khi trừ lộ giới, diện tích tối thiểu là 
80m2 và chiều rộng mặt tiền thửa đất không nhỏ hơn 05 mét. 
Trường hợp của anh, nếu tách ra làm hai sổ thì tổng diện tích mỗi sổ là 105 
m2  tuy nhiên, chiều rộng mặt tiền thửa đất lại không đủ 5m. Vì vậy theo quy định nêu trên thì đất của anh không đủ điều kiện để tách làm 02 sổ. 
Nếu anh vẫn muốn tách làm 02 sổ đối với thửa đất nêu trên thì anh có thể tiến hành các thủ tục xây dựng nhà trên thửa đất và hoàn công, sau đó anh thực hiện thủ tục tách thửa. Khi trên đất đã có nhà thì điều kiện tách thửa là: Thửa đất mới hình thành và thửa đất còn lại, sau khi trừ lộ giới, diện tích tối thiểu là 
50m2 và chiều rộng mặt tiền thửa đất không nhỏ hơn 04 mét. Lúc đó anh sẽ đủ điều kiện để tách thửa theo quy định.
Để được tư vấn chi tiết hơn, bạn vui lòng liên hệ đến Văn phòng luật sư Tô Đình Huy hoặc tổng đài 19006279 sẽ được luật sư tư vấn.
Trân trọng,
 
Trường hợp bị tạm đình chỉ hành nghề công chứng
Câu hỏi:

Công chứng viên B đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính do vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự. Vậy, công chứng viên B có bị tạm đình chỉ hành nghề không?

Trả lời:

Trả lời:
1. Theo quy định tại Điều 14 Luật công chứng, Sở Tư pháp nơi công chứng viên đăng ký hành nghề quyết định tạm đình chỉ hành nghề của công chứng viên trong các trường hợp sau đây:
- Công chứng viên đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Công chứng viên đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
2. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Luật công chứng thì công chứng viên B đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính do vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự sẽ bị tạm đình chỉ hành nghề công chứng. Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Khi nào công chứng viên không được bổ nhiệm
Câu hỏi:

Đề nghị cho biết Luật công chứng quy định những trường hợp nào không được bổ nhiệm công chứng viên?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 13 Luật công chứng quy định những trường hợp sau đây không được bổ nhiệm công chứng viên:
1. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về tội phạm do vô ý mà chưa được xóa án tích hoặc về tội phạm do cố ý.
2. Người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
3. Người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
4. Cán bộ bị kỷ luật bằng hình thức bãi nhiệm, công chức, viên chức bị kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc hoặc sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, sỹ quan, hạ sỹ quan, công nhân, viên chức trong đơn vị thuộc Công an nhân dân bị kỷ luật bằng hình thức tước danh hiệu quân nhân, danh hiệu Công an nhân dân hoặc đưa ra khỏi ngành.
5. Người bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư do bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách của Đoàn luật sư, người bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư mà chưa hết thời hạn 03 năm kể từ ngày quyết định thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư có hiệu lực hoặc kể từ ngày chấp hành xong quyết định tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư.

Quy định về bổ nhiệm công chứng viên
Câu hỏi:

Luật công chứng quy định về bổ nhiệm công chứng viên như thế nào?

Trả lời:
 
Trả lời:
Điều 12 Luật công chứng quy định về bổ nhiệm công chứng viên như sau:
1. Người đáp ứng đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 8 của Luật công chứng năm 2014 có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên được gửi đến Sở Tư pháp nơi người đề nghị bổ nhiệm công chứng viên đã đăng ký tập sự hành nghề công chứng.
2. Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên gồm:
- Đơn đề nghị bổ nhiệm công chứng viên theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định;
- Phiếu lý lịch tư pháp;
- Bản sao bằng cử nhân luật hoặc thạc sĩ, tiến sĩ luật;
- Giấy tờ chứng minh về thời gian công tác pháp luật;
- Bản sao giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng. Đối với người được miễn đào tạo nghề công chứng thì phải có bản sao giấy chứng nhận hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng và giấy tờ chứng minh là người được miễn đào tạo nghề công chứng;
- Bản sao giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng;
- Giấy chứng nhận sức khỏe do cơ quan y tế có thẩm quyền cấp.
3. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, Sở Tư pháp có văn bản đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm công chứng viên kèm theo hồ sơ đề nghị bổ nhiệm; trường hợp từ chối đề nghị thì phải thông báo bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do cho người nộp hồ sơ.
4. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản và hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên của Sở Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm công chứng viên; trường hợp từ chối bổ nhiệm phải thông báo bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do, gửi cho Sở Tư pháp và người đề nghị bổ nhiệm.

Quy định mới về tập sự nghề công chứng
Câu hỏi:

Tôi được biết người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng phải tập sự hành nghề công chứng. Đề nghị cho biết, Luật công chứng quy định về tập sự hành nghề công chứng như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 11 Luật công chứng quy định về tập sự hành nghề công chứng như sau:
1. Người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng phải tập sự hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng. Người tập sự có thể tự liên hệ với một tổ chức hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận tập sự về việc tập sự tại tổ chức đó; trường hợp không tự liên hệ được thì đề nghị Sở Tư pháp ở địa phương nơi người đó muốn tập sự bố trí tập sự tại một tổ chức hành nghề công chứng đủ điều kiện nhận tập sự.
Người tập sự phải đăng ký tập sự tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có tổ chức hành nghề công chứng nhận tập sự.
Thời gian tập sự hành nghề công chứng là 12 tháng đối với người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng và 06 tháng đối với người có giấy chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng. Thời gian tập sự hành nghề công chứng được tính từ ngày đăng ký tập sự.
2. Tổ chức hành nghề công chứng nhận tập sự phải có công chứng viên đáp ứng điều kiện hướng dẫn tập sự theo quy định tại khoản 3 Điều này và có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc tập sự.
3. Tổ chức hành nghề công chứng phân công công chứng viên hướng dẫn người tập sự.
Công chứng viên hướng dẫn tập sự phải có ít nhất 02 năm kinh nghiệm hành nghề công chứng. Công chứng viên bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động hành nghề công chứng thì sau 12 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết định kỷ luật, quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới được hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng. Tại cùng một thời điểm, một công chứng viên không được hướng dẫn nhiều hơn hai người tập sự.
Công chứng viên hướng dẫn tập sự phải hướng dẫn và chịu trách nhiệm về các công việc do người tập sự thực hiện quy định tại khoản 4 Điều này.
4. Người tập sự hành nghề công chứng được hướng dẫn các kỹ năng hành nghề và thực hiện các công việc liên quan đến công chứng do công chứng viên hướng dẫn phân công và chịu trách nhiệm trước công chứng viên hướng dẫn về những công việc đó. Người tập sự không được ký văn bản công chứng.
5. Khi hết thời gian tập sự, người tập sự hành nghề công chứng phải có báo cáo bằng văn bản về kết quả tập sự có nhận xét của công chứng viên hướng dẫn và xác nhận của tổ chức hành nghề công chứng nhận tập sự gửi đến Sở Tư pháp nơi mình đã đăng ký tập sự; được đăng ký tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng.
6. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết việc tập sự và kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng.
Trường hợp nào được miễn đào tạo nghề công chứng
Câu hỏi:

Anh A đã có thời gian hành nghề luật sư được 10 năm. Hiện anh muốn chuyển sang hành nghề công chứng nên đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Đề nghị cho biết, theo quy định của Luật công chứng, anh A có được miễn đào tạo nghề công chứng không? Luật công chứng quy định những trường hợp nào được miễn đào tạo nghề công chứng?

Trả lời:

Trả lời:
1. Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 10 Luật công chứng, anh A được miễn được miễn đào tạo nghề công chứng.
2. Theo quy định tại Điều 10 Luật công chứng năm 2014, những người sau đây được miễn đào tạo nghề công chứng:
- Người đã có thời gian làm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên từ 05 năm trở lên;
- Luật sư đã hành nghề từ 05 năm trở lên;
- Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật;
- Người đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật.
3. Người được miễn đào tạo nghề công chứng quy định trên phải tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng trước khi đề nghị bổ nhiệm công chứng viên. Thời gian bồi dưỡng nghề công chứng là 03 tháng.
Người hoàn thành khóa bồi dưỡng được cấp giấy chứng nhận hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng.

Quy định mới về đào tạo công chứng viên
Câu hỏi:

Tôi được biết Luật công chứng bổ sung quy định mới so với Luật công chứng năm 2006 về tiêu chuẩn công chứng viên phải tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng. Xin hỏi, quy định về đào tạo nghề công chứng được quy định như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 9 Luật công chứng quy định về đào tạo nghề công chứng như sau:
1. Người có bằng cử nhân luật được tham dự khóa đào tạo nghề công chứng tại cơ sở đào tạo nghề công chứng.
2. Thời gian đào tạo nghề công chứng là 12 tháng.
Người hoàn thành chương trình đào tạo nghề công chứng được cơ sở đào tạo nghề công chứng cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng.
3. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết về cơ sở đào tạo nghề công chứng, chương trình khung đào tạo nghề công chứng và việc công nhận tương đương đối với những người được đào tạo nghề công chứng ở nước ngoài.

Tiêu chuẩn hành nghề công chứng viên
Câu hỏi:

Luật công chứng quy định về tiêu chuẩn của công chứng viên như thế nào?

Trả lời:
Trả lời: Điều 8 Luật công chứng quy định về tiêu chuẩn của công chứng viên như sau:
Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng viên:
1. Có bằng cử nhân luật;
2. Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật;
3. Tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng theo quy định của Luật này;
4. Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng;
5. Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng.
 
Các hành vi bị cấm đối với công chứng viên
Câu hỏi:

Vừa qua, trong hoạt động công chứng đã diễn ra hiện tượng vi phạm quy định của pháp luật công chứng, dẫn đến việc cơ quan chức năng phải xử lý. Đề nghị cho biết Luật công chứng quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng như thế nào?

Trả lời:
Trả lời:
Điều 7 Luật công chứng quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng như sau:
1. Tiết lộ thông tin về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng thông tin về nội dung công chứng để xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
2. Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc hành vi gian dối khác;
3. Công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của con đẻ, con nuôi;
4. Từ chối yêu cầu công chứng mà không có lý do chính đáng; sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng;
5. Nhận, đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác từ người yêu cầu công chứng ngoài phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác đã được xác định, thỏa thuận; nhận, đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện việc công chứng gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức có liên quan;
6. Ép buộc người khác sử dụng dịch vụ của mình; cấu kết, thông đồng với người yêu cầu công chứng và những người có liên quan làm sai lệch nội dung của văn bản công chứng, hồ sơ công chứng;
7. Gây áp lực, đe dọa hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội để giành lợi thế cho mình hoặc cho tổ chức mình trong việc hành nghề công chứng;
8. Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về công chứng viên và tổ chức mình;
9. Tổ chức hành nghề công chứng mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngoài phạm vi hoạt động đã đăng ký;
10. Công chứng viên đồng thời hành nghề tại hai tổ chức hành nghề công chứng trở lên hoặc kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác;
11. Công chứng viên tham gia quản lý doanh nghiệp ngoài tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện hoạt động môi giới, đại lý; tham gia chia lợi nhuận trong hợp đồng, giao dịch mà mình nhận công chứng;
12. Vi phạm pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.

Giá trị của văn bản công chứng
Câu hỏi:

Đề nghị cho biết Luật công chứng quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng như thế nào?

Trả lời:

Trả lời:
Điều 5 Luật công chứng quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng như sau:
1. Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.
2. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.
3. Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
4. Bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được dịch.

Chế độ phụ cấp của biệt phái viên chức
Câu hỏi:

Trường tôi có một giáo viên được Phòng giáo dục ra quyết định biệt phái về phòng giáo dục trong thời gian 3 năm, theo quy định chỉ có giáo viên đứng lớp mới được hưởng phụ cấp ưu đãi 35%, trong trường hợp này giáo viên đó có được hưởng phụ cấp ưu đãi 35% đó không? số giờ dạy mà giáo viên trong trường phải dạy dôi ra so với số giờ chuẩn (do giáo viên đó biệt phái đi) có được tính trả dạy tăng giờ không?

Trả lời:
Trường hợp bạn tôi xin được tư vấn như sau:
Về phụ cấp ưu đãi, do giáo viên này không trực tiếp giảng dạy nên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định số 244/2005/QĐ-TTg ngày 6/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo trực tiếp giảng dạy trong cơ sở giáo dục công lập. Do đó, giáo viên này không được hưởng phụ cấp ưu đãi 35%.
Về việc tính trả lương dạy tăng giờ thì nếu tại thời điểm được biệt phái về phòng giáo dục công tác mà giáo viên đó đã dạy vượt số giờ chuẩn (dôi giờ) bao nhiêu thì được tính lương trả tương đương với số giờ dôi ra đó. Còn nếu số giờ dạy tại thời điểm đó không dôi ra thì không được tính.

Thân!
Tư vấn luật thừa kế trực tuyến
Câu hỏi:

Dịch vụ tư vấn pháp luật thừa kế miễn phí của Văn phòng luật sư Tô Đình Huy. Tổng đài tư vấn 0916 732 634.

Trả lời:
 

Tư vấn, giải đáp thắc mắc pháp luật trong các lĩnh vực như: Dân sựHình sự,Kinh doanh – Thương mạiHợp đồngThuếĐầu tư nước ngoàiSở hữu trí tuệHôn nhân gia đìnhĐất đaiLao động,Hành chínhThừa kế - Di chúc, ..v..v...

 

Hiện nay, nhu cầu tư vấn pháp luật của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp ngày càng tăng và thay đổi xu hướng thực hiện dịch vụ từ trực tiếp gặp Luật sư, tư vấn viên sang việc thong qua các phương tiện truyền thông như email, điện thoại, tổng đài tư vấn luật.... Tư vấn và giải đáp những vấn đề pháp lý của quý khách hàng mọi lúc, mọi nơi, nhằm mang đến sự thuận tiện, an tâm và có phương án hợp lý nhất cho người yêu cầu tư vấn.… Vì vậy, Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy triển khai dịch vụ tư vấn pháp luật qua tổng đài 0909 160684

Tư vấn, giải đáp thắc mắc pháp luật trong các lĩnh vực như: Dân sựHình sự,Kinh doanh – Thương mạiHợp đồngThuếĐầu tư nước ngoàiSở hữu trí tuệHôn nhân gia đìnhĐất đaiLao động,Hành chínhThừa kế - Di chúc, ..v..v...

Thời gian tư vấn: Tất cả các ngày từ thứ 2 đến thứ 7 trong tuần. Trong trường hợp cần tư vấn vào ngoài giờ hành chính hoặc vào ngày chủ nhật, chúng tôi sẽ thực hiện chuyển tiếp cuộc gọi vào số di động để đáp ứng yêu cầu khách hàng.
            Trong một số trường hợp các luật sư, chuyên gia pháp lý của chúng tôi không thể giải đáp chi tiết qua điện thoại Văn phòng luật sư sẽ thu thập thông tin và trả lời tư vấn bằng văn bản (qua Email, bưu điện…) hoặc hẹn gặp khách hàng để tư vấn trực tiếp.
Hãy gọi: 
0916 732 634 để được hỗ trợ trực tiếp.

Mã số kinh doanh
Câu hỏi:

Tôi muốn tìm mã số kinh doanh một số ngành sau:
-Đào tạo nghề truyền thống:sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ,tăm hương,may,thêu ren,sản xuất đồ gỗ gia dụng

Trả lời:
Vấn đề của bạn về tra cứu mã ngành nghề kinh doanh, mời bạn tra cứu tại Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam
(Ban hành kèm theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 để tìm mã ngành cho chính xác và phù hợp với ngành của bạn nha! Hoặc nếu bạn muốn tư vấn chọn mã ngành nghề và tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh thì mời bạn đến văn phòng mình để được tư vấn trực tiếp.
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy
ĐC: 441/15B, Điện Biên Phủ, P25, Q. Bình Thạnh
ĐT: (08) 38 991104
Chúc bạn thành công!
Cấp lại CMND khi không có hộ khẩu
Câu hỏi:

Cho em hỏi, bây giờ em không có sổ hộ khẩu hay KT3, xin cấp lại CMND được hông anh
Nếu hông anh xin chỉ cách làm lại ?

Trả lời:
Chào bạn! Việc xin cấp lại CMND bắt buộc phải có sổ hộ khẩu, và bạn phải làm thủ tục cấp lại CMND tại  CA nơi bạn đăng ký hộ khẩu thường trú nhé bạn.
Thủ tục như sau:
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ gồm
- Sổ hộ khẩu.
- Đơn đề nghị cấp CMND (Mẫu CM3), có ảnh đóng dấu giáp lai và xác nhận của Công an phường, xã, thị trấn.
- 02 ảnh 3x4 (mắt nhìn thẳng, không đeo kính, không để râu, tóc không trùm tai, trùm gáy, nếu là phụ nữ không để hở ngực).
- Giấy tờ chứng minh thuộc diện không thu lệ phí cấp CMND (bản photocopy kèm bản chính để đối chiếu).

Bước 2: Nộp hồ sơ tại Đội cấp CMND, phòng CSQLHC về TTXH Công an tỉnh
- Cán bộ công an sẽ hướng dẫn:
+ Kê khai tờ khai cấp CMND (theo mẫu có sẳn);
+ In vân tay hai ngón trỏ vào chỉ bản, tờ khai (theo mẫu) hoặc thu vân tay hai ngón trỏ qua máy lấy vân tay tự động để in vào chỉ bản và CMND.
+ Viết giấy biên nhận trao cho người nộp
- Thời gian: Từ thứ 2 đến sáng thứ 7 hàng tuần (ngày lễ nghỉ)
 
Bước 3: Nhận CMND
- Người nhận đưa giấy biên nhận từ thứ 2 đến sáng thứ 7 hàng tuần (ngày lễ nghỉ) để nhận lại CMND tại địa điểm đã làm CMND.
- Thời hạn giải quyết:
+ Tại Công an thành phố: Không quá 06 ngày làm việc nếu không qua tra cứu và không quá 10 ngày làm việc nếu phải qua tra cứu (kể từ ngày nhận đủ hồ sơ).
+ Tại Công an huyện đồng bằng: Không quá 10 ngày làm việc nếu không qua tra cứu và không quá 15 ngày làm việc nếu phải qua tra cứu (kể từ ngày nhận đủ hồ sơ).
+ Tại Công an các huyện miền núi, hải đảo: Không quá 15 ngày làm việc nếu không qua tra cứu và không quá 20 ngày làm việc nếu phải qua tra cứu (kể từ ngày nhận đủ hồ sơ).
- Lệ phí:
+ 6000 đồng/lần cấp đổi CMND (không bao gồm tiền ảnh của người được cấp) đối với các phường thuộc thành phố.
+ 3.000 đồng/lần cấp đổi CMND (không bao gồm tiền ảnh của người được cấp) đối với các xã, thị trấn của huyện, thành phố thuộc tỉnh (trừ xã, thị trấn, vùng cao).
+ Không thu lệ phí đối với các trường hợp: bố, mẹ, vợ, chồng, con dưới 18 tuổi của liệt sĩ; thương binh, con dưới 18 tuổi của thương binh; công dân thuộc xã, thị trấn vùng cao theo qui định của Uỷ ban Dân tộc;
Thời hạn khai tử
Câu hỏi:

Thời hạn khai tử là bao nhiêu lâu?

Trả lời:
Điều 20. Thời hạn đi khai tử và trách nhiệm khai tử
    1. Thời hạn đi khai tử là 15 ngày, kể từ ngày chết.
    2. Thân nhân của người chết có trách nhiệm đi khai tử; nếu người chết không có thân nhân, thì chủ nhà hoặc người có trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, nơi người đó cư trú hoặc công tác trước khi chết đi khai tử.
Khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi
Câu hỏi:

Việc tiến hành khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi được quy định như thế nào?

Trả lời:
Điều 16.  Khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi
1. Người phát hiện trẻ sơ sinh bị bỏ rơi có trách nhiệm bảo vệ trẻ và báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn, nơi trẻ bị bỏ rơi để lập biên bản và tìm người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ em đó.
Biên bản phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm phát hiện trẻ bị bỏ rơi; giới tính; đặc điểm nhận dạng; tài sản và các đồ vật khác của trẻ (nếu có); họ, tên, địa chỉ của người phát hiện. Biên bản được lập thành hai bản, một bản lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi lập biên bản, một bản giao cho người hoặc tổ chức tạm thời nuôi dưỡng trẻ.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi lập biên bản có trách nhiệm thông báo trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình địa phương để tìm cha, mẹ đẻ của trẻ. Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình có trách nhiệm thông báo miễn phí 3 lần trong 3 ngày liên tiếp các thông tin về trẻ sơ sinh bị bỏ rơi. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo cuối cùng, nếu không tìm thấy cha, mẹ đẻ, thì người hoặc tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ có trách nhiệm đi đăng ký khai sinh.
3. Khi đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, họ, tên của trẻ được ghi theo đề nghị của người đi khai sinh; nếu không có cơ sở để xác định ngày sinh và nơi sinh, thì ngày phát hiện trẻ bị bỏ rơi là ngày sinh; nơi sinh là địa phương nơi lập biên bản; quốc tịch của trẻ là quốc tịch Việt Nam. Phần khai về cha, mẹ và dân tộc của trẻ trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh được để trống. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ “trẻ bị bỏ rơi”. Trong trường hợp có người nhận trẻ làm con nuôi, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch căn cứ vào Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi để ghi tên cha, mẹ nuôi vào phần ghi về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của con nuôi; trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ “cha, mẹ nuôi”; nội dung ghi chú này phải được giữ bí mật, chỉ những người có thẩm quyền mới được tìm hiểu.
4. Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi không phải là trẻ sơ sinh, thì việc lập biên bản và thông báo tìm cha, mẹ đẻ của trẻ em cũng được thực hiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Khi đăng ký khai sinh, những nội dung liên quan đến khai sinh được ghi theo lời khai của trẻ; nếu trẻ không nhớ được, thì căn cứ vào thể trạng của trẻ để xác định năm sinh, ngày sinh là  ngày 01 tháng 01 của năm đó; họ, tên của trẻ được ghi theo đề nghị của người đi khai sinh; quốc tịch của trẻ là quốc tịch Việt Nam; những nội dung không xác định được thì để trống. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ "trẻ bị bỏ rơi".
 (NĐ158 -2005)
Thời hạn từ chối nhận di sản
Câu hỏi:

Tôi muốn biết thời hạn để từ chối nhận di sản thừa kế là bao lâu?

Trả lời:

Theo khoản 3 Điều 642 quy định Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.
Nhập tài sản riêng vào tài sản chung
Câu hỏi:

Vợ, chồng có quyền nhập tài sản riêng vào tài sản chung của vợ chồng không? Thủ tục như thế nào?

Trả lời:
Vợ, chồng có quyền nhập tài sản riêng thành tài sản chung, trừ trường hợp nhập tài sản để nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của bên có tài sản riêng thì không được pháp luật công nhận. Ví dụ: vi phạm pháp luật bị xử phạt tịch thu tài sản riêng nên muốn nhập tài sản riêng là như nhà ở, đất đai, xe ô tô thành tài sản chung của vợ chồng để trốn tránh việc bị tịch thu các tài sản này.
Nhập các tài sản riêng có giá trị lớn (nhà ở, quyền sử dụng đất…) phải được lâp thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng và chứng thực theo quy định.
Khi nào thì nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chấm dứt?
Câu hỏi:

Khi nào thì nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chấm dứt?

Trả lời:
Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chấm dứt nếu thuộc một trong những trường hợp sau:
- Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động;
- Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình;
- Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi;
- Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng;
- Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết;
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Không Đăng ký kết hôn thì cấp dưỡng cho con như thế nào?
Câu hỏi:

Cha mẹ không đăng ký kết hôn có được yêu cầu cấp dưỡng cho con không?

Trả lời:
Trường hợp cha mẹ không đăng ký kết hôn thì việc cấp dưỡng nuôi con do các bên tự tthỏa thuận hoặc do Tòa án quyết định theo yêu cầu của người mẹ hoặc do Tòa án quyết định theo đề nghị của Viện Kiểm sát về việc yêu cầu Tòa án xác định cha cho con chưa thành niên (con dưới 18 tuổi).
Để có thể yêu cầu cấp dưỡng cho con cần có điều kiện sau:
- Người cha tự nguyện nhận con hoặc thừa nhận đó là con chung của hai người (làm thủ tục nhận con tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi người cha cư trú: khai tên cha trong Giấy khai sinh của con, đặt tên con theo họ của cha, đăng ký hộ tịch cho con…);
- Có quyết định hoặc bản án xét xử công nhận cha cho con của Tòa án nhân dân (mẹ yêu cầu Tòa án hoặc đề nghị Viện Kiểm sát yêu cầu Tòa án xác định cha cho con chưa thành niên (con dưới 18 tuổi)).
Nếu hai bên vẫn không thỏa thuận được việc cấp dưỡng cho con, người mẹ có thể khởi kiện ra Tòa án để được xem xét, giải quyết.
Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con
Câu hỏi:

Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi cha mẹ ly hôn được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Khi ly hôn, cha hoặc mẹ nếu là người không trực tiếp nuôi con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nếu con dưới 18 tuổi hoặc con đã trên 18 tuổi nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái. Do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Thủ tục thay đổi người nuôi con
Câu hỏi:

Thủ tục thay đổi người nuôi con thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn mà các bên tự thỏa thuận được (không có tranh chấp) là loại việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Để yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, các bên nộp đơn cho Tòa án cấp huyện/quận nơi người trực tiếp nuôi con đang cư trú.
Giấy tờ kèm theo gồm:
- Bản sao hợp lệ giấy khai sinh (của con);
- Sổ hộ khẩu;
- Giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu của người yêu cầu thay đổi người nuôi con;
- Quyết định hoặc bản án ly hôn.
Trường hợp miễn án phí ly hôn
Câu hỏi:

Trường hợp nào người có yêu cầu ly hôn được Tòa án xem xét miễn nộp một phần tiền tạm ứng an phí, án phí giải quyết vụ án ly hôn và gia đình? Mức miễn nộp một phần được xác định như thế nào?

Trả lời:
Người có khó khăn về kinh tế được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc xác nhận, thì được Toà án cho miễn nộp một phần tiền tạm ứng án phí, án phí.Mức tiền được miễn nộp một phần nhiều nhất không vượt quá 50% mức tiền tạm ứng án phí, án phí Tòa án mà người đó phải nộp.
Hòa giải tại Tòa án là thủ tục bắt buộc hay không?
Câu hỏi:

Khi Tòa án giải quyết ly hôn, hòa giải việc ly hôn của vợ chồng có phải là thủ tục bắt buộc không?

Trả lời:
Hòa giải tại Tòa án là thủ tục bắt buộc nhằm mục đích với sự giúp đỡ của Tòa án sẽ giúp cho các bên hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong mối quan hệ ly hôn; qua đó giúp các đương sự thỏa thuận với nhau về việc ly hôn mà không cần đưa vụ án ra xét xử.
Ly hôn khi chồng bỏ nhà đi
Câu hỏi:

Chồng bỏ nhà đi, vợ yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt chồng thì có được giải quyết không?

Trả lời:
Theo quy định của pháp luật, với những trường hợp vắng mặt của đương sự, Tòa án vẫn xét xử cho ly hôn. Do đó, vợ có quyền gửi đơn đến Tòa án cấp quận/huyện nơi chồng có hộ khẩu thường trú để yêu cầu giải quyết ly hôn.
Trường hợp chồng bỏ nhà đi, nếu đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì Tòa án lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Trong trường hợp xét xử vắng mặt, Tòa án sẽ tiến hành niêm yết bản án tại trụ sở Tòa án nơi đã xét xử sơ thẩm và Ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn nơi người chồng cư trú.
Sau 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án hoặc từ ngày người chồng nhận được bản án mà người chồng không kháng cáo hoặc sau 30 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án hoặc từ ngày Viện Kiểm sát nhận được bản án mà Viện Kiểm sát cùng cấp (quận/huyện) không kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp luật.
Nộp đơn ly hôn ở đâu khi chồng có nhiều nơi cư trú?
Câu hỏi:

Trường hợp người chồng có nhiều nơi cư trú, khi người vợ có yêu cầu ly hôn thì nộp đơn đến Tòa án nào?

Trả lời:
Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án ly hôn là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc (nơi cư trú của cá nhân là nơi cá nhân thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống). Do vậy, để được Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, người viết đơn ly hôn (vợ - nguyên đơn) cần chứng minh nơi chồng (bị đơn) thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống, hoặc nơi chồng làm việc
Để giải quyết việc ly hôn, có thể thực hiện như sau:
- Liên hệ với công an xã, phường, thị trấn nơi chồng  thường  trú  đề  nghị  xác  nhận  chồng thường xuyên sinh sống hoặc có đang sinh sống ở địa phương đó. Nếu công an xã, phường, thị trấn xác nhận là chồng thường xuyên sinh sống hoặc đang sinh sống tại địa phương đó thì vợ gửi đơn ly hôn đến Tòa án quận/huyện nơi chồng thường trú để yêu cầu giải quyết ly hôn;
- Liên hệ với công an xã, phường, thị trấn nơi cho là chồng đang sinh sống để nhờ xác nhận việc chồng có cư trú thực tế ở đó không; nếu công an xác nhận chồng đang sinh sống tại địa bàn này thì vợ gửi đơn ly hôn đến Tòa án quận/huyện nơi đó để yêu cầu giải quyết ly hôn;
         - Liên hệ với cơ quan, tổ chức hoặc cơ sở nơi chồng đang làm việc để xác nhận chồng đang làm việc tại đây và gửi đơn đến Tòa án nơi cơ quan, tổ chức, cơ sở nơi chồng đang làm việc giải quyết việc ly hôn.
Nộp đơn ly hôn ở đâu khi không thường trú tại nơi có hộ khẩu thường trú?
Câu hỏi:

Đơn thuận tình ly hôn nộp ở đâu nếu khi ly hôn vợ chồng đăng ký hộ khẩu thường trú ở một địa phương nhưng sinh sống ơ địa phương khác?

Trả lời:
Theo quy định thì Toà án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.Theo đó, khi ly hôn các bên có thể nộp đơn tại Toà án nơi vợ chồng cư trú (nơi đăng ký hộ khẩu) hoặc nơi làm việc của chồng hoặc của vợ. Việc lựa chọn Tòa án nơi nào giải quyết là do vợ chồng quyết định trên cơ sở đảm bảo phù hợp với điều kiện của các bên.
Ly hôn khi không đăng ký kết hôn
Câu hỏi:

Ly hôn khi không đăng ký kết hôn thì giải quyết như thế nào?

Trả lời:
Theo quy định của pháp luật, Tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu giải quyết về con thì giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn; nếu có yêu cầu giải quyết về tài sản thì tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết và có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
Có được xin ly hôn tiếp khi bị bác đơn ly hôn?
Câu hỏi:

Người bị Tòa án bác đơn ly hôn có thể tiếp tục làm đơn xin ly hôn không?

Trả lời:
Tòa án bác đơn xin ly hôn thì quan hệ vợ chồng vẫn tồn tại trước pháp luật. Sau thời gian một năm kể từ ngày bản án bác đơn ly hôn có hiệu lực pháp luật, người bị Tòa án bác đơn xin ly hôn có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Ly hôn với nguời Việt Nam đang sinh sống nước ngoài
Câu hỏi:

Ly hôn giữa một bên là người Việt Nam với một bên là người Việt Nam đã đi ra nước ngoài được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Tòa án cấp tỉnh khi thụ lý những vụ án ly hôn này sẽ căn cứ vào từng trường hợp để giải quyết, cụ thể như sau:
- Trường hợp bị đơn sống lưu vong, không có cơ quan nào quản lý, không có địa chỉ rõ ràng nên không thể liên hệ với bị đơn; ủy thác tư pháp không có kết quả, thì Toà án yêu cầu thân nhân
của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn và báo cho họ gửi về Toà án những lời khai hoặc tài liệu cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Sau khi có kết quả, Toà án có thể căn cứ vào những lời
khai và tài liệu đó để xét xử theo thủ tục chung.
         - Trường hợp bên đương sự là bị đơn đang ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức hoặc giấu địa chỉ nên nguyên đơn ở trong nước không thể biết địa chỉ, tin tức của họ, thì giải quyết như sau:
+ Nếu bị đơn ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức gì về họ (kể cả thân nhân của họ cũng không có địa chỉ, tin tức gì về họ), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật.
+ Nếu thông qua thân nhân của họ mà biết rằng bị đơn vẫn có liên hệ với thân nhân ở tron nước, nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Toà án, thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử Toà án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Một bên bị tâm thân thì ly hôn như thế nào?
Câu hỏi:

Ly hôn với một bên là người đang mắc bệnh tâm thần thì giải quyết như thế nào?

Trả lời:
Theo quy định của pháp luật, nếu ly hôn với một bên đang mắc bệnh tâm thần được coi là ly hôn với người có nhược điểm thể chất hoặc tâm thần nên không thể tham gia giải quyết ly hôn được do đó phải có người đại diện của họ tham gia giải quyết.
Việc ly hôn này được giải quyết như sau:
- Tòa án thuyết phục người viết đơn ly hôn (nguyên đơn), giải thích để họ đoàn tụ và rút đơn ly hôn (không tiến hành hòa giải như các vụ ly hôn khác).
- Nếu người viết đơn (nguyên đơn) vẫn giữ ý kiến yêu cầu giải quyết ly hôn, Tòa án mở phiên tòa xét xử việc ly hôn
Vợ đòi chồng cấp dưỡng
Câu hỏi:

Hỏi: chao luat su
cho em hoi ve luat hon nhan gia dinh.neu vo bo chong di mot thoi gian roi ve doi cap duong tien va ep phai ly di neu khong cap duong. vay theo luat quy dinh nhu the nao ve truong hop nay?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định của luật Hôn nhân và gia đình, trong quá trình chung sống với nhau vợ chồng chỉ có nghĩa vụ chung thuỷ, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững, chứ không có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau. Chỉ khi vợ chồng ly hôn với nhau thì theo quy định tại Điều 60 về Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn: "Khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình". 
Bạn hỏi là "vợ ép phải ly hôn nếu không cấp dưỡng" chúng tôi có thể hiểu là vợ bạn muốn ly hôn và bạn không đồng ý có đúng không?  Nếu vợ bạn đã muốn lý hôn thì chị ấy có quyền nộp đơn ra tòa yêu cầu được ly hôn. Nếu tòa xét thấy đủ cơ sở để cho ly hôn thì dù bạn có muốn hay không tòa cũng tuyên cho hai vợ chồng bạn được ly hôn. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 85 về Quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn: "Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn". 
Để được tư vấn cụ thể hơn mời bạn liên lạc với chúng tôi theo địa chỉ và số điện thoại bên dưới, bạn có thể vào Website của chúng tôi để tham khảo thêm: http://luatsuhcm.com/
Trân trọng!
Đơn ly hôn hợp lệ
Câu hỏi:

Đơn yêu cầu ly hôn như thế nào thì được coi là hợp lệ?

Trả lời:
Đối với các vụ việc về ly hôn hiện nay được chia ra làm hai loại đơn như sau:
+ Đơn xin ly hôn (dạng đơn phương, một bên đứng đơn, còn gọi là vụ án dân sự) có quy định nội dung đơn khởi kiện phải có các nội dung chính như sau: ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; tên, địa chỉ của người khởi kiện; tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ (nếu có); tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (nếu có); những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có); tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp; các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án; người khởi kiện phải ký tên hoặc điểm chỉ vào phần cuối đơn.
+ Đơn yêu cầu công nhận việc thuận tình ly hôn (hai người cùng đứng đơn xin thuận tình ly hôn, còn gọi là việc dân sự) có quy định nội dung chính của đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự như sau: ngày, tháng, năm viết đơn; tên Tòa án có thẩm quyền giải quyết đơn; tên, địa chỉ của người yêu cầu; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó; tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết đơn yêu cầu (nếu có); các thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu; người yêu cầu
phải ký tên hoặc điểm chỉ vào phần cuối đơn.
                Hiện nay, để thuận lợi cho người có yêu cầu ly hôn, một số Tòa án phát hành mẫu đơn về hôn nhân và gia đình, có đóng dấu hoặc số ký hiệu của tòa; người có yêu cầu ly hôn có thể liên hệ
với Tòa án để mua, sử dụng (không bắt buộc).
Ly hôn khi vợ đang có thai
Câu hỏi:

Chồng yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang có thai (có bầu) hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì Tòa án có giải quyết như thế nào?

Trả lời:
Để bảo vệ thai nhi, trẻ sơ sinh, phụ nữ có thai, bà mẹ mới sinh và đang nuôi con ở tuổi sơ sinh, pháp luật hôn nhân và gia đình quy định người chồng không có quyền yêu cầu Tòa án phân biệt người vợ có thai với ai hoặc bố của đứa trẻ dưới 12 tháng tuổi là ai). Trường hợp, nếu người chồng có yêu cầu xin ly hôn, thì Tòa án trả lại đơn cho người chồng (nếu Tòa án chưa thụ lý) hoặc giải thích cho người  chồng  biết  quy  định  chồng  không  có quyền ly hôn trong thời gian vợ mang thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Đồng thời, Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án (nếu người chồng rút đơn yêu cầu xin ly hôn) quyết định bác yêu cầu xin ly hôn của người chồng (nếu người chồng không rút đơn yêu cầu ly hôn).
         Khi Tòa án bác yêu cầu xin ly hôn của người chồng thì sau thời gian một năm người chồng mới có quyền tiếp tục nộp đơn xin ly hôn (nếu có nguyện vọng).
Khởi kiện đòi nợ như thế nào ?
Câu hỏi:

Hỏi: xin cho tôi hỏi luật sư: hiện nay tôi có người bạn vay tôi số tiền 55tr có ghi nội dung họ và tên, số chứng minh thu và chỗ thuê ở, số tiền vay của tôi là 55tr từ ngày đến ngày tháng trả mà hiện nay người đó đã bỏ trốn, xin hoi luật su nếu tôi tìm được tôi giữ người đó đẻ buộc người nhà phải đưa tiền trả tôi thì có bị vi phạm pháp luật không, và nếu vi phạm thì tôi phải giải quyết như thế nào ạ, tôi kiện ra toà thì như thế nào ạ

Trả lời:
 
Nếu bạn giữ người vay tiền bạn để buộc người nhà phải trả tiền cho bạn thì bạn đã vi phạm Khoản 1 Điều 123.  Tội bắt, giữ hoặc giam  người trái pháp luật: "Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm". Chúng tôi khuyên bạn không nên bắt giữ người vay tiền bạn vì quan hệ vay mượn tiền là quan hệ dân sự nên bạn chỉ có thể khởi kiện ra tòa án dân sự yêu cầu bên vay tiền phải trả lại cho bạn số tiền đã vay cộng với lãi suất tương ứng với thời gian chậm trả.
Thủ tục khởi kiện vụ án dân sự: 
Hồ sơ khởi kiện gồm:
1. Đơn khởi kiện (theo mẫu)
2.Các tài liệu liên quan đến vụ kiện ( giấy tờ nhà, đất, hợp đồng...)
3.Giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu (bản sao y) nếu là cá nhân;
 

Thời hạn chuẩn bị xét xử: Từ 4 đến 6 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Thời hạn mở phiên tòa: Từ 1 đến 2 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Để được tư vấn chi tiết và cụ thể hơn mời bạn liên hệ với số điện thoại bên dưới của luật sư hoặc đến trực tiếp tại văn phòng của chúng tôi.
Mời bạn vào website của văn phòng luật sư Tô Đình Huy  http://luatsuhcm.com để tham khảo các thông tin liên quan.
Chúc bạn nhanh tìm được hướng giải quyết tốt nhất.
Thủ tục tuyên bố một người chết
Câu hỏi:

Hỏi: Tôi muốn làm đơn yêu cầu tòa án tuyên bố 1 người đã chế thì phải viết đơn như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 78 và Điều 81 Bộ luật Dân sự, việc tuyên bố một người mất tích hoặc đã chết được tiến hành như sau:
- Khi một người biệt tích hai năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.
Thời hạn hai năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó. Nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng. Trong trường hợp, không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo năm có tin tức cuối cùng.
-Theo quy định tại Điều 81 Bộ luật Dân sự: Tuyên bố một người là đã chết

1. Người có quyền, lợi ích liên quan có thể yêu cầu Toà án ra quyết định tuyên bố một người là đã chết trong các trường hợp sau đây:
a) Sau ba năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Toà án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau một năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích năm năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 78 của Bộ luật này.
2. Tuỳ từng trường hợp, Toà án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này. 


Đơn yêu cầu tòa án tuyên bố một người là đã chết phải có đầy đủ các nội dung theo quy định tại Khoản 2 Điều 312 Bộ luật tố tụng Dân sự, gồm:
a) Ngày, tháng, năm viết đơn;
b) Tên Toà án có thẩm quyền giải quyết đơn;
c) Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
d) Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó;
đ) Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết đơn yêu cầu, nếu có;
e) Các thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu;
g) Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
Gửi kèm theo đơn yêu cầu là chứng cứ để chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố là đã chết thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật Dân sự.
Để được tư vấn cụ thể hơn mời bạn liên hệ trực tiếp với chúng tôi.
Thừa kế khi có 2 vợ như thế nào ?
Câu hỏi:

Hỏi: Tôi có rắc rối khi đang trong tình trạng ly thân (chưa ly dị) nhưng chồng đã có 2 người vợ bên ngoài ( ở cả miền Bắc & miền Nam) và họ đều có con , tôi có thắc mắc về thủ tục và những vđề liên quan đến quyền thừa kế, ly hôn, xin được tư vấn và xin ý kiến luật sư ! Mong nhận được sự giúp đỡ. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:
 
Chúng tôi cho rằng tình trạng hôn nhân của vợ chồng bạn đã mâu thuẫn trầm trọng và không thể hàn gắn được (chồng bạn đã có vợ con ở ngoài như vậy, và vợ chồng đã sống ly thân từ lâu) thì bạn nên làm thủ tục ly hôn với chồng sớm để tránh được những rắc rối có thể xãy ra sau này, ví dụ như về tài sản chung của hai vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể xem xét cho Ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. Trong trường một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án xem xét giải quyết việc ly hôn. Căn cứ cho ly hôn là: tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.Thủ tục giải quyết vụ án ly hôn (đơn phương ly hôn): Là trường hợp giải quyết thủ tục ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng.
Điều 164 Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định nội dung đơn xin ly hôn phải có các nội dung chính như sau:
 
+ Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
 
+ Tên tòa án nhận đơn khởi kiện;
 
+ Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
 
+ Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
 
+ Tên, địa chỉ của người bị kiện;
 
+ Tên, địa chỉ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nếu có;
 
+ Những vấn đề cụ thể yêu cầu tòa án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan;
 
+ Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
 
+ Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
 
+ Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án;
 
+ Chữ ký (điểm chỉ) của nguyên đơn. 
 
 Kèm theo  Đơn xin ly hôn là các giấy tờ: 
 
- Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (bản chính); 
 
- Chứng minh nhân dân của vợ, chồng; 
 
- Giấy khai sinh của con chung (bản sao có công chứng); 
 
- Giấy tờ chứng nhận về quyền sở hữu tài sản (trong trường hợp vợ chồng có yêu cầu tòa án chia tài sản chung của vợ chồng). 
 
- Trình tự, thủ tục giải quyết: 
 
Sau khi nhận được  Đơn xin ly hôn, Tòa án phải xem xét những tài liệu, chứng cứ cần thiết, nếu xét thấy thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án sẽ thông báo cho đương sự biết để đương sự nộp tiền tạm ứng án phí.  
 
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí là 200.000 (nếu không có tranh chấp về tài sản). Sau khi nộp tiền tạm ứng án phí, đương sự nộp lại biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án. Tòa án thụ lý việc dân sự hoặc vụ án dân sự kể từ khi nhận được biên lai này. 
 
Tòa án giải quyết vụ án ly hôn trong thời hạn 04 tháng. Nếu vụ án có tính chất phức tạp thì có thể kéo dài thêm nhưng thời gian kéo dài thêm không quá 02 tháng. Đối với trường hợp giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án sẽ ra một trong các quyết định sau: Quyết định tạm đình chỉ vụ án, Quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử.
 
Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng
 
Nếu bạn có thời gian chúng tôi mời bạn đến văn phòng luật sư của chúng tôi để được tư vấn trực tiếp cụ thể hơn hoặc có thể liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại bên dưới.
Xin mời bạn vào website http://luatsuhcm.com/news/Hon-nhan-gia-dinh/Tu-van-thu-tuc-don-phuong-ly-hon-57/ để tìm hiểu kỹ hơn về thủ tục ly hôn, và các vấn đề liên quan về thừa kế.
Bồi thường thiệt hại đối với con gây ra ?
Câu hỏi:

Em Trần Văn Tiến 14 tuổi đang chạy xe đạp từ trường về nhà thì bị một nhóm bạn cùng trường đến gây gổ và làm hư chiếc xe đạp, phải sửa chữa hết 100.000 đồng. Cha mẹ Tiến đến gặp cha mẹ nhóm bạn trên yêu cầu phải bồi thường số tiền sửa xe. Trong trường hợp này, ai có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 40 Luật Hôn nhân và gia đình quy định thì cha mẹ phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã mất năng lực hành vi dân sự gây ra. Cụ thể được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 606 Bộ luật Dân sự năm 2005 như sau:
- Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con ?
Câu hỏi:

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con được Luật Hôn nhân và gia đình quy định như thế nào?

Trả lời:
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, con được thực hiện theo quy định tại các Điều 34, 36, 37 Luật Hôn nhân và gia đình quy định. Cụ thể như sau :
Về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ:
-  Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
- Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi dục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
- Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập.
Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường đầm ấm, hoà thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường và các tổ chức xã hội trong việc giáo dục con;
- Cha mẹ hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động xã hội của con;
- Khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được, cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện giáo dục con. 
Thế chấp tài sản chung của vợ chồng ?
Câu hỏi:

Sau nhiều năm kết hôn, anh Hiền và chị Lành tiết kiệm mua được một miếng đất xây nhà. Thời gian gần đây, anh Hiền muốn góp vốn với bạn bè để thành lập công ty cổ phần, để có đủ vốn góp vào công ty anh bàn với vợ thế chấp căn nhà vay vốn ngân hàng. Không được vợ đồng ý, anh Hiền vẫn kiên quyết thực hiện vì cho rằng giấy tờ sở hữu nhà ở chỉ mang tên anh. Trong trường hợp này, anh Hiền có quyền quyết định việc thế chấp hay không?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ,quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Như vậy, việc dùng tài sản chung có giá trị lớn để đầu tư kinh doanh cần phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận; anh Hiền chỉ được thế chấp giấy tờ nhà đất vay vốn ngân hàng khi giữa anh và vợ đã bàn bạc, thỏa thuận với nhau hoặc anh, chị đã có thỏa thuận bằng văn bản việc chia tài sản chung trong đó anh Hiền được quyền định đoạt ngôi nhà và quyền sử dụng đất để đầu tư kinh doanh riêng.
Tài sản sau khi ly hôn ?
Câu hỏi:

Năm 2005, trước khi lập gia đình chị Hạnh được cha mẹ ruột cho một căn nhà có diện tích 50m2 và một chiếc xe ôtô. Một năm sau, chồng chị thành lập công ty, chị đồng ý để anh mở văn phòng giao dịch tại căn nhà nói trên, đồng thời chị cũng để anh sử dụng xe ôtô đi giao dịch, làm ăn với đối tác. Một thời gian sau, công ty làm ăn thua lỗ, anh tự ý bán nhà và xe để trả nợ mà không bàn bạc với chị Hạnh. Trong trường hợp này, pháp luật quy định như thế nào để bảo vệ tài sản riêng của chị Hạnh?

Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 27 của  Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Theo quy định trên, các tài sản gồm căn nhà có diện tích 50m2 và chiếc ô tô được xác định là tài sản riêng của chị Hạnh, do chị có chúng trước khi kết hôn (Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000), vì vậy chị có quyền sử dụng, chiếm hữu, định đoạt.
Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ, chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (gọi tắt là Nghị định số 70/2001/NĐ-CP). Cụ thể theo khoản 1, 2 Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định như sau:
- Trong trường hợp việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng tài sản đó đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống duy nhất của gia đình là pháp luật quy định giao dịch đó phải tuân theo hình thức nhất định, thì sự thỏa thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực…)
- Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không có quy định phải tuân theo hình thức nhất định, nhưng giao dịch đó có liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc giao dịch đó có liên quan đến việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng đã đưa vào sử dụng chung và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình, thì việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch đó cũng phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng.
Để bảo vệ tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của chị Hạnh, tại khoản 4 Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định cụ thể quyền yêu cầu tuyên bố sự vô hiệu của các giao dịch dân sự. Theo đó, trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các gaio dịch dân sự liên quan đến tài sản ching quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà không có sự đồng ý của một bên, thì bên đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Yêu cầu khôi phục lại tình trạng hôn nhân ?
Câu hỏi:

Sau hai năm kể từ ngày anh Trung bị Tòa án tuyên bố là đã chết, vợ anh đã kết hôn với người khác. Nhưng nay anh Trung bất ngờ trở về và gửi đơn đến Tòa án yêu cầu hủy việc kết hôn của vợ mình với người khác. Hỏi quan hệ hôn nhân giữa anh Trung và người vợ có được khôi phục hay không ?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật Dân sự mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục; trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
Theo quy định tại Điều 82 Bộ luật Dân sự năm 2005 khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết.
Điều 83 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Quân hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ các trường hợp sau đây:
- Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 78 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyết định cho ly hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật;
- Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
Đối chiếu các quy định trên, mặc dù anh Trung trở về, được Tòa án ra quyết định hủy quyết định tuyên bố là đã chết nhưng vợ anh Trung đã kết hôn với người khác, vì vậy quan hệ hôn nhân giữa anh, chị không được khôi phục, quan hệ hôn nhân giữa vợ anh với người khác vẫn có hiệu lực pháp luật.
chia tài sản chung, con chung khi yêu cầu hủy hôn trái pháp luật ?
Câu hỏi:

Trong trường hợp Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật thì vợ, chồng có được thoả thuận việc chia tài sản, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hay không?

Trả lời:
Toà án có thẩm quyền quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định cụ thể tại Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình. Toà án gửi bản sao quyết định cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để xoá đăng ký kết hôn trong Sổ đăng ký kết hôn.
Theo quy định tại Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình thì khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy, hai bên nam, nữ phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng. Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn. Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thí yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con.
Yêu cầu hủy việc kết hôn ?
Câu hỏi:

Chị Tâm bị cha mẹ ép gã cho anh Phong, mặc dù đã chung sống với nhau nhiều năm nhưng giữa họ vẫn không nảy sinh tình cảm. Chị Tâm không muốn kéo dài cuộc sống hôn nhân này và muốn được hiểu cụ thể hơn về quyền yêu cầu hủy việc kết hôn theo quy định của pháp luật hiện hành ?

Trả lời:
Một trong các điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở.
Vì vậy, trường hợp kết hôn do cưỡng ép là vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, được coi là việc kết hôn trái pháp luật và phải bị hủy.
Quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật được thực hiện theo quy định tại Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
- Bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này (việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở)
- Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 về độ tuổi kết hôn và Điều 10 về các trường hợp bị cấm kết hôn;
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự có quyền tự mình yêu cầu Toà án hoặc đề nghị Viện kiểm sát yêu cầu Toà án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định về độ tuổi kết hôn tại khoản 1 Điều 9 và các trường hợp bị cấm kết hôn tại Điều 10 của Luật này:
+ Vợ, chồng, cha, mẹ, con của các bên kết hôn;
+ Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em;
+ Hội liên hiệp phụ nữ.
- Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có quyền đề nghị Viện kiểm sát xem xét, yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Ủy quyền nhận giấy đăng ký kết hôn ?
Câu hỏi:

Sắp đến ngày nhận Giấy đăng ký kết hôn thì anh Hoài phải đi công tác xa, anh Hoài không biết pháp luật có quy định hai bên đăng ký kết hôn được ủy quyền cho người khác đến nhận thay Giấy đăng ký kết hôn hay không?

Trả lời:
Theo Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên.
Theo quy định nêu trên, phải có mặt của hai bên nam, nữ kết hôn thì cơ quan có thẩm quyền mới tổ chức đăng ký kết hôn, và trước khi nhận Giấy đăng ký kết hôn; hai bên nam, nữ kết hôn còn phải thực hiện yêu cầu cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn trước đại diện cơ quan đăng ký kết hôn.
Vì vậy, hai bên không được ủy quyền cho người khác đến nhận Giấy đăng ký kết hôn. 
Đăng ký kết hôn ở đâu ?
Câu hỏi:

Chị Hạnh có hộ khẩu thường trú tại xã A, anh Phúc có hộ khẩu thường trú tại xã B, hai người chuẩn bị làm đám cưới và muốn đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Hỏi chị Hạnh và anh Phúc phải đến cơ quan nào để đăng ký kết hôn? Việc đăng ký kết hôn được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Theo Điều 12 Luật hôn nhân và gia đình quy định về thẩm quyền đăng ký kết hôn như sau:
- Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài  là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài.
Căn cứ vào quy định nêu trên thì chị Hạnh, anh Phúc đến tại UBND xã A hoặc xã B để đăng ký kết hôn.
 Theo Điều 13 Luật Hôn nhân và gia đình, việc đăng ký kết hôn được giải quyết như sau :
-  Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật về hộ tịch, cơ quan đăng ký kết hôn kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn; nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn tổ chức đăng ký kết hôn;
-  Trong trường hợp một bên hoặc cả hai bên không đủ điều kiện kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn từ chối đăng ký và giải thích rõ lý do bằng văn bản; nếu người bị từ chối không đồng ý thì có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
Kết hôn trở lại sau khi đã ly hôn ?
Câu hỏi:

Anh An và Chị Bình kết hôn được 10 năm thì ly hôn theo quyết định thuận tình ly hôn của Tòa án, nay anh chị muốn quay về với nhau thì có phải thực hiện đăng ký kết hôn nữa hay không?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình quy định việc đăng ký kết hôn như sau :
Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp lý.
Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
Như vậy, đối chiếu với quy định trên, anh An và chị Bình đã ly hôn, nay muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
Trong phạm vi 3 đời được tính như thế nào ?
Câu hỏi:

Trong phạm vi 3 đời được hiểu như thế nào ?

Trả lời:
Đối với những người được coi là có họ trong phạm vi ba đời, khoản 3 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình quuy định là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ ba.
Những trường hợp nào bị cấm kết hôn ?
Câu hỏi:

Những trường hợp nào bị cấm kết hôn ?

Trả lời:
Luật Hôn nhân và gia đình quy định những trường hợp bị cấm kết hôn như sau:
- Người đang có vợ hoặc có chồng;
- Người mất năng lực hành vi dân sự;
- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Giữa những người cùng giới tính.
Điều kiện được kết hôn ?
Câu hỏi:

Pháp luật quy định nam, nữ muốn kết hôn với nhau cần phải đáp ứng những điều kiện nào?

Trả lời:
Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn.
Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện được quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Cụ thể như sau :
- Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
- Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn được quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình.
Phạt chậm nộp thuế nhà đất như thế nào ?
Câu hỏi:

Hỏi: Tôi ở quận Gò Vấp, mẹ tôi có đi làm hồ sơ nhà đất nhận được giấy thông báo thuế là 336 triệu đống (diện tích đất là 625 mét vuông) vào tháng 11 năm 2008, tuy nhiên do ko có khả năng chi trả và cũng không làm giấy ghi nợ nên hiện nay tôi được biết là tiền phạt tính là 0.05%/ ngày tính từ thời điểm thông báo đến hiện tại là rất nhiều. Tôi muốn hỏi:
- Nay mẹ tôi tuổi đã cao nên muốn cho con (là tôi) vậy tôi phải làm thế nào vì hiện tại không có khả năng chi trả tiền phạt và tiền thuế?
-Tôi có thể làm giấy ghi nợ được không? và giấy nghi nợ bao gồm tiền thuế là 336 triệu và tiền phạt tihn1 từ ngày thông báo đên ngày làm giấy nợ hay có thay đổi gì không?

Trả lời:

Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:

Theo quy định tại khoản 9 điều 2 nghị định 120/2010/NĐ-CP và khoản 1 điều 106 Luật quản lý thuế, trường hợp chậm nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách nhà nước so với thời hạn quy định trong thông báo của cơ quan thuế thì người sử dụng đất phải nộp đủ tiền sử dụng đất và bị xử phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền sử dụng đất chậm nộp.

Theo điều 110 Luật quản lý thuế, thời hiệu xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền sử dụng đất là năm năm kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện.

Như vậy, thời hiệu xử phạt đối với hành vi vi phạm của bạn vẫn còn. Để được nhận giấy chứng nhận, ngoài khoản tiền sử dụng đất phải nộp, bạn còn phải nộp số tiền phạt được nêu trên, trừ trường hợp việc chậm nộp là do gặp sự kiện bất khả kháng (thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ…).

Về việc ghi nợ tiền sử dụng đất và đóng phạt do chậm nộp tiền sử dụng đất:

Căn cứ khoản 8 điều 2 nghị định 120/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30-12-2010, cá nhân được được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất mà chưa có khả năng tài chính để nộp tiền sử dụng đất, thì được ghi "nợ tiền sử dụng đất" trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau khi có đơn đề nghị ghi nợ quyền sử dụng đất.
Khi thanh toán nợ, người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất theo giá đất tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được trả nợ dần khi có khả năng về tài chính trong thời hạn tối đa là 5 năm; sau 5 năm mà chưa trả hết nợ tiền sử dụng đất thì người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất theo giá đất tại thời điểm trả nợ.
Vì vậy, nếu bạn không có khả năng tài chính để nộp tiền sử dụng đất, thì có thể làm đơn đề nghị được ghi nợ tiền sử dụng đất trên giấy chứng nhận, nhưng trước đó bạn phải hoàn tất việc đóng phạt do chậm nộp tiền sử dụng đất.

 Để được chúng tôi tư vấn chi tiết và đầy đủ nhất, bạn nên đến trực tiếp văn phòng chúng tôi và đem theo toàn bộ giấy tờ có liên quan để chúng tôi xem xét và tư vấn cho bạn tốt nhất.

Thân chào bạn!
Ông bà mất không để lại di chúc thì chia tài sản thừa kế thế nào?
Câu hỏi:

Hỏi: Ông bà tôi có 2 người con là mẹ tôi và Dì. Lúc ông bà mất không để lại di chúc. Hiện nay mẹ tôi vẫn còn sống, còn Dì tôi lấy chồng làm vợ thứ 2 và không có con nay đã mất và cũng không để lại di chúc. Xin hỏi trong trường này thì ngôi nhà của ông bà tôi để lại thì người chồng của Dì tôi có được hưởng thừa kế hay không?

Trả lời:
Vì câu hỏi của bạn không được rõ ràng nên chúng tôi tạm hiểu là ông bà bạn mất trước dì bạn và chia làm hai trường hợp như sau:
- Thứ nhất, dì của bạn lấy chồng làm vợ thứ 2 có đăng ký kết hôn với người chồng đó hoặc được công nhận là hôn nhân thực tế (sống chung trước năm 1987) thì người chồng của dì bạn được hưởng thừa kế di sản do ông bà bạn để lại.
- Thứ hai, dì bạn không có đăng ký kết hôn với chồng và không sống chung trước năm 1987 thì người chồng không được hưởng di sản thừa kế của ông bà bạn để lại.
Nếu ông bà bạn mất sau dì bạn thì người chồng dù có đăng ký kết hôn hay không cũng không được hưởng di sản thừa kế của ông bà bạn để lại.
Để được chúng tôi tư vấn chi tiết và đầy đủ nhất, bạn liên hệ số điện thoại bên dưới để chúng tôi tư vấn trực tiếp cho bạn.
Thân chào bạn!
Phân chia di sản thừa kế
Câu hỏi:

Gia đình tôi có 6 chị em.Cha mẹ tôi đột ngột qua đời năm 2000 và 2001 không để lại di chúc,tài sản cha mẹ tôi để lại:464m2 đất và nhà ở.Khi đó các chị gái tôi đã có gia đình ở riêng,2 anh em tôi thì chưa có vợ.Đến năm 2002,các chị em tôi đồng ý thỏa thuận ủy quyền cho anh trai tôi được đứng tên chủ hộ quyền sử dụng đất (hộ khẩu thời điểm này có tên nhiều người trong đó có tôi)để thuận tiện cho việc sinh hoạt gia đình và xã hội,và cũng vay ít vốn làm ăn.Đến năm 2003 tôi có vợ,2004 anh trai tôi có vợ,các chị em tôi yêu cầu anh trai tôi chia tách đất đai do cha mẹ để lại.Anh trai tôi hẹn rày hẹn mai mà không chịu chia đất.Thấm thoát đã trôi qua hơn 10 năm rồi mà các chị em tôi chẳng được quyền lợi gì.Anh tôi cũng biết thời hiệu đã quá 10 năm,nên bây
giờ anh trai tôi không chia tài sản nữa(đến nay anh trai tôi đã tự ý thay đổi hộ khẩu mới chỉ có tên anh trai tôi và vợ,tôi đã tác hộ khẩu riêng nhưng vẫn ở trên mãnh đất cha mẹ để lại)Như vậy theo luật pháp thì
các chị em tôi có được thừa hưởng tài sản của cha mẹ để lại không,các chị em tôi có thể kiện anh trai tôi ra tòa được không.Vợ con anh trai tôi(con riêng của vợ) có được hưởng tai sản trên không(tài sản có trước hôn nhân)Chị em tôi muốn kiện thì làm thế nào.Nhờ luật sư tư vấn,xin cảm ơn.Chúc luật sư sức khỏe.Thân chào

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời anh như sau:
Cha mẹ anh đã mất năm 2001, không để lại di chúc nên theo quy định của pháp luật thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế đã hết, theo quy định tại Điều Điều 645 Bộ luật Dân sự về Thời hiệu khởi kiện về thừa kế: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế". Nên các chị em của anh không thể khởi kiện anh của anh ra tòa để yêu cầu chia di sản thừa kế được. Nhưng có thể khởi kiện anh của anh ra tòa để tranh chấp tài sản chung, theo quy định tại Mục 2.4 Nghị quyết 02/2004NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dân áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, Hôn nhân gia đình quy định như sau: không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.
Đương nhiên Vợ con của anh trai anh không được quyền hưởng di sản của cha mẹ anh để lại. 
Các anh chị em của anh cần chuẩn bị các giấy tờ sau để khởi kiện anh trai anh ra tòa:
Trước khi nộp đơn khởi kiện ra tòa anh cần làm đơn yêu cầu tổ chức hòa giải ở Phường/xã.
Sau đó anh chuẩn bị hồ sơ khởi kiện gồm:
1./ Đơn Khởi kiện (theo mẫu)
2./ CMND, Hộ khẩu bản sao y của nguyên đơn, bị đơn và các người liên quan
3./ Giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất của cha mẹ anh, và sổ đỏ đứng tên anh trai anh
3./ Giấy khai tử của cha mẹ anh, giấy khai sinh của các anh chị em anh
4./ Biên bản hòa giải không thành hoặc không hòa giải được của UBND Phường/xã
Anh nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện (nếu không có yếu tố nước ngoài) nơi có nhà đất của cha mẹ anh để lại.
Nếu có vấn đề gì cần tư vấn thêm hoặc nhờ luật sư hỗ trợ cho anh trong các thủ tục thì anh cứ liên hệ với văn phòng luật sư chúng tôi theo địa chỉ bên dưới.
Thân chào anh! Chúc anh mọi điều tốt lành.
Tư vấn cách làm sổ đỏ
Câu hỏi:

Gia đình mình mua đất tháng 10năm1990 có bản vẻ và giấy tờ là 40 m vuông liền kề 3 hộ ,vách tường riêng.Nhưng mới nay mỉnh đi làm sổ đỏ phải đo lại thi thực tế là 45 m vuông .Phòng Tài Nguyên và Môi Trường bảo tôi phải giải thích lý do tăng diện tích.Mình nói tất cả diện tich từ trước tới giờ vẫn vậy.Mình chỉ cần ra sổ đỏ 40 m vuông . Nhưng Phòng Tài Nguyên và Môi Trường bảo không được và trả hồ sơ .Nay gia đình mình muốn xây lai nhà nhưng kẹt không có sổ đỏ .Nay mình phải làm sao để làm được sổ đỏ đây

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời bạn như sau: 
Những thông tin bạn cung cấp còn chung chung nên chúng tôi không thể trả lời bạn chi tiết được, mỗi một căn nhà có nguồn gốc sử dụng khác nhau và các giấy tờ liên quan khác nhau, cho nên để có thể trả lời bạn chính xác nhất, chúng tôi mong bạn có thể liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn cụ thể hơn. Tuy nhiên, tôi cũng có thể đưa ra một số ý kiến về câu hỏi của bạn như sau:
Bạn liên hệ phòng tiếp nhận và trả hồ sơ của UBND quận 5 nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ở, hồ sơ gồm:
a. 02 bộ (01 bộ gốc và 01 bộ photo):

- Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo mẫu).

 - Giấy tờ mua bán đất năm 1990

- Bản vẽ hiện trạng nhà đất

- Văn bản ủy quyền hợp lệ nếu người sử dụng đất không tự đi nộp hồ sơ.

- Tờ tường trình nguồn gốc sử dụng đất đối với trường hợp không có giấy tờ hợp lệ (có chứng thực chữ ký của UBND phường) (trường hợp của bạn là phải có tờ tường trình này).

- Giấy tờ hộ tịch có liên quan : khai tử, khai sinh (đối với thừa kế).

Cách tính trợ cấp BHXH một lần
Câu hỏi:

Trong thời gian tham gi BH tại cty nếu được hưởng các chế độ như: TS, ÔĐ … thì khi lãnh trợ cấp BHXH 1 lần có phải bị trừ lại số tiền đã được hưởng không? Cách tính trợ cấp BHXH 1 lần như thế nào? VD: nếu tham gia được 1 năm thì mức hưởng là :1,5 lương bình quân tham gia BHXH, nếu tham gia 2 năm thì sẽ lấy lương bình quân như thế nào? - Hai người đang tham gia cùng 1 hồ sơ ở 2 cty khác nhau, khi hưởng trợ cấp BHXH 1 lần và thất nghiệp người có hồ sơ giả có thể lãnh tiền được k? có ảnh hưởng gì đến quyền lợi của người có hồ sơ sai không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:

- Các chế độ như bạn nêu trên thì vẫn lãnh bình thường.

- Cách tính là bình quân các tháng đóng BHXH trong đó có tính tỉ lệ trượt giá.

Ví dụ: năm 2008 đóng với mức 1 triệu đến năm 2012 nhận thì khoảng 1,2 triệu hoặc 1,3 triệu.

- Mức bình quân như đã trình bày trên là tổng thời gian đóng chia số tháng tham gia.

- Trong trường hợp bạn nêu thì phần mềm của trung tâm sẽ không giải quyết thất nghiệp và phần mềm BHXH không giải quyết chế độ 1 lần. 

Công ty ít lao động có buộc phải tham gia BHXH
Câu hỏi:

Cty tôi thành lập năm 2008 và đến nay chưa đăng ký đóng BHXH cho NLD ( 5 người) nhưng DN của tôi có chi trả 20% cho NLD bây giờ tôi muốn tham gia đóng BHXH cho NLD thì thủ tục để tham gia BHXH như thế nào? Và cty tôi có bị truy thu từ khi thành lập cho đến nay k?

Trả lời:
Bạn đến phòng tiếp nhận hoặc huyện, thị để được hướng dẫn khi đi mang theo GPKD của đơn vị, tạm thời tổ chức BHXH không có truy thu như bạn trình bày, tuy nhiên nếu có thanh tra kiểm tra thì sẽ truy thu. 

Công ty có phải trả số BHXH
Câu hỏi:

Tôi làm việc tại cty A, có ký HĐ đào tạo 2 năm, nhưng tôi làm chưa hết HĐ ( làm được 1.5 năm) , Tôi tự ý thôi việc và đã làm việc tại cty khác . Tôi muốn đóng tiếp vào sổ BHXH cũ nhưng cty A không đồng ý cho tôi nhận lại sổ BHXH với lý do là tôi nghỉ ngang . Cho Tôi hỏi cty không trả lại sổ cho người lđ là đúng hay k? tôi nên làm gì để nhận lại sổ BHXH ( cty A yêu cầu tôi phải bồi thường hợp động đào tạo , nhưng tôi không có khả năng chi trả )

Trả lời:
Trong trường hợp này thì DN không có lý do gì mà không trả sổ cho NLĐ khi đó NLĐ có thể kiện công ty ra tòa án.
Song trong trường hợp này bạn cần lưu ý DN có thể kiện bạn vì vi phạm hợp đồng.
Pháp luật quy định về xin thôi giữ chức vụ quản lý hoặc miễn nhiệm đối với viên chức quản lý như thế nào?
Câu hỏi:

Ông Nguyễn Văn A đang là Quản đốc phân xưởng sản xuất thuộc một doanh nghiệp nhà nước, nhưng hiện nay sức khỏe của ông không được tốt do ông vừa bị tai biến mạch máu não phải nằm viện điều trị một thời gian. Vậy xin hỏi, ông Nguyễn Văn A có thể xin thôi giữ chức Quản đốc không? Pháp luật quy định về xin thôi giữ chức vụ quản lý hoặc miễn nhiệm đối với viên chức quản lý như thế nào?

Trả lời:
Điều 38 Luật Viên chức quy định các trường hợp viên chức quản lý có thể xin thôi giữ chức vụ quản lý hoặc được miễn nhiệm như sau:
- Không đủ sức khoẻ;
- Không đủ năng lực, uy tín;
- Theo yêu cầu nhiệm vụ;
- Vì lý do khác.
Viên chức quản lý xin thôi giữ chức vụ quản lý nhưng chưa được người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc cấp có thẩm quyền đồng ý cho thôi giữ chức vụ quản lý vẫn phải tiếp tục thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Viên chức quản lý sau khi được thôi giữ chức vụ quản lý hoặc miễn nhiệm được người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc cấp có thẩm quyền bố trí vào vị trí việc làm theo nhu cầu công tác, phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức.
Thẩm quyền, trình tự, thủ tục xem xét, quyết định việc xin thôi giữ chức vụ quản lý, miễn nhiệm viên chức quản lý được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Đối chiếu với những quy định trên, ông Nguyễn Văn A có thể xin thôi giữ chức vụ quản đốc với lý do không đủ sức khỏe và ông sẽ được bố trí vào vị trí việc làm khác theo nhu cầu công tác, phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của mình. 
Viên chức được cử đi đào tạo có được hưởng tiền lương ?
Câu hỏi:

Tôi đang là giảng viên một Trường đại học. Nay tôi được trường cử đi đào tạo thạc sỹ ở nước ngoài. Vậy, trong thời gian đi học tôi có được hưởng tiền lương không? Pháp luật quy định như thế nào về trách nhiệm và quyền lợi của viên chức trong đào tạo, bồi dưỡng?

Trả lời:
Điều 35 Luật Viên chức quy định như sau:
Viên chức được cử tham gia đào tạo, bồi dưỡng được hưởng tiền lương và phụ cấp theo quy định của pháp luật và quy chế của đơn vị sự nghiệp công lập; thời gian đào tạo, bồi dưỡng được tính là thời gian công tác liên tục, được xét nâng lương. Viên chức tham gia đào tạo, bồi dưỡng phải chấp hành nghiêm chỉnh quy chế đào tạo, bồi dưỡng và chịu sự quản lý của cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Viên chức được đơn vị sự nghiệp công lập cử đi đào tạo nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc hoặc tự ý bỏ việc phải đền bù chi phí đào tạo theo quy định của Chính phủ.
Đối chiếu với quy định trên thì trong thời gian học ở nước ngoài anh (chị) vẫn được hưởng tiền lương và các khoản phụ cấp khác (nếu có) theo quy định của pháp luật và quy chế của trường.
Biệt phái viên chức là gì?
Câu hỏi:

Biệt phái viên chức là gì? Cơ quan tôi đang có kế hoạch thực hiện biệt phái một số viên chức đến các tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn để làm việc. Xin hỏi, trong trường hợp tôi đang nuôi con nhỏ 02 tuổi thì có thuộc diện biệt phái không?

Trả lời:
Điều 36 Luật Viên chức quy định về biệt phái viên chức như sau:
Biệt phái viên chức là việc viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập này được cử đi làm việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khác theo yêu cầu nhiệm vụ trong một thời hạn nhất định. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập quyết định việc biệt phái viên chức.
Thời hạn cử biệt phái không quá 03 năm, trừ một số ngành, lĩnh vực do Chính phủ quy định.
Viên chức được cử biệt phái phải chịu sự phân công công tác và quản lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi được cử đến.
Trong thời gian biệt phái, đơn vị sự nghiệp công lập cử viên chức biệt phái có trách nhiệm bảo đảm tiền lương và các quyền lợi khác của viên chức.
Viên chức được cử biệt phái đến miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng chính sách hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.
Hết thời hạn biệt phái, viên chức trở về đơn vị cũ công tác. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập cử viên chức biệt phái có trách nhiệm tiếp nhận và bố trí việc làm cho viên chức hết thời hạn biệt phái phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức.
Không thực hiện biệt phái viên chức nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Như vậy, đối chiếu với quy định trên thì chị đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên không thuộc diện phải đi biệt phái thời gian này.
Viên chức có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc trong trường hợp nào?
Câu hỏi:

Viên chức có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc trong trường hợp nào?

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 4, 5 và 6 Điều 29 Luật Viên chức thì viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nhưng phải thông báo bằng văn bản cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập biết trước ít nhất 45 ngày; trường hợp viên chức ốm đau hoặc bị tai nạn đã điều trị 06 tháng liên tục thì phải báo trước ít nhất 03 ngày.
Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp sau:
a) Không được bố trí theo đúng vị trí việc làm, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm các điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng làm việc;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc không được trả lương đúng thời hạn theo hợp đồng làm việc;
c) Bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng;
đ) Viên chức nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở chữa bệnh;
e) Viên chức ốm đau hoặc bị tai nạn đã điều trị từ 03 tháng liên tục mà khả năng làm việc chưa hồi phục.
Viên chức phải thông báo bằng văn bản về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập biết trước ít nhất 03 ngày đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, đ và e nêu trên; ít nhất 30 ngày đối với trường hợp quy định tại điểm d nêu trên.   
Đơn phương chấm dứt hợp đồng với Viên chức
Câu hỏi:

Chị H là viên chức thuộc đơn vị sự nghiệp công lập. Chị H đang có thai, do sức khỏe yếu nên chị thường phải nghỉ làm. Vì vậy, Thủ trưởng đơn vị đã ra quyết định chấm dứt hợp đồng làm việc đối với chị. Chị H không nhất trí, theo chị việc chấm đứt hợp đồng làm việc khi chị đang mang thai là vi phạm pháp luật. Xin hỏi, pháp luật quy định trong trường hợp nào đơn vị sự nghiệp công lập không được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức?

Trả lời:
Theo khoản 3 Điều 29 Luật Viên chức thì người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập không được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức trong các trường hợp sau:
a) Viên chức ốm đau hoặc bị tai nạn, đang điều trị bệnh nghề nghiệp theo quyết định của cơ sở chữa bệnh, trừ trường hợp viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 12 tháng liên tục, viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 06 tháng liên tục mà khả năng làm việc chưa hồi phục;
b) Viên chức đang nghỉ hàng năm, nghỉ về việc riêng và những trường hợp nghỉ khác được người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập cho phép;
c) Viên chức nữ đang trong thời gian có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trừ trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt động.
Như vậy, việc Thủ trưởng đơn vị đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc đối với chị H khi chị đang có thai với lý do chị nghỉ việc nhiều để dưỡng thai là vi phạm quy định của pháp luật lao động và Luật Viên chức.
Chị H có thể yêu cầu công đoàn cơ sở nơi chị đang làm việc bảo vệ quyền lợi cho chị.
Chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên chức bị bệnh ?
Câu hỏi:

Chị T là viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập X, không may bị bệnh nặng, đã điều trị 12 tháng nhưng vẫn chưa bình phục. Đơn vị sự nghiệp công lập X đã chấm dứt hợp đồng làm việc đối với chị T và thông báo khi nào sức khoẻ bình phục thì được xem xét để ký kết tiếp hợp đồng làm việc. Xin hỏi, việc làm của đơn vị sự nghiệp công lập X có đúng quy định của pháp luật không?

Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 29 Luật Viên chức thì đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức trong các trường hợp sau:
a) Viên chức có 02 năm liên tiếp bị phân loại đánh giá ở mức độ không hoàn thành nhiệm vụ;
b) Viên chức bị buộc thôi việc theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 57 của Luật Viên chức;
c) Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 12 tháng liên tục, viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 06 tháng liên tục mà khả năng làm việc chưa hồi phục. Khi sức khỏe của viên chức bình phục thì được xem xét để ký kết tiếp hợp đồng làm việc;
d) Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ làm cho đơn vị sự nghiệp công lập buộc phải thu hẹp quy mô, khiến vị trí việc làm mà viên chức đang đảm nhận không còn;
đ) Khi đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt động theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, trong trường hợp này, đơn vị sự nghiệp công lập X có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với chị T. Theo quy định tại khoản 2 Điều này thì khi đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với chị T, người đứng đầu của đơn vị sự nghiệp công lập X phải báo cho chị T biết trước ít nhất 45 ngày nếu hợp đồng làm việc với chị T là hợp đồng không xác định thời hạn hoặc ít nhất 30 ngày nếu hợp đồng làm việc với chị là hợp đồng làm việc xác định thời hạn.   
Nếu trường hợp chị T là viên chức do cơ quan quản lý đơn vị sự nghiệp công lập X thực hiện tuyển dụng thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc do người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập X quyết định sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan quản lý đơn vị sự nghiệp công lập X.
Thay đổi nội dung, ký kết tiếp, tạm hoãn và chấm dứt hợp đồng làm việc được quy định như thế nào?
Câu hỏi:

Thay đổi nội dung, ký kết tiếp, tạm hoãn và chấm dứt hợp đồng làm việc được quy định như thế nào?

Trả lời:
Theo Điều 28 Luật Viên chức thì thay đổi nội dung, ký kết tiếp, tạm hoãn và chấm dứt hợp đồng làm việc được quy định như sau:
1. Trong quá trình thực hiện hợp đồng làm việc, nếu một bên có yêu cầu thay đổi nội dung hợp đồng làm việc thì phải báo cho bên kia biết trước ít nhất 03 ngày làm việc. Khi đã chấp thuận thì các bên tiến hành sửa đổi, bổ sung nội dung liên quan của hợp đồng làm việc. Trong thời gian tiến hành thoả thuận, các bên vẫn phải tuân theo hợp đồng làm việc đã ký kết. Trường hợp không thoả thuận được thì các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng làm việc đã ký kết hoặc thoả thuận chấm dứt hợp đồng làm việc.
2. Đối với hợp đồng làm việc xác định thời hạn, trước khi hết hạn hợp đồng làm việc 60 ngày, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập căn cứ vào nhu cầu của đơn vị, trên cơ sở đánh giá khả năng hoàn thành nhiệm vụ của viên chức, quyết định ký kết tiếp hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên chức.
3. Việc tạm hoãn thực hiện hợp đồng làm việc, chấm dứt hợp đồng làm việc được thực hiện theo quy định của pháp luật về lao động.
4. Khi viên chức chuyển công tác đến cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thì chấm dứt hợp đồng làm việc và được giải quyết các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
5. Khi viên chức được cấp có thẩm quyền bổ nhiệm giữ chức vụ được pháp luật quy định là công chức tại đơn vị sự nghiệp công lập hoặc có quyết định nghỉ hưu thì hợp đồng làm việc đương nhiên chấm dứt.
Quy định chế độ tập sự của Viên chức
Câu hỏi:

Luật Viên chức quy định chế độ tập sự đối với viên chức như thế nào?

Trả lời:
Theo Điều 27 của Luật Viên chức thì chế độ tập sự được quy định như sau:
1. Người trúng tuyển viên chức phải thực hiện chế độ tập sự, trừ trường hợp đã có thời gian từ đủ 12 tháng trở lên thực hiện chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm được tuyển dụng.
2. Thời gian tập sự từ 03 tháng đến 12 tháng và phải được quy định trong hợp đồng làm việc.
Loại hợp đồng của Viên chức
Câu hỏi:

Vừa qua tôi trúng kỳ thi tuyển vào làm việc tại Phòng Đào tạo trường Đại học T. Tôi đã ký hợp đồng làm việc với thời hạn là 12 tháng. Xin hỏi, hợp đồng làm việc được quy định trong Luật Viên chức như thế nào?

Trả lời:
Theo khoản 5 Điều 3 Luật Viên chức thì Hợp đồng làm việc là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa viên chức hoặc người được tuyển dụng làm viên chức với người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập về vị trí việc làm, tiền lương, chế độ đãi ngộ, điều kiện làm việc quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
Điều 25 của Luật Viên chức quy định các loại hợp đồng làm việc như sau:
1. Hợp đồng làm việc xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng. Hợp đồng làm việc xác định thời hạn áp dụng đối với người trúng tuyển vào viên chức, trừ trường hợp cán bộ, công chức được chuyển sang làm viên chức tại đơn vị sự nghiệp công lập khi đáp ứng các điều kiện theo quy định của Luật này và công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập khi hết thời hạn bổ nhiệm mà không được bổ nhiệm lại nhưng vẫn tiếp tục làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập đó thì được chuyển làm viên chức và bố trí công tác phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ.
2. Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn áp dụng đối với trường hợp đã thực hiện xong hợp đồng làm việc xác định thời hạn và trường hợp cán bộ, công chức chuyển thành viên chức theo quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 58 của Luật này.
Phương thức tuyển dụng viên chức
Câu hỏi:

Xin hỏi phương thức tuyển dụng và tổ chức tuyển dụng đối với viên chức được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 22, 23 Luật Viên chức thì việc tuyển dụng viên chức được thực hiện thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển.
Việc tổ chức tuyển dụng được thực hiện như sau:
- Đối với đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện việc tuyển dụng viên chức và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
- Đối với đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ, cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện việc tuyển dụng viên chức hoặc phân cấp cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện việc tuyển dụng.
Căn cứ vào kết quả tuyển dụng, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập ký kết hợp đồng làm việc với người trúng tuyển vào viên chức.
Những trường hợp không được đăng ký dự tuyển viên chức?
Câu hỏi:

Tôi đang làm hồ sơ đăng ký dự tuyển vào làm việc tại một đơn vị sự nghiệp công lập. Tôi muốn hỏi đăng ký dự tuyển viên chức cần những điều kiện gì? Những trường hợp nào không được đăng ký dự tuyển viên chức?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 22 Luật Viên chức thì người có đủ các điều kiện sau đây không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo được đăng ký dự tuyển viên chức:
- Có quốc tịch Việt Nam và cư trú tại Việt Nam;
- Từ đủ 18 tuổi trở lên. Đối với một số lĩnh vực hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, tuổi dự tuyển có thể thấp hơn theo quy định của pháp luật; đồng thời, phải có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật;
- Có đơn đăng ký dự tuyển;
- Có lý lịch rõ ràng;
- Có văn bằng, chứng chỉ đào tạo, chứng chỉ hành nghề hoặc có năng khiếu, kỹ năng phù hợp với vị trí việc làm;
- Đủ sức khoẻ để thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ;
- Đáp ứng các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí việc làm do đơn vị sự nghiệp công lập xác định nhưng không được trái với quy định của pháp luật.
* Những người sau đây không được đăng ký dự tuyển viên chức:
- Mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đang chấp hành bản án, quyết định về hình sự của Tòa án; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng.
Như vậy, để được đăng ký dự tuyển viên chức bạn cần phải đáp ứng đủ các điều kiện trên.
Từ chối nhận nhiệm vụ có vi phạm luật viên chức ?
Câu hỏi:

Anh A là bác sĩ tại Bệnh viện tỉnh C, được Lãnh đạo Bệnh viện cử xuống trạm y tế xã để phòng, chống dịch bệnh nhưng đã viện lý do gia đình để từ chối nhận nhiệm vụ được giao. Xin hỏi anh A có vi phạm những việc viên chức không được làm không?

Trả lời:
Điều 19 Luật Viên chức quy định những việc viên chức không được làm như sau:
1. Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác công việc hoặc nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc; tham gia đình công.
2. Sử dụng tài sản của cơ quan, tổ chức, đơn vị và của nhân dân trái với quy định của pháp luật.
3. Phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.
4. Lợi dụng hoạt động nghề nghiệp để tuyên truyền chống lại chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hoặc gây phương hại đối với thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân và xã hội.
5. Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác trong khi thực hiện hoạt động nghề nghiệp.
6. Những việc khác viên chức không được làm theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Như vậy, hành vi viện lý do gia đình để từ chối nhận nhiệm vụ được giao của anh A là đã vi phạm vào những việc mà viên chức không được làm.
Xử lý kỷ luật giáo viên
Câu hỏi:

Tôi là hiệu trưởng Trường tiểu học TH. Trong trường học do tôi quản lý đã xảy ra trường hợp giáo viên A phạt một em học sinh nói chuyện riêng trong giờ học bằng hình thức dán băng keo vào miệng. Hiện nay, thanh tra ngành giáo dục đang tiến hành kiểm tra vụ việc và đưa ra hình thức kỷ luật đối với giáo viên A và tôi cũng phải chịu trách nhiệm về việc này. Xin hỏi, pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?

Trả lời:
Điều 18 Luật Viên chức quy định nghĩa vụ của viên chức quản lý như sau:
Viên chức quản lý thực hiện các nghĩa vụ quy định tại Điều 16, Điều 17 của Luật này và các nghĩa vụ sau:
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị theo đúng chức trách, thẩm quyền được giao;
- Thực hiện dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết, đạo đức nghề nghiệp trong đơn vị được giao quản lý, phụ trách;
- Chịu trách nhiệm hoặc liên đới chịu trách nhiệm về việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp của viên chức thuộc quyền quản lý, phụ trách;
- Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực; quản lý, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất, tài chính trong đơn vị được giao quản lý, phụ trách;
- Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong đơn vị được giao quản lý, phụ trách.
Như vậy, theo quy định trên thì ông (bà) là người quản lý nên phải liên đới chịu trách nhiệm về việc thực hiện hoạt động nghề nghiệp của giáo viên A thuộc quyền quản lý, phụ trách của mình.
Giáo viên công lập có được mở trường dân lập
Câu hỏi:

Tôi là giáo viên Trường trung học phổ thông. Hiện nay tôi cùng một số người bạn góp vốn mở Trường phổ thông dân lập. Trong trường hợp này tôi có được quyền tham gia quản lý trường phổ thông dân lập hay không?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 14 Luật Viên chức thì quyền của viên chức về hoạt động kinh doanh và làm việc ngoài thời gian quy định như sau:
1. Được hoạt động nghề nghiệp ngoài thời gian làm việc quy định trong hợp đồng làm việc, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Được ký hợp đồng vụ, việc với cơ quan, tổ chức, đơn vị khác mà pháp luật không cấm nhưng phải hoàn thành nhiệm vụ được giao và có sự đồng ý của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập.
3. Được góp vốn nhưng không tham gia quản lý, điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.
Như vậy, đối chiếu với quy định pháp luật trên thì ông (bà) được quyền góp vốn thành lập nhưng không được tham gia quản lý trường phổ thông dân lập.
Chế độ nghỉ phép của viên chức
Câu hỏi:

Tôi là một viên chức hiện đang công tác tại khu vực miền núi gần biên giới Việt - Lào. Do đặc thù công việc nên tôi không có điều kiện về quê thăm gia đình. Nay tôi có nhu cầu gộp các ngày nghỉ phép của mình trong 03 năm liên tiếp để có thời gian ở bên vợ con được lâu hơn có được không?

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật Viên chức thì viên chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa hoặc trường hợp đặc biệt khác, nếu có yêu cầu, được gộp số ngày nghỉ phép của 02 năm để nghỉ một lần; nếu gộp số ngày nghỉ phép của 03 năm để nghỉ một lần thì phải được sự đồng ý của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập.
Như vậy, trường hợp của anh (chị) nếu có yêu cầu và được sự đồng ý của người đứng đầu cơ quan mình làm việc thì có thể gộp số ngày nghỉ phép của 03 năm để nghỉ một lần.
Tiền lương của Viên chức
Câu hỏi:

Xin cho biết quyền của viên chức về tiền lương và các chế độ liên quan đến tiền lương?

Trả lời:
Quyền của viên chức về tiền lương và các chế độ liên quan đến tiền lương được quy định tại Điều 12 Luật Viên chức như sau:
1. Được trả lương tương xứng với vị trí việc làm, chức danh nghề nghiệp, chức vụ quản lý và kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được giao; được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi trong trường hợp làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc làm việc trong ngành nghề có môi trường độc hại, nguy hiểm, lĩnh vực sự nghiệp đặc thù.
2. Được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và chế độ khác theo quy định của pháp luật và quy chế của đơn vị sự nghiệp công lập.
3. Được hưởng tiền thưởng, được xét nâng lương theo quy định của pháp luật và quy chế của đơn vị sự nghiệp công lập.
Các quyền của viên chức
Câu hỏi:

Xin cho biết các quyền của viên chức về hoạt động nghề nghiệp?

Trả lời:
Điều 11 Luật Viên chức quy định các quyền của viên chức về hoạt động nghề nghiệp gồm:
a. Được pháp luật bảo vệ trong hoạt động nghề nghiệp.
b. Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ.
c. Được bảo đảm trang bị, thiết bị và các điều kiện làm việc.
d. Được cung cấp thông tin liên quan đến công việc hoặc nhiệm vụ được giao.
đ. Được quyết định vấn đề mang tính chuyên môn gắn với công việc hoặc nhiệm vụ được giao.
e. Được quyền từ chối thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ trái với quy định của pháp luật.
f. Được hưởng các quyền khác về hoạt động nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.
Các loại đơn vị sự nghiệp công lập
Câu hỏi:

Xin cho biết thế nào là một đơn vị sự nghiệp công lập? Có mấy loại đơn vị sự nghiệp công lập?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 9 Luật Viên chức thì:
Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước.
Đơn vị sự nghiệp công lập gồm:
- Đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp công lập được giao quyền tự chủ);
- Đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự (sau đây gọi là đơn vị sự nghiệp công lập chưa được giao quyền tự chủ).
Phí phá sản được quy định như thế nào?
Câu hỏi:

Xin luật sư cho tôi hỏi, tôi muốn nộp đơn yêu cầu tòa án mở thủ tục phá sản cho doanh nghiệp của tôi nhưng không biết phí phá sản được quy định như thế nào? nhờ luật sư tư vấn giúp, xin cảm ơn?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
 
Theo qui định tại khoản 2 Điều 21 LPS thì người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp tiền tạm ứng phí phá sản, trừ trường hợp người nộp đơn là người lao động.
 
Căn cứ vào Danh mục mức Án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án 2009 thì Lệ phí nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Tòa thụ lý đơn yêu cầu kể từ ngày người nộp đơn xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng phí phá sản và thông báo cho doanh nghiệp đó biết.
Xin lưu ý bạn, phí trên chỉ là lệ phí nộp đơn thôi, còn phí phá sản thì sẽ do Tòa án quyết định tùy thuộc vào từng loại hồ sơ yêu cầu tuyên bố phá sản mà có những mức phí phá sản khác nhau.

Chào bạn
 
Ai có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Câu hỏi:

Thưa luật sư, cho tôi hỏi, tôi muốn đòi nợ một công ty mắc nợ tôi 10 tỷ đồng bằng cách yêu cầu tòa tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp đó có được không? ai có quyền nộp đơn yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp?Hồ sơ nộp cho tòa gồm những gì? Xin cảm ơn luật sư

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:

Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

 
Theo qui định tại Điều 13, 14, 15, 16,17 và 18 Luật phá sản, khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì các đối tượng sau đây có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
 
- Các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần
 
- Người lao động hoặc thông qua đại diện công đoàn
 
- Người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp
 
- Đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước
 
- Cổ đông công ty cổ phần
 
- Thành viên hợp danh công ty hợp danh
 
Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có nội dung chính sau đây:
 
- Ngày, tháng, năm làm đơn
 
- Tên, địa chỉ của người làm đơn
 
- Tên, địa chỉ doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
 
- Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc bảo đảm một phần đến hạn mà không được doanh nghiệp thanh toán
 
- Quá trình đòi nợ
 
- Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản
 
- Các tài liệu, giấy tờ gửi kèm theo đơn yêu cầu như báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh, báo cáo các biện pháp khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán, bảng kê chi tiết tài sản, danh sách các chủ nợ, danh sách người mắc nợ, danh sách các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.
Tòa án nào được quyền tuyên bố phá sản
Câu hỏi:

Công ty tôi được thành lập năm 2008, tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay đã mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, xin Luật sư cho tôi hỏi Tòa án nào có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản đối với công ty tôi? Xin cảm ơn luật sư

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Luật phá sản qui định Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh đó.
 
Việc tiến hành thủ tục phá sản tại Toàn án nhân dân cấp tỉnh do một Thẩm phán hoặc tổ Thẩm phán gồm ba Thẩm phán phụ trách. Giúp việc cho Thẩm phán là Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm có một chấp hành viên, một cán bộ Tòa án, một đại diện chủ nợ, một đại diện hợp pháp của doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản và đại diện công đoàn, đại diện người lao động, đại diện cơ quan chuyên môn ( nếu cần thiết).
 
Nguyên tắc và chế độ làm việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản theo qui định tại Điều 20 Nghị định 67/2006/NĐ-CP hướng dẫn áp dụng Luật phá sản đối với Doanh nghiệp đặc biệt và Tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.

Thân chào bạn
Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Câu hỏi:

Xin Quý luật sư cho tôi biết Thế nào là doanh nghiệp "lâm vào tình trạng phá sản" ?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo qui định tại Điều 3 Luật Phá sản 2004, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản.
 
Khoản 2 Mục I Nghị Quyết số 03 năm 2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ( NQ 3/2005/NQ-HĐTP) hướng dẫn thi hành một số qui định của Luật Phá sản giải thích : Doanh nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi có đầy đủ các điều kiện sau:
 
a. Có các khoản nợ tới hạn
 
Các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm) đã rõ ràng được các bên xác nhận, có đầy đủ giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp;
 
b. Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán, nhưng doanh nghiệp không có khả năng thanh toán.
 
Yêu cầu của các chủ nợ thanh toán các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp thanh toán ( như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp…)
 
Vậy “chủ nợ có bảo đảm” là gì ? chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba. Dễ dàng nhận thấy rằng hầu hết các ngân hàng thương mại đều yêu cầu người vay tiền phải có tài sản thế chấp hoặc cầm cố để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán trong trường hợp người đi vay không có khả năng trả nợ hoặc trả nợ không đúng hạn. Do đó, Luật Phá sản chỉ đề cập đến các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần là đối tượng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Đây là đối tượng chịu nhiều rủi ro nhất, khả năng bị thiệt hại nhiều nhất.
 
Sửa tờ khai quá hạn như thế nào ?
Câu hỏi:

Trường hợp người khai hải quan, người nộp thuế khai báo với cơ quan hải quan để sửa chữa, khai bổ sung hồ sơ nhưng đã quá thời hạn quy định thì xử lý như thế nào?

Trả lời:
Trường hợp người khai hải quan, người nộp thuế tự phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp có sai sót (sai sót về tính toán số tiền thuế phải nộp; sai sót về trị giá, xuất xứ, mã số, mức thuế suất, số tiền thuế phải nộp); tự giác khai báo trước khi cơ quan hải quan thực hiện kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế nhưng quá thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan; người khai hải quan, người nộp thuế có đủ cơ sở chứng minh và cơ quan hải quan có đủ cơ sở, điều kiện kiểm tra, xác định tính chính xác và hợp pháp của việc khai báo thì xử lý như sau:
1. Người khai hải quan, người nộp thuế thực hiện việc kê khai như trường hợp khai bổ sung hướng dẫn tại khoản 2, khoản 3, điểm a khoản 4 Điều 12 Thông tư 194/2010/TT-BTC; nộp đủ số tiền thuế thiếu theo thời hạn nộp thuế như đối với số tiền thuế tự khai, tự tính khi làm thủ tục hải quan, số tiền phạt chậm nộp (nếu có), chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan hải quan;
2. Cơ quan hải quan có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ kê khai của người khai hải quan, người nộp thuế như trường hợp khai bổ sung hướng dẫn tại điểm b khoản 4 Điều 12 Thông tư 194/2010/TT-BTC; xử lý vi phạm hành chính theo quy định và ghi chú vào văn bản khai bổ sung về việc xử phạt. Trường hợp tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế phải nộp thì cơ quan hải quan xử lý lại số tiền thuế nộp thừa theo quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế.
 
Khi làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, người khai hải quan nộp, xuất trình cho cơ quan hải quan hồ sơ hải quan theo quy định tại Khoản 1 Điều 11 Thông tư 194/2010/TT-BTC gồm các chứng từ sau:
1. Tờ khai hải quan: nộp 02 bản chính;
2. Hợp đồng mua bán hàng hóa (hợp đồng được xác lập bằng văn bản hoặc bằng các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm: điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu) đối với hàng hóa xuất khẩu có thuế xuất khẩu, hàng xuất khẩu có yêu cầu thanh khoản, hàng hóa có quy định về thời điểm liên quan đến hợp đồng xuất khẩu: nộp 01 bản chính hoặc 01 bản sao.
Hợp đồng mua bán hàng hoá phải là bản tiếng Việt hoặc bản tiếng Anh, nếu là ngôn ngữ khác thì người khai hải quan phải nộp kèm bản dịch ra tiếng Việt và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung bản dịch.
3. Tuỳ trường hợp cụ thể dưới đây, người khai hải quan nộp thêm, xuất trình các chứng từ sau:
3.1. Bản kê chi tiết hàng hoá đối với trường hợp hàng hoá có nhiều chủng loại hoặc đóng gói không đồng nhất: nộp 01 bản chính;
3.2. Giấy phép xuất khẩu đối với hàng hóa phải có giấy phép xuất khẩu theo quy định của pháp luật: nộp 01 bản chính nếu xuất khẩu một lần hoặc bản sao khi xuất khẩu nhiều lần và phải xuất trình bản chính để đối chiếu, lập phiếu theo dõi trừ lùi;
3.3. Các chứng từ khác theo quy định cụ thể tại các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, Ngành có liên quan;
3.4. Trường hợp hàng hoá thuộc đối tượng được miễn thuế xuất khẩu, ngoài các giấy tờ nêu trên, phải có thêm:
- Giấy báo trúng thầu hoặc giấy chỉ định thầu kèm theo hợp đồng cung cấp hàng hoá, trong đó có quy định giá trúng thầu hoặc giá cung cấp hàng hoá không bao gồm thuế xuất khẩu (đối với trường hợp tổ chức, cá nhân trúng thầu xuất khẩu); hợp đồng uỷ thác xuất khẩu hàng hoá, trong đó có quy định giá cung cấp theo hợp đồng uỷ thác không bao gồm thuế xuất khẩu (đối với trường hợp uỷ thác xuất khẩu): nộp 01 bản sao, xuất trình bản chính trong lần xuất khẩu đầu tiên tại Chi cục Hải quan nơi làm thủ tục xuất khẩu để đối chiếu;
- Giấy tờ khác chứng minh hàng hóa xuất khẩu thuộc đối tượng miễn thuế;
- Bảng kê danh mục, tài liệu của hồ sơ đề nghị miễn thuế.
 

Trách nhiệm của người khai hải quan và cơ quan hải quan trong việc xử lý hồ sơ sửa chữa, khai bổ sung được quy định như thế nào?
Câu hỏi:

Trách nhiệm của người khai hải quan và cơ quan hải quan trong việc xử lý hồ sơ sửa chữa, khai bổ sung được quy định như thế nào?

Trả lời:
1. Trách nhiệm của người khai hải quan:
1.1. Khai chính xác, trung thực, đầy đủ các yếu tố, căn cứ khai bổ sung trong văn bản khai bổ sung;
1.2. Tính số tiền thuế khai bổ sung, số tiền phạt chậm nộp (nếu có) phải nộp do khai bổ sung;
1.3. Nộp đủ hồ sơ cho cơ quan hải quan trong thời hạn được sửa chữa, khai bổ sung theo quy định tại Điều 34 Luật Quản lý thuế, khoản 2 Điều 22 Luật Hải quan;
          1.4. Thực hiện thông báo của cơ quan hải quan trên văn bản sửa chữa, khai bổ sung;
          1.5. Trường hợp khai bổ sung làm tăng số tiền thuế phải nộp, người nộp thuế phải nộp đầy đủ, đúng thời hạn số tiền thuế, tiền phạt chậm nộp (nếu có) theo đúng quy định;
1.6. Trường hợp khai bổ sung làm giảm số tiền thuế phải nộp, người nộp thuế có quyền đề nghị cơ quan hải quan nơi khai bổ sung xử lý số tiền nộp thừa theo hướng dẫn tại Điều 24 Thông tư này.
2. Trách nhiệm của cơ quan hải quan:
2.1. Ghi rõ ngày, giờ tiếp nhận hồ sơ sửa chữa, khai bổ sung đối với trường hợp sửa chữa, khai bổ sung theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 34 Luật Quản lý thuế, khoản 2 Điều 22 Luật Hải quan. Ghi rõ ngày tiếp nhận hồ sơ khai bổ sung đối với trường hợp khai bổ sung theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 34 Luật Quản lý thuế;
2.2. Kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của hồ sơ sửa chữa, khai bổ sung và thông báo kết quả kiểm tra trên văn bản sửa chữa, khai bổ sung; trả cho người khai hải quan 01 bản, lưu 01 bản;
2.3. Thông báo kết quả kiểm tra hồ sơ sửa chữa, khai bổ sung trong thời hạn sau đây:
2.3.1. Trong thời hạn tám giờ làm việc kể từ khi tiếp nhận đủ hồ sơ sửa chữa, khai bổ sung đối với trường hợp sửa chữa, khai bổ sung trước thời điểm cơ quan hải quan kiểm tra thực tế hàng hóa hoặc quyết định miễn kiểm tra thực tế hàng hóa;
2.3.2. Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận đủ hồ sơ khai bổ sung đối với trường hợp khai bổ sung trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan nhưng trước khi cơ quan hải quan thực hiện kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế.
Việc sửa chữa tờ khai, khai bổ sung hồ sơ hải quan được thực hiện trong các trường hợp nào?
Câu hỏi:

Việc sửa chữa tờ khai, khai bổ sung hồ sơ hải quan được thực hiện trong các trường hợp nào?

Trả lời:
Việc sửa chữa tờ khai, khai bổ sung hồ sơ hải quan được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
1. Sửa chữa tờ khai hải quan, khai bổ sung hồ sơ hải quan trước thời điểm kiểm tra thực tế hàng hoá hoặc trước khi quyết định miễn kiểm tra thực tế hàng hoá theo quy định tại khoản 3, Điều 9 Nghị định số 154/2005/NĐ-CP;
2. Khai bổ sung hồ sơ hải quan trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan đối với các nội dung có sai sót gây ảnh hưởng đến số tiền thuế phải nộp, nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Sai sót do người nộp thuế, người khai hải quan tự phát hiện, khai báo với cơ quan hải quan;
b) Thời điểm khai báo trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan nhưng trước khi cơ quan hải quan thực hiện kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế;
c) Có sai sót về tính toán số tiền thuế phải nộp; sai sót về trị giá, xuất xứ, mã số, mức thuế suất, số tiền thuế phải nộp theo hồ sơ hải quan đã nộp cho cơ quan hải quan;
d) Người khai hải quan, người nộp thuế phải có đủ cơ sở chứng minh và cơ quan hải quan có đủ cơ sở, điều kiện kiểm tra, xác định tính trung thực, chính xác và hợp pháp của việc khai bổ sung.
Khai hải quan đối với hàng hóa có nhiều hợp đồng ?
Câu hỏi:

Việc khai hải quan đối với hàng hoá có nhiều hợp đồng/đơn hàng được quy định như thế nào?

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 10 Thông tư 194/2010/TT-BTC thì hàng hoá có nhiều hợp đồng/đơn hàng khai hải quan như sau:
1. Một mặt hàng nhập khẩu có nhiều hợp đồng/đơn hàng, có một hoặc nhiều hoá đơn của một người bán hàng, cùng điều kiện giao hàng, giao hàng một lần, có một vận đơn thì khai trên một tờ khai hải quan.
2. Một mặt hàng xuất khẩu có nhiều hợp đồng/đơn hàng, cùng điều kiện giao hàng, cùng bán cho một khách hàng và giao hàng một lần thì khai trên một tờ khai hải quan.
3. Khi khai hải quan, người khai hải quan phải khai đầy đủ số, ngày, tháng, năm của hợp đồng/đơn hàng trên tờ khai hải quan; trường hợp không thể khai hết trên tờ khai hải quan thì lập bản kê chi tiết kèm theo tờ khai hải quan; về lượng hàng thì chỉ cần khai tổng lượng hàng của các hợp đồng/đơn hàng trên tờ khai hàng hoá xuất khẩu/nhập khẩu. 
Thủ tục xem hàng hoá trước khi khai hải quan được quy định như thế nào?
Câu hỏi:

Thủ tục xem hàng hoá trước khi khai hải quan được quy định như thế nào?

Trả lời:
Theo quy định tại Điều 9 Thông tư 194/2010/TT-BTC thì việc xem hàng hoá trước khi khai hải quan được thực hiện như sau:
1. Chủ hàng có đơn đề nghị xem hàng hoá trước khi làm thủ tục hải quan gửi người đang giữ hàng hoá, đồng thời thông báo cho Chi cục Hải quan để giám sát theo quy định.
2. Việc xem trước hàng hoá phải được sự chấp thuận của người đang giữ hàng hóa và chịu sự giám sát của cơ quan hải quan.
3. Khi xem trước hàng hoá, người giữ hàng hoá phải lập biên bản chứng nhận, có xác nhận của người đang giữ hàng hoá, chủ hàng và công chức hải quan giám sát, mỗi bên tham gia giữ 01 bản.
4. Sau khi chủ hàng xem hàng hoá, hải quan niêm phong hàng hoá. Trường hợp hàng hoá không thể niêm phong được thì trong biên bản chứng nhận nêu tại khoản 3 Điều này phải thể hiện được tình trạng hàng hoá và ghi rõ người giữ hàng hoá chịu trách nhiệm giữ nguyên trạng hàng hoá.
Kế thừa quyền nộp thuế như thế nào ?
Câu hỏi:

Doanh nghiệp được hình thành sau khi tổ chức lại sẽ kế thừa các quyền và nghĩa vụ nộp thuế như thế nào?

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Thông tư 194/2010/TT-BTC thì việc kế thừa các quyền và hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp hình thành sau khi tổ chức lại thực hiện theo quy định tại Điều 55 Luật Quản lý thuế, được hướng dẫn cụ thể như sau:
1. Doanh nghiệp chuyển đổi có trách nhiệm kế thừa nghĩa vụ, quyền lợi trách nhiệm về thuế; các ưu đãi về thủ tục hải quan và thủ tục nộp thuế hàng nhập khẩu của doanh nghiệp cũ.
2. Doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan mà hợp nhất, sáp nhập với doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan thì được đánh giá là doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan. Doanh nghiệp không thuộc diện chấp hành tốt pháp luật hải quan mà hợp nhất, sáp nhập với doanh nghiệp không thuộc diện chấp hành tốt pháp luật hải quan thì doanh nghiệp sau hợp nhất, sáp nhập được đánh giá là không thuộc diện chấp hành tốt pháp luật hải quan. Doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan mà hợp nhất, sáp nhập với doanh nghiệp không thuộc diện chấp hành tốt pháp luật hải quan thì Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố xem xét thực tế để quyết định việc đánh giá doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đánh giá này.
Việc áp dụng thời hạn nộp thuế được căn cứ vào kết quả đánh giá doanh nghiệp chấp hành tốt hay không thuộc diện chấp hành tốt pháp luật hải quan tương tự như trên.
3. Đối với doanh nghiệp mới hình thành từ doanh nghiệp bị chia thì Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh, thành phố xem xét thực tế để quyết định việc doanh nghiệp mới hình thành từ doanh nghiệp bị chia được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp về thuế và ưu đãi thủ tục nộp thuế như doanh nghiệp bị chia.
4. Doanh nghiệp mới hình thành từ doanh nghiệp bị tách được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp về thuế và ưu đãi thủ tục hải quan và thủ tục nộp thuế hàng nhập khẩu như doanh nghiệp bị tách nếu trong Quyết định tách doanh nghiệp có ghi rõ nội dung về quyền được chuyển từ doanh nghiệp bị tách sang doanh nghiệp được tách. Doanh nghiệp bị tách được kế thừa các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, các ưu đãi về thủ tục hải quan, quản lý thuế.
Việc kiểm tra thực tế hàng hoá áp dụng đối với các trường hợp nào?
Câu hỏi:

Việc kiểm tra thực tế hàng hoá áp dụng đối với các trường hợp nào? (Khoản 3 Điều 3 TT 194/2010/TT-BTC)

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Thông tư 194/2010/TT-BTC thì kiểm tra thực tế hàng hóa áp dụng đối với các trường hợp sau:
1. Hàng hóa nêu tại khoản 3 và khoản 4 Điều 30 Luật Hải quan;
2. Hàng hóa có mức độ rủi ro cao trên cơ sở kết quả đánh giá mức độ rủi ro của cơ quan hải quan;
3. Hàng hóa được lựa chọn ngẫu nhiên để đánh giá mức độ tuân thủ của chủ hàng.
Chủ hàng nhiều lần vi phạm pháp luật hải quan được quy định như thế nào?
Câu hỏi:

Chủ hàng nhiều lần vi phạm pháp luật hải quan được quy định như thế nào? (khoản 6 Điều 3 TT 194/2010/TT-BTC)

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Thông tư 194/2010/TT-BTC thì chủ hàng nhiều lần vi phạm pháp luật về hải quan là người xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ba trăm sáu mươi lăm ngày tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan cho lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu đã ba lần bị xử lý về hành vi vi phạm hành chính về hải quan (bao gồm cả hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn), với mức phạt tiền mỗi lần vượt thẩm quyền xử phạt của Chi cục trưởng Chi cục Hải quan theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính hoặc đã một lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hải quan với mức phạt vượt thẩm quyền xử phạt của Cục trưởng Cục Hải quan.
Điều kiện chấp hành tốt luật hải quan ?
Câu hỏi:

Chủ hàng chấp hành tốt pháp luật hải quan phải đáp ứng những điều kiện nào?

Trả lời:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Thông tư 194/2010/TT-BTC thì chủ hàng chấp hành tốt pháp luật về hải quan là người đáp ứng các điều kiện:
1. Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu tối thiểu ba trăm sáu mươi lăm ngày tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan cho lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Trong thời gian ba trăm sáu mươi lăm ngày trở về trước, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan cho lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu được cơ quan hải quan xác định là:
a) Không bị xử lý về hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới;
b) Không bị xử lý về hành vi trốn thuế, gian lận thuế;
c) Không quá hai lần bị xử lý về các hành vi vi phạm khác về hải quan (bao gồm cả hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn) với mức phạt tiền vượt thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi cục Hải quan theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính;
2. Không còn nợ thuế quá hạn quá chín mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế tại thời điểm đăng ký tờ khai hải quan;
3. Thực hiện nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.
Thủ tục đăng ký thay đổi người phụ thuộc như thế nào?
Câu hỏi:

Trước đây tôi khai nuôi hai mẹ già, nhưng nay tôi chuyển cho con tôi (cháu của bà) thay tôi nuôi dưỡng. Xin hỏi thủ tục đăng ký thay đổi người phụ thuộc như thế nào?

Trả lời:

TTheo Thông tư số  84/2008/TT-BTC thì người nộp thuế  đăng ký người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh theo mẫu số 16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư này gửi cho cơ quan trả thu nhập. Trong năm nếu có sự thay đổi về người phụ thuộc so với đăng ký trước thì chậm nhất là sau 30 ngày kể từ ngày có thay đổi (tăng, giảm), đối tượng nộp thuế cần khai 02 bản đăng ký điều chỉnh người phụ thuộc theo mẫu số 16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư này gửi cho cơ quan trả thu nhập.Đối tượng nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc phải có đủ hồ sơ chứng minh về người phụ thuộc và phải nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý đơn vị trả thu nhập.

Các khoản ủng hộ từ thiện cần có giấy tờ gì để được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế?
Câu hỏi:

Các khoản ủng hộ từ thiện cần có giấy tờ gì để được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế?

Trả lời:

Điểm 3.2, Mục I, Phần B Thông tư 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 hướng dẫn: “Tài liệu chứng minh đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học phải là chứng từ thu hợp pháp do các tổ chức, các quỹ của TW hoặc của Tỉnh cấp”.

Các khoản phụ cấp lương có phải chịu thuế TNCN ?
Câu hỏi:

Các khoản thu nhập về phụ cấp chức vụ, trách nhiệm, độc hại theo hệ số, độc hại hiện vật, tiền thu nhập tăng thêm có phải chịu thuế TNCN không?

Trả lời:
Các khoản thu nhập về phụ cấp độc hại theo hệ số, độc hại hiện vật chi theo đúng quy định của Nhà nước thì sẽ được tính trừ khi xác định thu nhập tính thuế TNCN. Nếu chi vượt quy định thì phần thu nhập vượt đó phải tính thuế.
Các khoản thu nhập về phụ cấp chức vụ, trách nhiệm, tiền thu nhập tăng thêm là khoản có tính chất tiền lương, tiền công nên phải tính thuế TNCN.
Khoản ủng hộ người nghèo có được trừ thuế TNCN ?
Câu hỏi:

Các khoản ủng hộ quỹ người nghèo, ủng hộ đồng bào bão lụt trong thời gian từ tháng 7/2009 đến tháng 12/2009 có được trừ để tính thuế thu nhập cá nhân không?

Trả lời:

Theo quy định tại Mục I, Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ tại chính thì các khoản đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học được trừ khi xác định thu nhập tính thuế. Vì vậy khoản ủng hộ quỹ người nghèo, ủng hộ đồng bào bão lụt chi theo đúng quy định của Nhà nước được trừ toàn bộ khi quyết toán thuế TNCN.

Giảm trừ gia cảng như thế nào ?
Câu hỏi:

Hai vợ chồng cùng làm một công ty có bố mẹ già và con thì được tính giảm trừ cho người phụ thuộc như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Điểm 3.1.3 , Mục I, Phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính thì việc giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế trong năm tính thuế. Người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng phát sinh tháng nào thì được tính giảm trừ tháng đó.

Trường hợp nhiều đối tượng nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì các đối tượng nộp thuế phải tự thoả thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một đối tượng nộp thuế.

Nhận lương hưu có phải chịu thuế TNCN
Câu hỏi:

Cá nhân đã về hưu (có lương hưu) vẫn đang công tác tại 1 DN được trả thu nhập hàng tháng quyết toán thuế TNCN như thế nào?

Trả lời:

 

Căn cứ quy định tại Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính thì tiền lương hưu do bảo hiểm xã hội chi trả thuộc diện được miễn thuế TNCN vì vậy cá nhân không phải kê khai và quyết toán thuế TNCN đối với khoản thu nhập được miễn thuế. Các khoản thu nhập khác được kê khai, quyết toán thuế theo quy định.

Quyết toán thuế thu nhập cá nhân như thế nào ?
Câu hỏi:

DN có hơn 400 lao động đã đăng ký cấp MST TNCN thì quyết toán thuế cho cả tổng số LĐ trên hay chỉ những người có thu nhập trên 4 triệu đồng/tháng?

Trả lời:

Căn cứ quy định tại khoản 2, Mục II, Phần D Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính thì cơ quan chi trả phải kê khai Quyết toán thuế đối với các khoản thu nhập mà cơ quan thực chi trả, không phân biệt người nhận thu nhập có mức thu nhập cao hay thấp.

công ty có phải kê khai quyết toán thuế TNCN không ?
Câu hỏi:

Tất cả công nhân viên trong công ty đều cam kết tự kê khai nộp thuế TNCN khi ký kết hợp đồng lao động. Vậy, công ty có phải kê khai quyết toán thuế TNCN không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 2, Mục II, Phần D Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính thì công ty phải có trách nhiệm khấu trừ số tiền thuế TNCN phát sinh hàng tháng và thực hiện kê khai và quyết toán số thuế TNCN theo mẫu 05/KK-TNCN theo đúng quy định.

Vì vậy công ty phải thực hiện kê khai, quyết toán thuế TNCN cho toàn bộ người lao động trong đơn vị theo đúng quy định không phụ thuộc vào cam kết trong hợp đồng lao động.

Không phát sinh thuế TNCN có phải báo cáo quyết toán ?
Câu hỏi:

Doanh nghiệp không có số thuế TNCN phải nộp trong năm thì có phải làm báo cáo quyết toán thuế TNCN không?

Trả lời:

Căn cứ quy định tại điểm 2.1.3, Mục II, Phần D Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính thì các tổ chức, cá nhân trả các khoản thu nhập phải khấu trừ thuế không phân biệt có phát sinh khấu trừ thuế hay không có khấu trừ thuế, có trách nhiệm kê khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân theo quy định ...

Bán căn nhà duy nhất có phải nộp thuế thu nhập cá nhân ?
Câu hỏi:

Tôi có 1 căn nhà duy nhất, tôi định bán căn nhà này để mua lại căn nhà khác nhỏ hơn, số tiền còn lại tôi làm vốn kinh doanh. Vậy tôi phải nộp thuế TNCN như thế nào?

Trả lời:
Căn cứ khoản 2, mục III, phần A thông tư 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính thì thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp người chuyển nhượng chỉ có duy nhất một nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam là khoản thu nhập được miễn thuế.
Vì vậy, nếu bạn chỉ có 1 căn nhà duy nhất tại Việt Nam thì khi chuyển nhượng được miễn thuế TNCN.
Thuê người giúp việc có được kê khai giảm thuế thu nhập không ?
Câu hỏi:

Gia đình tôi có thuê 1 người giúp việc, vậy chi phí trả cho người giúp việc này có được kê khai giảm trừ vào thu nhập bản thân tôi không?

Trả lời:
Căn cứ mục I, phần B thông tư 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính thì chi phí thuê người giúp việc không được trừ khi xác định thuế TNCN phải nộp.
Kinh doanh ăn uống chịu thuế như thế nào ?
Câu hỏi:

Gia đình tôi kinh doanh ngành ăn uống, tôi đã đóng thuế môn bài, thuế hàng tháng, vậy tôi có phải đóng thuế thu nhập cá nhân nữa không? Cách tính thuế như thế nào?

Trả lời:

Từ 01/01/2009 gia đình bạn phải đóng các loại thuế Môn bài; GTGT và thuế TNCN (chuyển từ thuế TNDN sang nộp thuế TNCN)

- Cách tính thuế TNCN:

Thu nhập tính thuế từ kinh doanh = Tổng thu nhập chịu thuế - các khoản đóng góp BHXH, BHYT- Giảm trừ gia cảnh và từ thiện.

Sau đó áp dụng biểu thuế luỹ tiến từng phần để xác định số thuế TNCN phải nộp.

Tiền đóng bảo hiểm nhân thọ có phải chịu thuế ?
Câu hỏi:

Cá nhân đuợc cơ quan đóng bảo hiểm nhân thọ 5 triệu/năm thì số tiền này có phải đóng thuế TNCN không?

Trả lời:

Theo điều 3 Luật thuế TNCN thì số tiền bảo hiểm do cơ quan mua cho cá nhân là thu nhập chịu thuế TNCN

Thuế thu nhập cá nhân của cửa hàng kinh doanh ?
Câu hỏi:

Cá nhân mở một cửa hàng kinh doanh và cũng là nhân viên của một công ty. Hỏi thu nhập tính thuế TNCN của cá nhân đó có bao gồm thu nhập từ kinh doanh cửa hàng không?

Trả lời:

Căn cứ mục I, phần B, Thông tư 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thu nhập chịu thuế đối với cá nhân vừa có thu nhập chịu thuế từ kinh doanh, vừa có thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công là tổng thu nhập chịu thuế từ kinh doanh cộng thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công. Vì vậy thu nhập từ kinh doanh cửa hàng của cá nhân đó cũng thuộc diện chịu thuế TNCN.

Tiền lương, tiền công có được miễn thuế thu nhập cá nhân ?
Câu hỏi:

Tiền lương, tiền công của CNV tháng 6/2009 chi trả vào tháng 7/2009 có được miễn thuế TNCN?

Trả lời:
Căn cứ vào Điều 2 Thông tư số 160/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn miễn thuế thu nhập cá nhân năm 2009 theo Nghị quyết số 32/2009/QH12 ngày 12/8/2009 của Quốc hội đã hướng dẫn thì: Tiền lương, tiền công của CNV tháng 6/2009 chi trả vào tháng 7/2009 được miễn thuế TNCN.
Lao động là người nước ngoài có được hưởng trợ cấp thôi việc?
Câu hỏi:

Tôi là người Nhật làm việc tại Việt Nam từ tháng 3/2009. Tháng 2/2012 tôi viết đơn xin thôi việc và được cơ quan chủ quản bên Nhật đồng ý cho thôi việc theo đơn. Xin hỏi với trường hợp của tôi có được trả trợ cấp thôi việc theo quy định pháp luật Việt Nam ?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo điều 3 Bộ luật lao động năm 1994 quy định: "Công dân Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tại các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc quốc tế đóng trên lãnh thổ Việt Nam và người nước ngoài làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức và cho cá nhân Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam đều thuộc phạm vi áp dụng của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác".
Theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 quy định: “Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt Nam…".
Đồng thời khoản 3 điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội quy định: “Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là công dân Việt Nam…”
Như vậy, người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thể tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Người nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tham gia bảo hiểm y tế và có các nghĩa vụ và quyền lợi theo quy định tại Luật Bảo hiểm y tế.
Theo Điều 42 Bộ luật Lao động được sửa đổi, bổ sung năm 2002 quy định: “Khi chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ đủ 12 tháng trở lên thì người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là 1/2 tháng lương, cộng phụ cấp lương nếu có”.
Theo Điều 41 Nghị định 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp thì: “1. Thời gian người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 102 Luật Bảo hiểm xã hội không được tính để hưởng trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp mất việc làm theo quy định của pháp luật về lao động và pháp luật về cán bộ, công chức.
2. Thời gian người lao động thực tế làm việc theo các bản hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động mà không phải đóng bảo hiểm thất nghiệp thì được tính để xét hưởng trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của pháp luật lao động hiện hành hoặc trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức…
3. Thời gian người sử dụng lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động theo quy định tại khoản 2 Điều 102 Luật Bảo hiểm xã hội được tính để miễn trách nhiệm trả trợ cấp mất việc làm hoặc trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật về lao động, pháp luật về cán bộ, công chức”.
Như vậy, đối với người lao động là người Việt Nam nếu tham gia bảo hiểm thất nghiệp từ 01/01/2009, khi chấm dứt hợp đồng thì khoảng thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ không được trợ cấp thôi việc. Đối với người lao động nước ngoài do không tham gia bảo hiểm thất nghiệp nên nếu làm việc cho doanh nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên, chấm dứt hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật vẫn được trợ cấp thôi việc. Trường hợp của bạn sẽ được hưởng 1,5 tháng tiền lương cộng với phụ cấp lương (nếu có).
Ngưng hợp đồng đặt cọc ?
Câu hỏi:

Tôi đang rơi vào 1 trường hợp rất tệ, ngày 15/2 tôi ký hợp đồng thuê nhà với thời hạn thuê là 5 năm. Giá trị tiền cọc là 1 năm tiền nhà nhưng đến khi ra công chứng bên A lại ghi trong hợp đồng là một năm tiền đặt cọc của năm thứ 5, như vậy giá trị tiền cọc đã tăng lên rất nhiều do mỗi năm tiền nhà đều lên 10% và số tiền cọc thực tế là 228.565.000 đ, kèm theo 18 triệu tiền nhà đưa trước.
Do số tiền tôi đã chuẩn bị không đủ nên bên A cho tôi gia hạn 3 tháng sau sẽ trả số tiền còn lại nhưng đến tháng 4 chồng tôi bị nhồi máu cơ tim phải nhập viện và điều trị tại bệnh viện Tâm Đức, chi phí là 210.000.000 đồng. Cho đến nay số tiền cọc tôi nợ lại bên A còn 50 triệu, số tiền đã đưa là 172 triệu, Nhưng khoảng từ tháng 5 đến tháng 6 bên A liên tục đưa người đến xem nhà để bán nên công việc làm ăn của tôi không được ổn định vì tôi không biết bao giờ phải dọn đi.
Hiện nay tình hình kinh tế của tôi rất khó khăn, sức khoẻ của chông tôi vẫn rất tệ, hàng tháng đều phải tái khám. Tôi xin hỏi có thể ngưng hợp đồng được không? Nếu báo trước cho chủ nhà 3 tháng hoặc ở đến khi nào trừ hết tiền cọc nhà được không vì trong hợp đồng có ghi điều khoản cuối cùng bên nào hủy hợp đồng trước sẽ phải bồi thường.
Mong duoc su tu van cua luat su cang som cang tot

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Hợp đồng thuê nhà là văn bản quan trọng để chúng tôi xem xét trả lời cho bạn đặc biệt là thỏa thuận về việc chấm dứt hợp đồng thuê và xử lý tiền cọc. Chúng tôi căn cứ các quy định pháp luật về nhà ở để trả lời các trường hợp chung với bạn như sau:
Khoản 2 Điều 103 luật nhà ở quy định:
Bên thuê nhà ở có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở khi bên cho thuê nhà ở có một trong các hành vi sau đây:
a) Không sửa chữa nhà ở khi nhà ở có hư hỏng nặng;
b) Tăng giá cho thuê nhà ở bất hợp lý hoặc tăng giá mà không thông báo cho bên thuê nhà ở biết trước theo thoả thuận;
c) Khi quyền sử dụng nhà ở bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba.
3. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở phải thông báo cho bên kia biết trước ít nhất một tháng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
4. Bên đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở vi phạm quy định tại khoản 3 Điều này, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Bạn xem trường hợp của bạn có nằm trong các trường hợp nêu trên hay không? Nếu có bạn có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà nêu trên.
Nhà đang cho thuê thì chủ sở hữu vẫn có quyền bán, tuy nhiên quyền thuê nhà của bạn vẫn được pháp luật bảo vệ như sau:
Khoản 2 điều 104 Luật nhà ở quy định:
Trường hợp chủ sở hữu nhà ở chuyển quyền sở hữu nhà ở đang cho thuê mà thời hạn thuê nhà ở vẫn còn thì bên thuê nhà ở được tiếp tục thuê đến hết hạn hợp đồng; chủ sở hữu nhà ở mới có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nhà ở đã ký kết trước đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. 
Quyền thừa kế của hai di chúc ?
Câu hỏi:

Tôi có 1 bà chị đã chết ngày 20/6/2011. Để lại 2 tờ di chúc, tờ thứ nhất viết vào năm 2003, tờ thứ 2 viết vào ngày 25 tháng 1 năm 2011. Cả 2 tờ đều có 2 người làm chứng. vậy trong 2 tờ di chúc trên tờ nào được hưởng quyền thừa kế, đúng pháp luật, tờ nào không được hưởng quyền thừa kế. Xin luật sư của quý cty trả lời giúp.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Đối với 2 bản di chúc của chị bạn được viết vào năm 2003 và năm 2011 đều được lập thành văn bản và có người làm chứng, nếu đáp ứng được các điều kiện quy định tại Điều
Điều 652. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
Theo quy định tại Điều 662 Bộ luật dân sự về:  Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
Điều 662.
1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào.
2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ.
Như vậy, đối với hai bản di chúc của chị bạn, bản di chúc sau nếu đáp ứng đủ các điều kiện di chúc hợp pháp sẽ có hiệu lực pháp luật.
Khiếu nại đất đai ở đâu ?
Câu hỏi:

Năm 1983 gia đình tôi được UBND xã cấp cho 1 thửa đất để ở và khai hoang tăng gia sản xuất. Vì hồi đó có lẽ chưa có chính sách trích thửa đất nên cũng không để ý là diện tích bao nhiêu. Đến tháng 5/ 1994 được UBND xã đồng ý cho phép chuyển nhượng cho hộ khác 125m ( hiện vẫn còn giấy xác nhận của UBND xã). Sau đó đến 30/6/1994,, nhà nước có đợt đo đất cho các hộ để làm sổ Quyền sử dụng đất. Diện tích đất còn lại sau khi đã bán là 1145m2. Đến năm 2000 nhà tôi bán tiếp 1 lô đất 100m2 và UBND thành phố đã khấu trừ diện tích 100m2 đã bán, diện tích còn lại là 1045m2. Đến năm 2009, bố tôi làm thừa kế cho chị gái tôi 150m2, UBND thành phố khấu trừ tiếp 150m2 đã cho , diện tích còn lại là 895m2, Đến tháng 6/ 2011, gia đình tôi bán 100m2 đất để làm nhà, khi địa chính đo trích thửa để làm thủ tục thì họ lại cắt của gia đình tôi 125m2 với lý do để trừ vào diện tích mà gia đính tôi đã bán năm 1994. Vậy việc làm này có đúng luật không? Nếu UBND xã trực thuộc thành phố mà gia đình tôi đang ở mà làm sai thì gia đình tôi có được quyền khiếu nại lên UBND thành phố không? Cấp nào sẽ đứng ra giải quyết việc này? Xin được sự hướng dẫn của các luật sư. Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo như tình huống mà bạn đưa ra, tháng 5/1994 UBND xã đồng ý cho phép chuyển nhượng cho hộ khác 125m và hiện nay bạn vẫn giữ lại giấy xác nhận này, sau đó gia đình bạn đã được đo đạc lại để cấp giấy chứng nhận quyến sử dụng đất. Việc cấp giấy này được tiến hành sau khi đã chuyển nhượng 125m2 trên, nên phần đất trên không còn nằm trong thửa đất lớn. Vì vậy UBND xã không thể tự ý cắt 125m2 trên. Theo quy định tại điều 38 Luật đất đai về các trường hợp thu hồi đất, và Điều 44 về thẩm quyền thu hồi đất.

Điều 38. Các trường hợp thu hồi đất

Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế;
2. Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất;
3. Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả;
4. Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;
5. Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;
6. Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp sau đây:
a) Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm;
b) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;
7. Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế;
8. Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất;
9. Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
10. Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn;
11. Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền;
12. Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.

Điều 44. Thẩm quyền thu hồi đất

1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được uỷ quyền.
Như vậy UBND xã không có thẩm quyền để thu hồi phần đất trên. Nếu có tranh chấp, người tranh chấp sẽ là người mua 125m2 trên của gia đình bạn vào năm 1994.
Vì vậy đối với hành vi trên của UBND xã, bạn có thể khiếu nại hành vi trên đến chủ tịch UBND quận/huyện để được giải quyết. Sau khi có quyết định giải quyết của chủ tịch UBND quận/huyện, nếu bạn không đồng ý với kết quả giải quyết này bạn có thể khiếu nại đến chủ tịch UBND Thành phố hoặc khởi kiện vụ án ra Tòa án nhân dân để được giải quyết.
Tìm sổ lâm bạ ở đâu ?
Câu hỏi:

Trước đây, GCNQSDĐ của gia đình em được cấp dưới dạng sổ lâm bạ (Đất sử dụng vào mục đích phủ xanh đất trống đồi trọc, cấp năm 1993, trước 15/3/1993). Tuy nhiên, hiện nay người đúng tên trên GCN đã mất và GCN chúng em chỉ còn bản photocopy có công chứng hồi đó. Vậy chúng em phải tìm lại sổ lâm bạ đó ở đâu?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Khoản 3 điều 14 Bộ luật Dân sự quy định một người được xác định đã chết thì mọi quan hệ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người đó đều chấm dứt.
 
 
Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bạn đã bị mất Bạn phải đến UBND cấp xã, phường nơi có đất nộp đơn khai báo về việc mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải cam đoan chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc khai báo của mình.
Bạn có thể xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trình tự, thủ tục xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) bị mất được quy định tại: “Nghị định 88/2007/NĐ-CP quy định về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai”. Cụ thể bạn phải chuẩn bị 1 bộ hồ sơ bao gồm những giấy tờ sau:

- Đơn đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Giấy tờ chứng minh việc mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( VD: giấy xác nhận của cơ quan công an cấp xã nơi mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).

- Giấy xác nhận của UBND cấp xã (nơi chứng nhận quyền sử dụng đất) về việc đã niêm yết công khai việc mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Sau đó bạn gửi hồ sơ này đến văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc phòng tài nguyên môi trường hoặc UBND cấp xã nơi đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bạn để được giải quyết.

Về lệ phí xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Theo quy định tại Nghị đinh 24/2006/NĐ-CP thì bạn phải nộp 2 loại lệ phí là lệ phí địa chính và phí thẩm định cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Hai mức phí này do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bạn quy định.
Thủ tục mua bán đất rẫy ?
Câu hỏi:

Cuối năm ngoái tôi có mua 1 rẫy cafe với diện tích là 3ha ở bảo lâm - lâm đồng. tôi và chủ cũ có làm thủ tục cam kết bằng tay có vài người hàng xóm làm chứng.do tôi thiếu tiền nên đã làm thủ tục cam kết hoàn thành số tiền còn lại vào cuối năm sau ( hạn 1 năm). do đó chủ cũ đã giữ sổ đỏ chỉ giao tôi giấy cam kết bằng tay nay đã đúng hạn 1 năm vậy các bước làm thủ tục sang tên tôi phải chuẩn bị như thế nào? thủ tục mua bán đất theo tiêu chuẩn của nhà nước là gì? bên bán phải giao tôi những giấy tờ gì? chủ cũ có phải theo tôi đi làm thủ tục không ạ? trường hợp tôi chưa hoàn đủ số tiền còn lại tôi có bị mất đất không? nếu chủ cũ phá hợp đồng mua bán ( do viết bằng tay) thi tôi sẽ phải làm gì? rất mong được luật sư trả lời sớm giúp tôi. xin chân thành cảm ơn.

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể:
Điều 106 của Luật Đất đai 2003:  quyền sử dụng đất có thể được chuyển nhượng nếu thửa đất chuyển nhượng đã có giấy chứng nhận đối với quyền sử dụng, không có tranh chấp, không bị kê biên để đảm bảo thi hành án và còn trong thời hạn sử dụng đất.
Điều 66 nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định cụ thể kể từ ngày 1/1/2008, người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận mới được thực hiện quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trừ trường hợp người có giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 Luật Đất đai đã nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đúng quy định trước ngày 1/11/2007 mà chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận.
Đối với thủ tục chuyển nhượng:   Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân phải được lập thành văn bản và theo quy định tại điều 119 nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 (đã được sửa đổi bởi khoản 10 điều 2 nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006), hợp đồng phải được công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại UBND cấp xã nơi có đất.
Việc bạn mua đất nhưng chỉ viết giấy tay, không lập thành hợp đồng và không có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất đã vi phạm về mặt hình thức của hợp đồng.
Nếu bạn thực hiện được đúng như cam kết với bên bán, bạn có thể thỏa thuận lại để tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng và hoàn thiện về mặt hình thức của hợp đồng. Nếu bên bán không tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng trên, bạn có thể khởi kiện ra tòa án nhân dân để được giải quyết.  Toà án sẽ quyết định buộc bạn và người chủ cũ cùng làm lại các thủ tục theo đúng quy định về hình thức của giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất; nếu một trong hai bên cố tình không làm lại các thủ tục đó thì tòa án mới tuyên bố giao dịch này vô hiệu và bên cố tình không làm lại các thủ tục đó là bên có lỗi.
           Căn cứ quy định tại Điều 137 Bộ luật Dân sự 2005, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là: không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền… Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Nếu hai bên hoàn thiện được về mặt hình thức của hợp đồng, bên bán sẽ giao cho bạn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng mua bán. Sau đó bạn sẽ thực hiện việc chuyển quyền sử dụng đất.
Bạn  nộp một (01) bộ hồ sơ tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc phòng địa chính thuộc Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện.
1. Hồ sơ gồm:
- Đơn đề nghị chuyển quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất;
- Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở;
- Hộ khẩu thường trú của người mua;
- Trích lục thửa đất;
- Hợp đồng chuyển quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất có công chứng hoặc chứng thực;
- Chứng từ nộp tiền thuế đất.
Thủ tục chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất ?
Câu hỏi:

Tôi có một câu hỏi mong cafe luật giải đáp giúp. Vốn gia đình tôi có 5 anh chị em. Ba tôi hiện đứng tên trên quyền sử dụng đất của gia đình và trên quyền sử dụng đó ghi là HỘ. Theo tôi được biết thì nếu QSD là Hộ thì khi bán, tặng, cho đất thì tất cả các thành viên ( ở đây là ba mẹ tôi và 5 anh chị em tôi ) đều phải đồng lòng. Nhưng nói thế nào thì ba tôi cũng quả quyết rằng ông ấy đứng tên trên sổ đỏ là chỉ có ông ấy quyết định, muốn làm gì thì làm.
Vậy xin hỏi, bây giờ chúng tôi yêu cầu ba tôi phân chia khối tài sản là đất nằm trên quyền sử dụng đó thì phải làm thủ tục gì ở phòng công chứng? Trước khi công chứng thì cần chuẩn bị những loại giấy tờ gì? Ví dụ trong 1500m2 đất, anh em chúng tôi mỗi người được 200m2 thì có cần làm bản vẽ trước khi công chứng hay không? Hay chỉ thỏa thuận chia rồi đến phòng công chứng? Nếu theo pháp luật thì tỉ lệ chia đất giữa các con và phần ba mẹ như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 43 khoản 3 mục b của Nghị định 181 ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai chỉ qui định: “Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình thì giấy chứng nhận chỉ ghi tên chủ hộ”.
Theo qui định tại các Điều 106, Điều 108 và Điều 109 BLDS năm 2005, “Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, tài sản do các thành viên cùng nhau tạo lập...; “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ 15 tuổi trở lên đồng ý”. Chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ. Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện trong quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện vì lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ gia đình. Hộ gia đình phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện của hộ gia đình xác lập, thực hiện nhân danh hộ gia đình và chịu trách nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ; nếu tài sản chung không đủ để thực hiện nghĩa vụ chung của hộ thì các thành viên phải chịu trách nhiệm liên đới bằng tài sản riêng của mình"
Vì vậy nếu chỉ có 1 thành viên mang GCNQSDĐ cấp cho Hộ gia đình đi giao dịch mà không có giấy ủy quyền của các thành viên (từ 15 tuổi trở lên) còn lại trong Hộ thì giao dịch đó sẽ không thể thực hiện được toàn phần.
Việc chia tài sản chung của hộ gia đình do các thành viên trong gia đình thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có thể nhờ tòa án giải quyết. Vì vậy nếu các thành viên trong hộ gia đình thỏa thuận được với nhau về vấn đề chia tài sản chung của hộ thì Hộ gia đình bạn có thể tới Phòng công chứng để lập Biên bản thỏa thuận phân chia tài sản chung, nếu không thỏa thuận được thì khởi kiện yêu cầu Tòa án chia tài sản chung theo quy định của pháp luật.
Di chúc viết tay có hiệu lực pháp luật không ?
Câu hỏi:

Tôi là Bùi Trung Kiên, hiện tôi đang ở Quảng ninh. Tôi có một câu hỏi muốn nhờ các luật gia của Công ty tư vấn giúp.
Bố mẹ tôi sinh được 4 người con, hai trai, hai gái, tôi là con nhỏ nhất trong gia đình. Trước khi chuyển tôi và mẹ tôi ra Quảng ninh sinh sống, bố tôi có mua một thửa đất mang tên bố tôi, trên đó có một căn nhà cấp 4. Thời điểm đó các anh chị tôi đã xây dựng gia đình và đã ở riêng. Hiện tại mẹ tôi đã mất, theo ý nguyện của mẹ tôi trước kia và cả của bố tôi, muốn cho tôi toàn bộ mảng đất mang tên bố tôi mà hiện tại cả bố tôi và vợ chồng tôi đang sinh sống. Hiện tại mảnh đất này không có tranh chấp gì. Các anh chị tôi khi họp gia đình cũng đồng ý để bố tôi cho tôi mảnh đất này nhưng khi yêu cầu mọi người ký vào biên bản họp gia đình thì không ai ký và chỉ đưa ra lý do là không cần thiết phải sang tên vì phải nộp thuế. Bố tôi thì vẫn muốn làm các thủ tục để chuyển nhượng cho vợ chồng chúng tôi trước khi bố tôi về già. Và hiện tại bố tôi vẫn bảo tôi là thảo cho bố tôi một bản di chúc, sau đó bố tôi tự viết lại.
Vậy tôi kính mong Cty luật Thiên Bình tư vấn giúp tôi phải làm như thế nào, cần những thủ tục gì để sang tên mảnh đất theo ý nguyện của bố mẹ tôi. Cũng xin nói thêm: hiện tại bố tôi trí tuệ vẫn còn rất minh mẫn.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn nhà trên được bố bạn mua trong thời kỳ hôn nhân, là tài sản chung của vợ chồng, vì vậy tuy bố bạn đứng trên trong giấy chứng nhận quyền sử đất nhưng phần đất này vẫn có quyền sở hữu của mẹ bạn.
Trường hợp của bạn, do mẹ của bạn chết không để lại di chúc hợp pháp (di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực. Theo quy định tại điều 652 Bộ luật dân sự) nên phần di sản của mẹ bạn để lại sẽ được chia thừa kế theo pháp luật khi các đồng thừa kế có yêu cầu.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 676, Bộ luật dân sự, những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của mẹ của bạn trong trường hợp này gồm có: Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của mẹ bạn (nếu có và còn sống); chồng ; con đẻ, con nuôi của mẹ bạn.
Như vậy, trước khi ba của bạn chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất trên thì các đồng thừa kế phải tiến hành thủ tục khai nhận di sản thừa kế do mẹ bạn để lại theo trình tự thủ tục pháp luật quy định. Giấy thỏa thuận mà ba bạn và những người còn lại trong gia đình bạn đã lập là căn cứ xác định việc phân chia vì vậy cần chữ ký xác nhận không tranh chấp của các đồng thừa kế. Lúc này ba bạn có thể tiến hành việc chuyển nhượng và tặng cho bạn theo quy định của pháp luật.
Theo qui định tại điều 197, điều 467 Bộ luật dân sự năm 2005, Cha bạn có quyền tặng, cho bạn nhà đất do cha bạn đứng tên sở hữu. Việc tặng, cho phải được lập thành văn bản có công chứng chứng thực. Người nhận tặng, cho nộp lệ phí trước bạ và làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu cho mình.
Riêng đối với vấn đề các anh chị trong gia đình không ký giấy thỏa thuận vì sợ nộp thuế, bạn có thể tham khảo thêm trong quy định tại Điều 4, Luật thuế thu nhập cá nhân quy định về thu nhập được miễn thuế.

Điều 4. Thu nhập được miễn thuế

1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.
4. Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau.
Trường hợp các anh chị em của bạn không tự thỏa thuận di sản của mẹ bạn, không ký trên các giấy tờ kê khai di sản thừa kế thì bạn có thể khởi kiện ra tòa án để giải quyết. Tòa án sẽ chia di sản theo quy định pháp luật, lúc đó các bên sẽ tự định đoạn phần di sản được nhận của mình một cách độc lập.
Có được sử dụng lối đi chung ?
Câu hỏi:

Vui lòng cho tôi hỏi một việc như sau:
Tôi có mua một trong nhiều thửa đất được tách ra từ một thửa đất lớn. Khi tôi ký hợp đồng chuyển nhượng thì lối đi chung vẫn chưa có trên bản đồ địa chính, Vậy tôi có quyền được sử dụng hợp pháp lối đi chung đó không? Bên bán có quyền không cấp lối đi chung đó không?
Xin chân thành cảm ơn

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Nguyên tắc khi tách thửa một lô đất ở thành nhiều thửa phải có lối đi cho các thửa phía trong, do đó người bán phải dành một phần đất làm lối đi chung lúc này bạn mới có thể làm thủ tục tách thửa được.
Quy định pháp luật trong trường hợp này như sau:
Điều 275 BLDS quy định về quyền về lối đi qua bất động sản liền kề như sau: Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng một cách thuận tiện và hợp lý nhất. Diện tích, kích thước lối đi do các bên thỏa thuận đảm bảo cho việc sử dụng lối đi thuận tiện cho tất cả các bên, nếu không thỏa thuận được thì cơ quan Nhà nước sẽ quyết định…
Việc sử dụng lối đi chung là thỏa thuận của bạn với những hộ cùng mua những thửa đất nhỏ trên, bạn phải làm rõ việc lô đất mà bạn sẽ mua có được chấp nhận sử dụng lối đi này hay không.  Bởi vì lối đi trên không có trong hồ sơ địa chính, nó chỉ là lối đi tự các bên thỏa thuận. Do vậy, bạn nên thỏa thuận với các cá nhân có liên quan lối đi chung này và thể hiện bằng văn bản để tránh rủi ro khi tranh chấp về sau. Nếu phía bên kia không đồng ý mà lối đi này là lối đi ra đường công cộng duy nhất thì bạn có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước quyết định.
Mua đất bằng giấy tay có được cấp giấy chứng nhận không ?
Câu hỏi:

Tôi có vấn đế khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận nhà mong VPLS giải đáp hộ.
Tôi có mua 1 mảnh đất 40m2 tại Phường 15, Tân Bình năm 2001 thông qua giấy tờ ký tay giữa 2 bên mua và bán, sau đó tôi đã xây nhà không phép để ở miếng đất này. Đất này trước đây là đất nông nghiệp nhưng do tốc độ đô thị hóa cao, nên vùng này hoàn toàn đã xây dựng nhà ở và hình thành khu dân cư đông đúc, ổn định.
Tôi đã có các giấy tờ sau:
-Bản vẽ hiện trạng thổ cư vẽ 14.3.2011
-Thông báo tạm cấp số nhà tên tôi từ năm 2002.
-Quyết định cho phép tồn tại căn nhà trên của quận cấp.
-Xác minh của phường 15 về:Vị trí khu đất(không nằm trong quy hoạch);Nguồn gốc quá trình sử dụng đất(Hiện nay không tranh chấp);
-Tờ xác định thời điểm đất ở ổn định liên tục của Phường 15
-Các biên lai đóng thuế sử dụng đất từ năm 2002 tới nay.
Tôi cũng đã gửi bộ hồ sơ trên đến Ủy ban nhân dân Quận Tân Bình và nhận được sự trả lời của phòng tài nguyên môi trường như sau:
Do nguồn gốc đất của ông sử dụng là đất của gia tộc do bà Hiến chỉ là người đại diện đứng tên trên GCN cấp năm 2002.nên việc bà Hiến tự ý chuyển nhượng cho ông giấy tay ngày 25/10/2002 khi chưa có ý kiến của các người trong gia tộc là không phù hợp vì vậy không thể giải quyết cấp GCN cho ông.
Giải thích như sau:
Năm 2001 tôi mua đất của bà Bành Thị Hiến.Sổ đỏ do bà này đứng tên trên sổ đỏ và bên cạnh có ghi là Đại diện gia tộc.Theo tôi biết là khu đất đó khoảng 2000m2 và Bà Hiến được sở hữu 500m2 và bà Hiến bán lô đất đó cho tôi là phần của Bà Hiến được gia tộc chia(chia miệng).Nên khi bán và ở cho đến nay không ai tranh chấp.Phòng TNMT cho rằng Bà Hiến không được quyền bán cho tôi và nếu muốn công nhận sổ hồng căn nhà của tôi(40m2) thì phải có chữ ký của các thân nhân trong gia tộc.
Vấn đề nằm ở chỗ Bà Hiến đã chết, và những người còn lại cũng đã già cả>70 tuổi và tứ tán ở đâu ko rõ.Việc ký vào bản đồng ý cho bán gần như là bất khả thi.
Diaoconline cho tôi hỏi trường hợp của tôi có thể được cấp GCN hay không và nếu không thì hướng giải quyết sẽ như thế nào.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Trong trường hợp của bạn, việc bà Bành Thị Hiến tự bán đất cho bạn đã không đúng về mặt chủ thể trong hợp đồng mua bán này và hình thức của hợp đồng cũng không đúng quy định pháp luật. Bà Hiến chỉ là đại diện gia tộc đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đất sử dụng chung), nếu bà Hiến muốn bán phần đất mà gai tộc đã phân chia, trước hết bà Hiến phải làm thủ tục tách sổ, đứng tên bà Hiến trên mảnh đất trên rồi mới có thể bán cho bạn.
Cũng như vấn đề của phòng tài nguyên và môi trường trả lời, hiện tại để được cấp giấy chứng nhận bạn cần phải có văn bản đồng ý của những người trong gia tộc. Nếu trong trường hợp này không thực hiện được, bạn chỉ có thể khởi kiện ra TAND để yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (do hợp đồng không đáp ứng được yêu cầu về mặt chủ thể bên bán và hình thức).
Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự quy định về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Điều 137.
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường
Như vậy, bạn có thể khởi kiện ra tòa để tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên vô hiệu. Lúc này phía bên bà Hiến sẽ trả lại tiền mau đất cho bạn. Nếu bà Hiến chết có để lại di chúc, người được hưởng di sản thừa kế theo di chúc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết trong phạm vi phần di sản được hưởng. Nếu bà Hiến chết mà không để lại di chúc, người thừa kế theo pháp luật sẽ thực hiện nghĩa vụ tài sản này.
Theo quy định tại Điều 676 : Người thừa kế theo pháp luật.
Điều 676.
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Không có giấy khai sinh có được nhận thừa kế ?
Câu hỏi:

Tôi tên là Tuyết, theo như hướng dẫn của chuyện mục về thủ tục để con thừa kế tài sản mà không có di chúc thì tôi đã hiểu như vấn đề của gia đình tôi hơi rắc rối, xin chuyên mục trả lời giúp:
mẹ tôi có 2 người con khi ở với Ba Diệm, nhưng không đứng ra làm khai sinh nên trong khai sinh không có tên ba. và Ba Diệm đã bỏ nhà đi làm ăn một khoảng thời gian dài.
Sau đó mẹ tôi gặp ba tôi và sinh ra tôi (có khai sinh) rồi tạo dựng được căn nhà hiện tại này, ba tôi mất năm 1968 từ đó Ba Diệm quay về ở lại với mẹ tôi đến khi Ba Diệm mất.
lúc đó ba tôi mua nhà không có giấy tờ giấy cả, sau này chính quyền kêu làm giấy chủ quyền đứng tên là Ba diệm (đã chết) và Mẹ tôi.
như vậy thủ tục gồm có Giấy khai sinh để chứng minh thuộc diện thừa kế của tôi có được hợp lệ không.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự quy định về người thừa kế theo pháp luật.
Điều 676
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Và cũng theo quy định tại khoản 2 điều 5 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 có quy định:  Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính, dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy Khai sinh của người đó.
Do vậy trong trường hợp của bạn vừa nêu thì Giấy khai sinh được coi là một trong những giấy tờ quan trọng để chứng minh bạn thuộc hàng  thừa kế thứ nhất để được hưởng di sản thừa kế.  
Có được quyền thay đổi họ tên ?
Câu hỏi:

Tôi nay 26 tuổi, tôi thấy tên mình xấu nhưng không biết theo quy định pháp luật tôi được quyền thay đổi họ tên không ?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời
Theo quy định tại điều 27 Bộ luật dân sự về Quyền thay đổi họ, tên
1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt;
c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con;
d) Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại;
đ) Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;
e) Thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính;
g) Các trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
2. Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
3. Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ, tên cũ.
Điều 28. Quyền xác định dân tộc
1. Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trong trường hợp cha đẻ và mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của người con được xác định là dân tộc của cha đẻ hoặc dân tộc của mẹ đẻ theo tập quán hoặc theo thoả thuận của cha đẻ, mẹ đẻ.
2. Người đã thành niên, cha đẻ và mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong các trường hợp sau đây:
a) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, nếu cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;
b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con nuôi của người thuộc dân tộc khác mà được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi do không biết cha đẻ, mẹ đẻ là ai.
3. Trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên yêu cầu xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi trở lên theo quy định tại khoản 2 Điều này thì phải được sự đồng ý của người chưa thành niên đó.
Người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở có những quyền và nghĩa vụ như thế nào theo qui định của pháp luật?
Câu hỏi:

Người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở có những quyền và nghĩa vụ như thế nào theo qui định của pháp luật?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo qui định tại Điều 37 Nghị định số 197, người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở có các quyền như sau:
- Đăng ký đến ở nơi tái định cư bằng văn bản;
- Được ưu tiên đăng ký hộ khẩu cho bản thân, các thành viên khác trong gia đình về nơi ở mới và được ưu tiên chuyển trường cho các thành viên trong gia đình trong độ tuổi đi học;
- Được từ chối vào khu tái định cư nếu khu tái định cư không đảm bảo các điều kiện như đã thông báo và niêm yết công khai;
- Được cung cấp mẫu thiết kế nhà miễn phí.
Đồng thời, họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ sau:
- Thực hiện di chuyển vào khu tái định cư theo đúng thời gian theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
- Xây dựng nhà, công trình theo đúng quy hoạch và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật;
- Nộp tiền mua nhà ở hoặc tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
 
Đất thuê có được hỗ trợ khi bị thu hồi ?
Câu hỏi:

Vì điều kiện khó khăn nên vợ chồng tôi vẫn đang phải thuê nhà ở của gia đình bà T. với thời hạn hợp đồng là 5 năm. Nay theo quy hoạch của thành phố để phát triển khu đô thị mới, Nhà nước sẽ thực hiện thu hồi diện tích nhà đất mà chúng tôi đang thuê, nên gia đình tôi phải di chuyển đến nơi khác. Trong trường hợp này, liệu chúng tôi có được hưởng chính sách hỗ trợ nào của Nhà nước không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Bạn đang thuê nhà không phải thuộc sở hữu Nhà nước. Tuy nhiên, trường hợp của bạn cũng sẽ được Nhà nước quan tâm hỗ trợ một phần. Điều 30 Nghị định số 197 đã quy định cụ thể như sau:
1. Hộ gia đình, cá nhân có hộ khẩu thường trú tại địa phương đang thuê nhà ở không phải là nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước khi Nhà nước thu hồi đất phải phá dỡ nhà ở, phải di chuyển chỗ ở thì được hỗ trợ chi phí di chuyển (bằng mức hỗ trợ đối với những gia đình bị thu hồi đất phải chuyển đến nơi ở mới).
2. Căn cứ vào thực tế ở địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân.
Hỗ trợ đối với đất nuôi trồng thủy hải sản ?
Câu hỏi:

Vừa qua, địa phương tôi thực hiện dự án mở rộng, phát triển khu du lịch sinh thái biển. Theo dự án này, gia đình tôi là một trong số nhiều hộ nông dân sẽ phải giao lại diện tích đất nông nghiệp đang nuôi trồng thuỷ sản cho Nhà nước. Chúng tôi rất lo lắng vì chưa biết mình sẽ làm gì trong tương lai, Nhà nước có hỗ trợ gì không để chúng tôi có việc làm, đảm bảo đời sống ổn định trong thời gian tới?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm là một trong mối quan tâm của nhiều bà con khi bị thu hồi đất nông nghiệp. Nhà nước cũng đã ban hành những chính sách cụ thể như sau: 
Đối với hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi bị thu hồi trên 30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động. Việc hỗ trợ chuyển đổi nghề cho số lao động trong độ tuổi lao động của các hộ gia đình bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp được thực hiện bằng hình thức hỗ trợ một phần chi phí học nghề tại các cơ sở dạy nghề ở địa phương. Mức hỗ trợ và số lao động cụ thể được hỗ trợ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở địa phương.
Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề. Trường hợp ở địa phương chưa tổ chức được việc đào tạo chuyển đổi nghề và chủ dự án sử dụng đất thu hồi không thể tổ chức được đào tạo nghề hoặc người được hưởng hỗ trợ đào tạo nghề không muốn tham gia đào tạo nghề thì thực hiện hỗ trợ bằng tiền; mức hỗ trợ bằng tiền cụ thể do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với thực tế tại địa phương.
Chính sách hỗ trợ ổn định đời sống khi nhà nước thu hồi đất ?
Câu hỏi:

Khi thu hồi đất, Nhà nước có những chính sách cụ thể như thế nào để hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất cho cá nhân, tổ chức?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để khắc phục khó khăn bước đầu về đời sống và sản xuất của bà con, tổ chức, doanh nghiệp khi Nhà nước thực hiện thu hồi đất, pháp luật đã quy định những chính sách cụ thể để hỗ trợ ổn định như sau:
1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp được giao, được hỗ trợ ổn định đời sống trong thời gian 3 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 6 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 12 tháng. Mức hỗ trợ bằng tiền cho 01 nhân khẩu/01tháng tương đương 30 kg gạo tính theo thời giá trung bình tại địa phương.
2. Khi Nhà nước thu hồi đất của tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký kinh doanh, mà bị ngừng sản xuất kinh doanh, thì được hỗ trợ cao nhất bằng 30% 1 năm thu nhập sau thuế, theo mức thu nhập bình quân của 3 năm liền kề trước đó được cơ quan thuế xác nhận. Thu nhập sau thuế được xác định căn cứ vào báo cáo tài chính được cơ quan thuế chấp thuận; trường hợp chưa được cơ quan thuế chấp thuận thì việc xác định thu nhập sau thuế được căn cứ vào thu nhập sau thuế do đơn vị kê khai tại báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cuối mỗi năm đã gửi cơ quan thuế. Mức hỗ trợ cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở địa phương.
Hỗ trợ di dời khi giải phóng mặt bằng như thế nào ?
Câu hỏi:

Thực hiện kế hoạch giải phóng mặt bằng để làm đường của UBND thành phố, gia đình tôi thuộc diện phải chuyển tái định cư tại một quận mới. Được biết Nhà nước có chính sách hỗ trợ di dời đối với những trường hợp như gia đình chúng tôi. Vấn đề này được quy định như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Hỗ trợ di chuyển là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu được Nhà nước áp dụng cho những hộ gia đình bị thu hồi đất nay phải chuyển đến nơi ở mới. Theo Điều 27, Nghị định số 197, vấn đề này được quy định như sau:
1. Đối với hộ gia đình khi Nhà nước thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở trong phạm vi tỉnh, thành phố được hỗ trợ mỗi hộ cao nhất 3.000.000 đồng; di chuyển sang tỉnh khác được hỗ trợ cao nhất 5.000.000 đồng; mức hỗ trợ cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định.
2. Đối với tổ chức có đủ điều kiện được bồi thường thiệt hại đất và tài sản khi bị thu hồi mà phải di chuyển cơ sở, được hỗ trợ toàn bộ chi phí thực tế về di chuyển, tháo dỡ và lắp đặt.
3. Trường hợp người bị thu hồi đất ở, không còn chỗ ở khác; trong thời gian chờ tạo lập lại chỗ ở mới (bố trí tái định cư), được bố trí vào nhà ở tạm hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà ở; thời gian và mức hỗ trợ cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với thực tế tại địa phương. 
Bồi thường cây trồng trên đất khi nhà nước thu hồi đất ?
Câu hỏi:

Tôi là xã viên hợp tác xã nông nghiệp. 5 năm trước, tôi được Nhà nước giao cho gần 1,5 hecta đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm. Nay thực hiện chủ trương chuyển đổi đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp của huyện, tôi phải giao lại diện tích đất đang canh tác của mình. Xin hỏi tôi sẽ được bồi thường như thế nào đối với cây trồng đang đến mùa thu hoạch của mình? Ở xã tôi cũng còn nhiều hộ gia đình có diện tích trồng cây lâu năm, diện tích nuôi trồng thuỷ sản nhưng đều nằm trong diện quy hoạch của huyện. Vậy những hộ đó có được đền bù đối với giá trị cây trồng, vật nuôi thuỷ sản hay không, mức đền bù như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vấn đề bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi cũng được Nhà nước chú trọng, quan tâm khi thu hồi đất. Điều 24 Nghị định số 197 cũng đã quy định cụ thể vấn đề này. Theo đó, Nhà nước sẽ thực hiện chính sách bồi thường với từng loại cây, con cụ thể.
Đối với cây hàng năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng thu hoạch của một vụ thu hoạch đó. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 3 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và theo thời giá trung bình của nông sản cùng loại ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất.
Đối với cây lâu năm (bao gồm cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ, lấy lá, cây rừng quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 74/CP ngày 25 tháng 10 năm 1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp), khi Nhà nước thu hồi được bồi thường theo giá trị hiện có của vườn cây (không bao hàm giá trị quyền sử dụng đất). Giá trị hiện có của vườn cây lâu năm để tính bồi thường được xác định như sau:
a) Cây trồng đang ở chu kỳ đầu tư hoặc đang ở thời gian xây dựng cơ bản, thì giá trị hiện có của vườn cây là toàn bộ chi phí đầu tư ban đầu và chi phí chăm sóc đến thời điểm thu hồi đất tính thành tiền theo thời giá tại thị trường địa phương;
b) Cây lâu năm là loại thu hoạch một lần (cây lấy gỗ) đang ở trong thời kỳ thu hoạch thì giá trị hiện có của vườn cây được tính bồi thường bằng (=) số lượng từng loại cây trồng nhân với (x) giá bán 1 cây tương ứng cùng loại, cùng độ tuổi, cùng kích thước hoặc có cùng khả năng cho sản phẩm ở thị trường địa phương tại thời điểm bồi thường trừ đi (-) giá trị thu hồi (nếu có);
c) Cây lâu năm là loại thu hoạch nhiều lần (cây ăn quả, cây lấy dầu, nhựa...) đang ở trong thời kỳ thu hoạch, thì giá trị hiện có của vườn cây được tính bồi thường là giá bán vườn cây ở thị trường địa phương tại thời điểm bồi thường trừ đi (-) giá trị thu hồi (nếu có);
d) Cây lâu năm đã đến thời hạn thanh lý, thì chỉ bồi thường chi phí chặt hạ cho chủ sở hữu vườn cây.
Chi phí đầu tư ban đầu, chi phí chăm sóc, chi phí chặt hạ nói tại mục này được tính thành tiền theo mức chi phí trung bình tại địa phương do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể đối với từng loại cây.
Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa điểm khác thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển, phải trồng lại.
Cây rừng trồng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho các tổ chức, hộ gia đình trồng, quản lý chăm sóc, bảo vệ thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây; tiền bồi thường được phân chia cho người quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Đối với cây trồng và lâm sản phụ trồng trên diện tích đất lâm nghiệp do Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân để trồng, khoanh nuôi, bảo vệ, tái sinh rừng, mà khi giao là đất trống, đồi núi trọc, hộ gia đình, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư trồng rừng, thì được bồi thường theo giá bán cây rừng chặt hạ tại cửa rừng cùng loại ở địa phương tại thời điểm có quyết định thu hồi đất, trừ đi giá trị thu hồi (nếu có).
Đối với vật nuôi (nuôi trồng thủy sản) được bồi thường theo quy định sau:
a) Đối với vật nuôi mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì không phải bồi thường;
b) Đối với vật nuôi mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế. 
Việc di chuyển mồ mả trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất được bồi thường như thế nào?
Câu hỏi:

Việc di chuyển mồ mả trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất được bồi thường như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Nam Sài Gòn trả lời:
Bồi thường về di chuyển mồ mả được cụ thể hoá tại Điều 22, Nghị định số 197. Theo đó, đối với việc di chuyển mồ mả, mức tiền bồi thường được tính cho chi phí về đất đai, đào, bốc, di chuyển, xây dựng lại và các chi phí hợp lý khác có liên quan trực tiếp. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định mức bồi thường cụ thể cho phù hợp với tập quán và thực tế tại địa phương. 
Có được bồi thường nhà thuê của nhà nước không ?
Câu hỏi:

Năm 1995, vợ chồng tôi được cơ quan giao cho ở căn hộ cấp 4 có diện tích 60 m2 thuộc khu tập thể cơ quan (hàng tháng có trả tiền thuê). Một thời gian sau, vì các con tôi đã lớn, diện tích nhà chật hẹp nên không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của gia đình, được phép của cơ quan, chúng tôi quyết định cải tạo, nâng cấp xây thêm tầng nhà trên nền móng cũ. Tuy nhiên, vừa qua cơ quan tôi quyết định lấy lại diện tích nhà trên để xây dựng thêm trụ sở mới. Tôi rất băn khoăn vì không biết gia đình mình có được bồi thường chi phí đã đầu tư cải tạo nhà trước kia hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Bạn đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, nên việc giải quyết bồi thường nhà, công trình được quy định cụ thể tại Điều 21, Nghị định số 197 như sau:
Đối với người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước (nhà thuê hoặc nhà do tổ chức tự quản) nằm trong phạm vi thu hồi đất phải phá dỡ, thì người đang thuê nhà không được bồi thường đối với diện tích nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước và diện tích cơi nới trái phép, nhưng được bồi thường chi phí tự cải tạo, sửa chữa, nâng cấp; mức bồi thường do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định. Phần diện tích nhà ở thuộc sở hữu nhà nước tự cải tạo, sửa chữa, nâng cấp được coi là hợp pháp khi được cơ quan ra quyết định phân nhà hoặc cơ quan quản lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước tại địa phương cho phép.
Bên cạnh đó, người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước bị phá dỡ được thuê nhà ở tại nơi tái định cư; diện tích thuê mới tại nơi tái định cư tương đương với diện tích thuê cũ; giá thuê nhà là giá thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước; nhà thuê tại nơi tái định cư được Nhà nước bán cho người đang thuê theo quy định của Chính phủ về bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê; trường hợp đặc biệt không có nhà tái định cư để bố trí thì được hỗ trợ bằng tiền để tự lo chỗ ở mới; mức hỗ bằng 60% giá trị đất và 60% giá trị nhà đang thuê. Trường hợp có nhà tái định cư để bố trí nhưng người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu nhà nước không thuê thì không được hỗ trợ bằng tiền. 
Bồi thường nhà, công trình khi thu hồi đất ?
Câu hỏi:

Theo quy định của pháp luật về đất đai, Nhà nước xử lý các trường hợp bồi thường, hỗ trợ cụ thể về nhà, công trình như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 20, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP, Nhà nước tiến hành xử lý các trường hợp bồi thường, hỗ trợ cụ thể về nhà, công trình như sau:
1. Nhà, công trình khác được phép xây dựng trên đất có đủ điều kiện bồi thường theo quy định của pháp luật (Điều 8, Nghị định 197) thì được bồi thường như cách thức bồi thường của nhà, công trình xây dựng trên đất.
2. Nhà, công trình khác không được phép xây dựng thì tùy theo mức độ, tính chất hợp pháp của đất, nhà và công trình được bồi thường hoặc hỗ trợ theo quy định sau:
a) Nhà, công trình xây dựng khác không được phép xây dựng nhưng xây dựng trên đất có đủ điều kiện được bồi thường đất theo quy định của pháp luật, xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì được bồi thường như cách thức bồi thường của nhà, công trình xây dựng trên đất; nếu xây dựng từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 về sau, xây dựng không đúng với mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật thì không được bồi thường. Trong trường hợp đặc biệt Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét hỗ trợ từng trường hợp cụ thể cho phù hợp với thực tế tại địa phương.
b) Nhà, công trình khác xây dựng trên đất không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định của pháp luật nhưng tại thời điểm xây dựng mà chưa có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cấp có thẩm quyền công bố hoặc xây dựng phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, không vi phạm hành lang bảo vệ công trình thì được hỗ trợ tối đa bằng 80% mức bồi thường của nhà, công trình xây dựng trên đất ở trên;
c) Nhà, công trình khác được xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 trên đất không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định của pháp luật mà khi xây dựng vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố và cắm mốc hoặc vi phạm hành lang bảo vệ công trình đã được cắm mốc thì không được bồi thường; trường hợp đặc biệt, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét hỗ trợ cho từng trường hợp cụ thể.
3. Nhà, công trình khác xây dựng trên đất không đủ điều kiện được bồi thường theo quy định của pháp luật mà khi xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông báo không được phép xây dựng thì không được bồi thường, không được hỗ trợ; người có công trình xây dựng trái phép đó buộc phải tự phá dỡ và tự chịu chi phí phá dỡ trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền thực hiện phá dỡ.
Có được bồi thường toàn bộ căn nhà khi bị thu hồi đất ?
Câu hỏi:

Vợ chồng tôi làm nhà và sinh sống trên thửa đất của cha ông để lại đã hơn 10 năm. Thực hiện chủ trương của tỉnh về phát triển khu công nghiệp tại địa phương, gia đình chúng tôi phải di dời và được hỗ trợ tái định cư tại địa điểm khác. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế khó khăn, chúng tôi rất lo lắng không biết sẽ xoay sở như thế nào để đủ tiền xây dựng nhà trên thửa đất mới, liệu chúng tôi có được nhà nước bồi thường giá trị xây dựng căn nhà đang ở hay không? Đề nghị cho chúng tôi rõ về vấn đề này.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Khi thực hiện bồi thường đất đai, pháp luật cũng quy định việc bồi thường nhà, công trình xây dựng trên đất với mục đích tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân. Theo Điều 19, Nghị định số 197 của Chính phủ, việc bồi thường này sẽ được thực hiện như sau:
1. Đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân, được bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ Xây dựng ban hành. Giá trị xây dựng mới của nhà, công trình được tính theo diện tích xây dựng của nhà, công trình nhân với đơn giá xây dựng mới của nhà, công trình do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo quy định của Chính phủ.
2. Đối với nhà, công trình xây dựng khác không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này được bồi thường theo mức sau:
Mức bồi thường nhà, công trình = Giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại + Một khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình
Giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại được xác định bằng tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của nhà, công trình đó nhân với giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ Xây dựng ban hành.
Một khoản tiền tính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định, nhưng mức bồi thường tối đa không lớn hơn 100% giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương với nhà, công trình bị thiệt hại;
Đối với công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật, mức bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ Xây dựng ban hành; nếu công trình không còn sử dụng thì không được bồi thường.
Việc phá dỡ nhà, công trình xây dựng làm ảnh hưởng đến công trình khác mà những công trình này không thể sử dụng được theo thiết kế, quy hoạch xây dựng ban đầu hoặc phải phá dỡ thì được bồi thường;
Việc xác định tỷ lệ (%) chất lượng còn lại của nhà, công trình bị thiệt hại do cơ quan được giao thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thực hiện với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành. Tỷ lệ % chất lượng còn lại của nhà, công trình được xác định theo hướng dẫn của Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành có liên quan;
Đối với công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật mà không còn sử dụng được hoặc thực tế không sử dụng, thì khi Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường.
3. Đối với nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, mà phần còn lại không còn sử dụng được thì được bồi thường cho toàn bộ nhà, công trình; trường hợp nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, nhưng vẫn tồn tại và sử dụng được phần còn lại thì được bồi thường phần giá trị công trình bị phá dỡ và chi phí để sửa chữa, hoàn thiện phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của nhà, công trình trước khi bị phá dỡ.
4. Tài sản gắn liền với đất thuộc một trong các trường hợp quy định tại các khoản 4, 6, 7 và 10 Điều 38 Luật Đất đai 2003 thì không được bồi thường, cụ thể là: Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất; Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp: đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm và đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm; Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn.
Nguyên tắc bồi thường tài sản khi thu hồi đất ?
Câu hỏi:

Gia đình tôi đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động phân xưởng cán thép từ nhiều năm nay trên thửa đất của gia đình. Gần đây theo quy hoạch mới của UBND huyện, thửa đất này sẽ bị thu hồi để giải phóng mặt bằng phục vụ dự án mở đường của huyện. Được biết chúng tôi sẽ được bồi thường toàn bộ tài sản gắn liền với đất đang sử dụng. Nhưng đối với hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất cán thép có thể tháo dời và di chuyển được thì sẽ được bồi thường ra sao? Đề nghị cho chúng tôi biết Nhà nước chủ trương thực hiện bồi thường tài sản khi thu hồi đất theo nguyên tắc như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân khi bị nhà nước thu hồi đất, Luật Đất đai, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197 đã quy định cụ thể về việc bồi thường tài sản. Đối với trường hợp trên cũng sẽ thực hiện theo các nguyên tắc bồi thường tài sản như sau:
1. Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà bị thiệt hại, thì được bồi thường. Trong đó, tài sản gắn liền với đất bao gồm: nhà, công trình xây dựng đơn chiếc; nhà, công trình xây dựng theo hệ thống trong một khuôn viên đất (sau đây gọi chung là nhà, công trình), cây trồng trên đất.
2. Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà đất đó thuộc đối tượng không được bồi thường thì tùy từng trường hợp cụ thể được bồi thường hoặc hỗ trợ tài sản.
3. Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất công bố mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép xây dựng thì không được bồi thường.
4. Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà tại thời điểm xây dựng đã trái với mục đích sử dụng đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được xét duyệt thì không được bồi thường.
5. Tài sản gắn liền với đất được tạo lập sau khi có quyết định thu hồi đất được công bố thì không được bồi thường, bao gồm cả cây trồng trên đất.
6. Hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất có thể tháo dời và di chuyển được, thì chỉ được bồi thường các chi phí tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt và thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt; mức bồi thường do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với pháp luật hiện hành và thực tế ở địa phương.  
Đất nông nghiệp có được bồi thường khi bị thu hồi ?
Câu hỏi:

Ông A thừa kế 500 m2 đất nông nghiệp, nhưng không trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Vậy khi Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công ích thì ông A có được bồi thường hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 5 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp sẽ được bồi thường theo quy định của pháp luật khi bị thu hồi đất.
Đối chiếu với quy định nêu trên, khi ông A thừa kế 500 m2 đất nông nghiệp, mà không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì khi bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công ích, ông A sẽ không được bồi thường.
Đất chưa sang tên có được bồi thường khi thu hồi ?
Câu hỏi:

Ông H sử dụng đất do nhận chuyển nhượng từ ông T, có hợp đồng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông T, nhưng hiện chưa làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Vậy ông T hay ông H sẽ là người được hưởng bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đó để sử dụng vào mục đích công cộng?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp cũng được bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đó.
Đối chiếu với quy định nêu trên, khi ông H bị Nhà nước thu hồi đối với đất nhận chuyển nhượng từ ông T, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất thì ông H là người được hưởng bồi thường. Tuy nhiên, ông H chỉ được hưởng quyền này khi được Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp.
Các trường được bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất ?
Câu hỏi:

Khi không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai thì người sử dụng đất phải có các giấy tờ nào mới được Nhà nước bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì ngoài giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây cũng được Nhà nước bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất:
- Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993, nay được Uỷ ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất sử dụng trước ngày 15/10/1993;
- Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
- Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
Đất chưa có giấy chứng nhận có được bồi thường ?
Câu hỏi:

Ông H không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, nhưng lại có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai. Vậy khi Nhà nước thu hồi đất đó thì ông H có được bồi thường thiệt hại hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định người bị Nhà nước thu hồi đất mà có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai sẽ được Nhà nước bồi thường thiệt hại khi thu hồi đất.
Đối chiếu với quy định nêu trên, khi bị thu hồi đất mà đất đó có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất theo quy định của pháp luật về đất đai, thì ông H được Nhà nước bồi thường thiệt hại.
Trong những trường hợp nào thì Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất mà không phải bồi thường?
Câu hỏi:

Trong những trường hợp nào thì Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất mà không phải bồi thường?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 43 Luật Đất đai và Điều 7 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, trong những trường hợp sau đây Nhà nước thu hồi đất mà không thực hiện việc bồi thường cho người bị thu hồi:
1- Người sử dụng đất không đủ điều kiện theo quy định tại Điều 8 của Nghị định này.
2- Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm; đất nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền trả cho việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
3- Đất bị thu hồi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất; sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả; người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất; đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền; đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp  đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm và trường hợp đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm; cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế; người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn; đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền; đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.
4- Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng.
5- Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
6- Người bị Nhà nước thu hồi đất có một trong các điều kiện quy định tại Điều 8 của Nghị định này nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.
Việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đối với tổ chức, cá nhân, hộ gia đình dựa trên nguyên tắc nào?
Câu hỏi:

Việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất đối với tổ chức, cá nhân, hộ gia đình dựa trên nguyên tắc nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, Nhà nước thực hiện việc bồi thường khi thu hồi đất của tổ chức, cá nhân, hộ gia đình dựa trên nguyên tắc sau đây:
- Người bị Nhà nước thu hồi đất có đủ điều kiện quy định tại Điều 8 của Nghị định này thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xem xét để hỗ trợ.
- Người bị thu hồi đất đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà, nếu có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thực hiện thanh toán bằng tiền.
- Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả ngân sách nhà nước.
Trình tự, thủ tục mua bán, cho thuê, thừa kế, tặng cho tài sản gắn liền với đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất được pháp luật quy định như thế nào?
Câu hỏi:

Trình tự, thủ tục mua bán, cho thuê, thừa kế, tặng cho tài sản gắn liền với đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Trình tự thủ tục mua bán, cho thuê, thừa kế, tặng cho nhà ở, công trình kiến trúc khác, cây rừng, cây lâu năm thuộc sở hữu của người sử dụng đất gắn liền với đất; thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng nhà ở, công trình kiến trúc khác, cây rừng, cây lâu năm thuộc sở hữu của người sử dụng đất gắn liền với đất được thực hiện theo trình tự chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất quy định tại các Điều 148, 149, 151, 152, 153 và 155 của Nghị định số 181.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ, ngành có liên quan hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các quyền mua bán, cho thuê, thừa kế, tặng cho tài sản gắn liền với đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng tài sản gắn liền với đất.
Để thực hiện việc đăng ký nhận quyền sử dụng đất do xử lý hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, kê biên bán đấu giá quyền sử dụng đất, pháp luật Đất đai quy định trình tự, thủ tục gì?
Câu hỏi:

Để thực hiện việc đăng ký nhận quyền sử dụng đất do xử lý hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, kê biên bán đấu giá quyền sử dụng đất, pháp luật Đất đai quy định trình tự, thủ tục gì?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo Điều 157 Nghị định số 181, để thực hiện việc đăng ký nhận quyền sử dụng đất do xử lý hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn, kê biên bán đấu giá quyền sử dụng đất thì tổ chức đã thực hiện việc xử lý quyền sử dụng đất đã thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất hoặc kê biên bán đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án theo quy định của pháp luật có trách nhiệm nộp thay người được nhận quyền sử dụng đất một (01) bộ hồ sơ gồm có:
a) Hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh, hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất hoặc quyết định kê biên bán đấu giá quyền sử dụng đất của cơ quan thi hành án;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);
c) Chứng từ thực hiện nghĩa vụ tài chính (nếu có);
d) Văn bản về kết quả đấu giá trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất.
Sau khi đã chuẩn bị đủ hồ sơ hợp lệ, việc đăng ký nhận quyền sử dụng đất được thực hiện như sau: 
a) Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi kèm theo hồ sơ đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp;
b) Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận. 
Trình tự, thủ tục xoá đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất được pháp luật quy định cụ thể như thế nào?
Câu hỏi:

Trình tự, thủ tục xoá đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất được pháp luật quy định cụ thể như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 156, Nghị định số 181, để thực hiện việc xoá đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất, bên đã góp vốn hoặc bên nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất hoặc cả hai bên nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:
a) Hợp đồng chấm dứt góp vốn; 
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp xoá đăng ký góp vốn mà trước đây khi góp vốn chỉ chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (do không thay đổi thửa đất) thì trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, thực hiện xoá đăng ký góp vốn trong hồ sơ địa chính và chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp xoá đăng ký góp vốn mà trước đây khi góp vốn đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho pháp nhân mới (do có thay đổi thửa đất) thì thực hiện như sau:
a) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích sao hồ sơ địa chính và gửi kèm theo hồ sơ đến Sở Tài nguyên và Môi trường;
b) Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp không thay đổi thửa đất hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho pháp nhân mới đối với trường hợp có thay đổi thửa đất; trường hợp bên góp vốn là tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài mà thời hạn sử dụng đất chưa kết thúc sau khi chấm dứt góp vốn thì ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cấp cho bên đã góp vốn và gửi cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc; trường hợp bên góp vốn là hộ gia đình, cá nhân mà thời hạn sử dụng đất chưa kết thúc sau khi chấm dứt góp vốn thì gửi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã thu hồi của pháp nhân mới cho Phòng Tài nguyên và Môi trường nơi có đất;
c) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ và trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định cấp giấy nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân đã góp vốn mà thời hạn sử dụng đất chưa kết thúc sau khi chấm dứt góp vốn;
d) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được tờ trình, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có trách nhiệm xem xét, ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp thời hạn sử dụng đất kết thúc cùng lúc với chấm dứt góp vốn nếu bên góp vốn có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì lập thủ tục xin gia hạn sử dụng đất theo quy định của pháp luật; nếu bên góp vốn không xin gia hạn hoặc không được gia hạn sử dụng đất thì cơ quan tài nguyên và môi trường thực hiện thủ tục thu hồi đất theo quy định của pháp luật.
Thủ tục góp vốn bằng quyền sử dụng đất ?
Câu hỏi:

Năm 2003 qua giới thiệu của bạn bè tôi đã mua được mảnh đất đồi rộng gần 2 hecta để làm trang trại. Gần đây, tôi quyết định góp vốn bằng quyền sử dụng mảnh đất trên cùng một số người bạn để thành lập công ty chuyên sản xuất giấy bao bì nhằm tận dụng lao động tại địa phương. Để đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất, tôi đã chuẩn bị hồ sơ và nộp lên Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, đã gần 20 ngày nhưng tôi vẫn chưa thực hiện được việc đăng ký của mình. Đề nghị cho tôi biết pháp luật quy định trong thời hạn bao lâu thì việc đăng ký của tôi sẽ được giải quyết?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để thực hiện việc đăng ký góp vốn bằng quyền sử dụng đất, bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất sau khi đã chuẩn bị đủ 01 bộ hồ sơ và nộp lên Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, thì trong thời hạn không quá mười (10) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, thực hiện đăng ký góp vốn vào hồ sơ địa chính, chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận.
Hồ sơ hợp lệ bao gồm:
- Hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);
Trong trường hợp trên, bạn nên kiểm tra hồ sơ thực hiện việc đăng ký của mình. Nếu thấy hồ sơ đã hợp lệ, bạn có thể khiếu nại việc chậm trễ giải quyết hồ sơ của bạn tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Phòng địa chính huyện hoặc UBND huyện nơi bạn tiến hành các thủ tục đăng ký. 
Thủ tục xóa thuế chấp, bảo lãnh
Câu hỏi:

Sau khi hoàn thành xong nghĩa vụ trả nợ, bên đã thế chấp, bảo lãnh sẽ thực hiện việc đăng ký xoá thế chấp, bảo lãnh như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để thực hiện việc đăng ký xoá thế chấp, bảo lãnh sau khi hoàn thành xong nghĩa vụ trả nợ, bên đã thế chấp, bên đã bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất nộp một (01) bộ hồ sơ lên Văn phòng đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất gồm có:
a) Xác nhận của bên nhận thế chấp, bảo lãnh về việc đã hoàn thành nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất hoặc bản xác nhận của bên nhận thế chấp, bảo lãnh về việc đã hoàn thành nghĩa vụ trả nợ;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 
Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất kiểm tra việc hoàn thành nghĩa vụ trả nợ của người xin xoá đăng ký thế chấp, xoá đăng ký bảo lãnh; thực hiện việc xoá đăng ký thế chấp, xoá đăng ký bảo lãnh trong hồ sơ địa chính và chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trình tự, thủ tục đối với việc đăng ký huỷ đăng ký thế chấp, đăng ký huỷ đăng ký bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất; đăng ký kết quả về việc xử lý tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất, đăng ký kết quả về việc xử lý tài sản bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất được thực hiện theo trình tự, thủ tục đối với việc xoá đăng ký thế chấp, xoá đăng ký bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. 
Thủ tục đăng ký thế chấp, bảo lãnh quyền sử dụng đất ?
Câu hỏi:

Pháp luật Đất đai quy định như thế nào về trình tự, thủ tục đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để thực hiện việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, Điều 153 Nghị định số 181 đã quy định cụ thể như sau;
1. Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày ký kết hợp đồng tín dụng, các bên tham gia thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất phải nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:
a) Hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
2. Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện đăng ký thế chấp, đăng ký bảo lãnh vào hồ sơ địa chính và chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận.
3. Việc đăng ký thay đổi nội dung đã đăng ký thế chấp, đã đăng ký bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất; sửa chữa sai sót trong nội dung đăng ký thế chấp, đăng ký bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất được thực hiện theo trình tự, thủ tục đối với việc đăng ký thế chấp, đăng ký bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất quy định tại khoản 2 Điều này.
Thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế ?
Câu hỏi:

Vợ chồng chúng tôi hiếm muộn chưa có con nhưng được thừa hưởng tài sản hơn 200 m2 đất do ông bà để lại. Chúng tôi sống với người cháu ruột và muốn tặng cho cháu mình một nửa diện tích đất gắn với quyền sử dụng đất trên để xây nhà ở. Đề nghị cho chúng tôi biết để làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất, chúng tôi cần có những giấy tờ gì và chúng tôi phải đến đâu để thực hiện việc này?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Nghị định số 181 tại Điều 152 đã quy định về trình tự, thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất. Theo đó, bên được tặng cho quyền sử dụng đất nộp một (01) bộ hồ sơ lên Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, gồm có:
a) Văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho hoặc quyết định tặng cho quyền sử dụng đất của tổ chức;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
Trong thời hạn không quá bốn (04) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, làm trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính (nếu có); chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận;
Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm thông báo cho bên được tặng cho quyền sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính;
Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày bên được tặng cho thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thủ tục nhận thừa kế theo di chúc?
Câu hỏi:

Tôi có hai người anh cùng cha nhưng khác mẹ. Các anh tôi đều đã có gia đình riêng, nhà cửa, công ăn việc làm ổn định và thu nhập cao. 5 năm trước, khi tôi còn ít tuổi bố tôi vì trọng bệnh qua đời đã để lại di chúc cho tôi hưởng thừa kế căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất của ông (di chúc có xác nhận của UBND xã). Nay tôi đã đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), tôi muốn làm các thủ tục để chính thức nhận thừa kế theo di chúc của bố. Đề nghị cho tôi biết trình tự, thủ tục để tôi thực hiện?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất, pháp Luật Đất đai (Điều 151, Nghị định số 181) quy định người nhận thừa kế phải thực hiện các thủ tục như sau:
1. Người nhận thừa kế nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:
a) Di chúc; biên bản phân chia thừa kế; bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật; đơn đề nghị của người nhận thừa kế đối với trường hợp người nhận thừa kế là người duy nhất;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
2. Việc đăng ký thừa kế được thực hiện như sau:
a) Trong thời hạn không quá bốn (04) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, làm trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính cho cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính (nếu có); chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận;
b) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm thông báo cho bên nhận thừa kế quyền sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
c) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận thừa kế quyền sử dụng đất thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 
Thủ tục xóa đăng ký đất thuê ?
Câu hỏi:

Để cải thiện đời sống của cán bộ công nhân viên, công ty chúng tôi đã ký hợp đồng cho thuê lại quyền sử dụng 60m2 đất mặt đường (thuộc khuôn viên của công ty) để làm trụ sở giao dịch với doanh nghiệp tư nhân VT với thời hạn là 5 năm. Nay thời hạn cho thuê lại đất đã hết, công ty chúng tôi cũng có nhu cầu tiếp tục sản xuất kinh doanh trên diện tích đất đã cho thuê, chúng tôi cần tiến hành thủ tục gì để xoá đăng ký cho thuê lại quyền sử dụng đất?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Nam Sài Gòn trả lời:
Theo Điều 150, Nghị định số 181, việc xoá đăng ký cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất được thực hiện theo trình tự, thủ tục như sau:
1. Sau khi hợp đồng thuê, thuê lại quyền sử dụng đất hết hiệu lực, người đã cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:
a) Xác nhận thanh lý hợp đồng thuê đất trong Hợp đồng thuê đất đã ký kết hoặc bản thanh lý hợp đồng thuê đất;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thực hiện xoá đăng ký cho thuê, cho thuê lại trong hồ sơ địa chính và chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thủ tục đăng ký cho thuê, cho thuê lại ?
Câu hỏi:

Pháp Luật Đất đai quy định việc đăng ký cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất được thực hiện theo trình tự, thủ tục như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Nam Sài Gòn trả lời:
Trình tự, thủ tục đăng ký cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất quy định cụ thể tại Điều 149, Nghị định số 181 như sau:
1. Bên cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:
a) Hợp đồng thuê, thuê lại quyền sử dụng đất;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
2.  Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thực hiện thủ tục đăng ký cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất vào hồ sơ địa chính và chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận.
3. Trình tự, thủ tục cho thuê, cho thuê lại đất quy định tại Điều này không áp dụng đối với trường hợp cho thuê, cho thuê lại đất trong khu công nghiệp.
Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất ?
Câu hỏi:

Để thuận tiện cho việc sinh hoạt, học tập của con cái, vợ chồng tôi quyết định mua ngôi nhà của ông bà H. Ngôi nhà này được xây dựng trên đất thổ cư đã được cấp sổ đỏ. Sau khi thống nhất giá cả, tôi đề nghị ông H cùng vợ chồng tôi ra UBND phường làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tôi rất băn khoăn không biết để thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp luật, tôi phải thực hiện theo trình tự, thủ tục như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất được cụ thể hoá tại Điều 148, Nghị định số 181 như sau:
1. Bên nhận chuyển nhượng nộp một (01) bộ hồ sơ gồm có:
a) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
2. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thực hiện như sau:
a) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính; chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận;
b) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thông báo cho bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ tài chính;
c) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất hoặc Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất có trách nhiệm trao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Thủ tục chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp ?
Câu hỏi:

Theo quy định của pháp luật Đất đai, trình tự, thủ tục chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 147 Nghị định số 181 đã quy định cụ thể về trình tự, thủ tục chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. Theo đó, pháp luật chia thành các trường hợp chuyển đổi theo chủ trương chung về “dồn điền đổi thửa” và chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa hai hộ gia đình, cá nhân. Cụ thể như sau:
1. Đối với trường hợp chuyển đổi theo chủ trương chung về “dồn điền đổi thửa”:
a) Các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp tự thoả thuận với nhau bằng văn bản về việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; nộp văn bản thoả thuận kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);
b) Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập phương án chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp chung cho toàn xã, phường, thị trấn (bao gồm cả tiến độ thời gian thực hiện chuyển đổi) và gửi phương án đến Phòng Tài nguyên và Môi trường;
c) Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thẩm tra phương án và chỉ đạo Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc để chuẩn bị hồ sơ địa chính;
d) Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính khu đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi đến Phòng Tài nguyên và Môi trường;
đ) Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ và trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định;
e) Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có trách nhiệm xem xét, ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất chuyển đổi và gửi cho Phòng Tài nguyên và Môi trường.
2. Đối với trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa hai hộ gia đình, cá nhân được thực hiện như sau:
a) Hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp nộp một (01) bộ hồ sơ gồm hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);
b) Trong thời hạn không quá hai (02) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm gửi hồ sơ cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường;
c) Trong thời hạn không quá ba (03) ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích sao hồ sơ địa chính và chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp phải cấp mới giấy chứng nhận.
Thủ tục hợp thửa ?
Câu hỏi:

Ông M nhận chuyển nhượng 100m2 đất ở của gia đình ông T ở bên cạnh thửa đất nhà mình. Để tiện cho việc sử dụng và quản lý ông M có nguyện vọng hợp nhất hai thửa đất đó làm một. Vậy theo quy định của pháp luật thì ông M phải tiến hành theo trình tự, thủ tục nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 145 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì trình tự, thủ tục hợp thửa theo nhu cầu của ông M là người sử dụng đất được thực hiện như sau: Ông M lập 01 bộ hồ sơ hợp thửa tại Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với hộ gia đình, cá nhân. Hồ sơ hợp thửa gồm có đơn hợp thửa và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm gửi hồ sơ cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc để chuẩn bị hồ sơ địa chính. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai, trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét và ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất mới.
Thủ tục tách thửa ?
Câu hỏi:

A và B cùng góp tiền mua chung 150m2 đất ở, sau đó họ có thoả thuận tách làm đôi. Vậy khi tách thửa đất mua chung làm đôi thì A và B phải làm các thủ tục gì?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Khi muốn tách thửa đất mua chung làm đôi thì A và B phải làm các thủ tục quy định tại khoản 1 Điều 145 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai. Theo đó, A và B phải lập hồ sơ tách thửa. Hồ sơ tách thửa gồm có:
- Đơn xin tách thửa;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm gửi hồ sơ cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc để chuẩn bị hồ sơ địa chính. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính, Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai, trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét và ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất mới.
Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị mất ?
Câu hỏi:

Anh A bị mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, nay muốn cơ quan có thẩm quyền cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho mình thì phải làm các thủ tục gì?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Tại Điều 144 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định trình tự, thủ tục cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như sau: Người sử dụng đất có nhu cầu cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nộp 01 bộ hồ sơ gồm có: đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp cấp đổi.
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ; làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính; xác nhận vào đơn xin cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gửi trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính kèm theo hồ sơ xin cấp lại, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp. Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo uỷ quyền; Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
Thời gian thực hiện các công việc trên không quá 28 ngày làm việc kể từ ngày Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho đến ngày người sử dụng đất nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp xin cấp lại do mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất được thêm thời gian không quá 40 ngày làm việc, trong đó 10 ngày để thẩm tra nội dung của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã bị mất và 30 ngày để niêm yết thông báo về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã mất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.
Như vậy, khi anh A muốn cơ quan có thẩm quyền cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải có đơn đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi cho cơ quan có thẩm quyền. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nơi có đất thực hiện việc niêm yết thông báo về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã mất, thẩm tra, trích lục bản đồ địa chính, xác nhận vào đơn xin cấp lại và gửi toàn bộ những giấy tờ đó đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp để cơ quan này trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh A.
Thủ tục đăng ký biến động đất sạt lở, giảm diện tích ?
Câu hỏi:

Trong trường hợp người sử dụng đất đổi tên hoặc do giảm diện tích thửa đất do sạt lở tự nhiên, thay đổi về quyền, thay đổi về nghĩa vụ tài chính thì có phải đăng ký biến động về sử dụng đất với cơ quan có thẩm quyền hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Khi người sử dụng đất đổi tên hoặc do giảm diện tích thửa đất do sạt lở tự nhiên, thay đổi về quyền, thay đổi về nghĩa vụ tài chính thì người sử dụng đất phải đăng ký biến động về sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo quy định tại Điều 143 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì khi có biến động về sử dụng đất do đổi tên, giảm diện tích thửa đất do sạt lở tự nhiên, thay đổi về quyền, thay đổi về nghĩa vụ tài chính, thì người sử dụng đất phải tiến hành đăng ký biến động về sử dụng đất với cơ quan có thẩm quyền. Trình tự, thủ tục đăng ký như sau:
Người sử dụng đất có nhu cầu đăng ký biến động về sử dụng đất nộp 01 bộ hồ sơ gồm có đơn xin đăng ký biến động về sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có) và các giấy tờ pháp lý khác có liên quan đến việc đăng ký biến động về sử dụng đất.
Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, xác nhận vào đơn xin đăng ký biến động; làm trích đo địa chính thửa đất đối với trường hợp có thay đổi về diện tích thửa đất do sạt lở tự nhiên thì phải thực hiện trích đo địa chính thửa đất, trích sao hồ sơ địa chính và gửi kèm theo hồ sơ xin đăng ký biến động đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp;
Trong thời hạn không quá 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thủ tục gia hạn hợp đồng thuê đất ?
Câu hỏi:

Gia đình ông A thuê 5 hec ta đất để sản xuất trong thời hạn 10 năm. Do hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nên khi gần hết thời hạn thuê, gia đình ông A có nguyện vọng muốn được thuê tiếp 5 hec ta đất đó. Vậy gia đình ông A phải làm các thủ tục gì để thực hiện việc gia hạn hợp đồng thuê đất?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 141 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, thì gia đình ông A phải làm các thủ tục sau đây để thực hiện việc gia hạn hợp đồng thuê đất: Trước khi hết hạn sử dụng đất 6 tháng, hộ gia đình ông A nộp 01 bộ hồ sơ tại Phòng Tài nguyên và Môi trường nơi có đất. Hồ sơ gồm có đơn xin gia hạn sử dụng đất và dự án bổ sung về sản xuất, kinh doanh đã được xét duyệt.
Cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, xác định nhu cầu sử dụng đất phù hợp với đơn xin gia hạn hoặc dự án bổ sung về sản xuất, kinh doanh đã được xét duyệt; trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định gia hạn; chỉ đạo Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc làm trích sao hồ sơ địa chính. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm làm trích sao hồ sơ địa chính gửi cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp và gửi số liệu địa chính cho cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính. Hộ gia đình ông A có trách nhiệm nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã hết hạn, nộp chứng từ đã thực hiện xong nghĩa vụ tài chính cho cơ quan tài nguyên và môi trường. Cơ quan tài nguyên và môi trường có trách nhiệm chỉnh lý thời hạn sử dụng đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp được gia hạn sử dụng đất;
Thời gian thực hiện các công việc trên không quá 20 ngày làm việc (không kể thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính) kể từ ngày cơ quan tài nguyên và môi trường nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày hộ gia đình ông A nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trong trường hợp hộ gia đình ông A không đủ điều kiện được gia hạn sử dụng đất thì cơ quan tài nguyên và môi trường thực hiện việc thu hồi đất theo quy định tại khoản 3 Điều 132 của Nghị định này.
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi pháp nhân chia, tách, sáp nhập ?
Câu hỏi:

Tổ chức là pháp nhân mới được hình thành thông qua việc chia tách hoặc sáp nhập theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc văn bản về việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức kinh tế phù hợp với pháp luật được nhận quyền sử dụng đất từ các tổ chức là pháp nhân bị chia tách hoặc sáp nhập sẽ phải tiến hành làm những thủ tục, trình tự gì để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 140 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức là pháp nhân mới được hình thành thông qua việc chia tách hoặc sáp nhập theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc văn bản về việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức kinh tế phù hợp với pháp luật được nhận quyền sử dụng đất từ các tổ chức là pháp nhân bị chia tách hoặc sáp nhập sẽ phải tiến hành làm những thủ tục, trình tự như sau:
- Pháp nhân nhận quyền sử dụng đất nộp tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất của Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có đất 01 bộ hồ sơ gồm có chứng từ đã thực hiện nghĩa vụ tài chính (nếu có) và quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức; văn bản về việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức kinh tế phù hợp với pháp luật.
Trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi kèm theo hồ sơ đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo uỷ quyền.
Thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi trúng thầu ?
Câu hỏi:

Ông Q tham gia đấu giá và đã trúng thầu một lô đất ở có diện tích là 65m2. Vậy ông Q phải tiến hành làm những thủ tục gì để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 139 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, khi ông Q tham gia đấu giá và đã trúng thầu một lô đất ở có diện tích là 65m2 thì ông Q không phải trực tiếp tiến hành làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà tổ chức đã thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất có trách nhiệm nộp thay người trúng đấu giá, đấu thầu 01 bộ hồ sơ gồm có: Văn bản công nhận kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất, trúng đấu thầu dự án có sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất; trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính khu đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính; chứng từ  đã thực hiện nghĩa vụ tài chính (nếu có).
Trong thời hạn không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ; làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính và gửi kèm theo hồ sơ đến cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo uỷ quyền; Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp ký giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; cơ quan tài nguyên và môi trường gửi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã ký cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc để trao cho ông Q.
Thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ?
Câu hỏi:

Bà B hiện đang sử dụng 50m2 đất ở, đất không có tranh chấp, nay bà muốn Uỷ ban nhân dân quận cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó thì phải làm những thủ tục gì? Khi có yêu cầu của bà B, cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành giải quyết theo trình tự, thủ tục như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 136 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, thì bà B phải thực hiện các thủ tục sau: nộp 01 bộ hồ sơ gồm có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).
Khi nhận được hồ sơ của bà B, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, xác minh thực địa khi cần thiết; lấy ý kiến xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất mà bà B có yêu cầu cấp giấy chứng nhận; trường hợp bà B không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì lấy ý kiến của Uỷ ban nhân dân phường về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai việc bà B đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trong thời gian 15 ngày; xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B; xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp bà B đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ghi ý kiến đối với trường hợp bà B không đủ điều kiện; trường hợp bà B đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp bà B phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; gửi hồ sơ đối với trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kèm theo trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính đến Phòng Tài nguyên và Môi trường;
Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B nếu đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng.
Thời gian thực hiện các công việc nêu trên không quá 55 ngày làm việc (không kể thời gian công bố công khai danh sách xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính) kể từ ngày Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày bà B nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. 
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất tại xã, thị trấn được thực hiện như thế nào?
Câu hỏi:

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất tại xã, thị trấn được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Nam Sài Gòn trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất tại xã, thị trấn  được thực hiện theo trình tự, thủ tục sau đây:
- Hộ gia đình, cá nhân nộp tại Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất 01 bộ hồ sơ gồm có: đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có); văn bản ủy quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có).
- Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn trong thời gian 15 ngày; xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường;
- Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ghi ý kiến đối với trường hợp không đủ điều kiện; trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; gửi hồ sơ những trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kèm theo trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính đến Phòng Tài nguyên và Môi trường;
- Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ký hợp đồng thuê đất đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất;
Thời gian thực hiện các công việc trên không quá 55 ngày làm việc (không kể thời gian công bố công khai danh sách các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính) kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày người sử dụng đất nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất ?
Câu hỏi:

Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất trong khi thực hiện trình tự, thủ tục hành chính về quản lý và sử dụng đất đai được pháp luật hiện hành quy định như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 120 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất trong khi thực hiện trình tự, thủ tục hành chính về quản lý và sử dụng đất đai được quy định như sau:
 - Nghĩa vụ tài chính về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, các loại thuế có liên quan đến đất do cơ quan thuế xác định căn cứ vào số liệu địa chính của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cung cấp. Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được số liệu địa chính do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi đến, cơ quan thuế có trách nhiệm thông báo cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất về mức nghĩa vụ tài chính mà người sử dụng đất phải thực hiện; Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thông báo mức nghĩa vụ tài chính trực tiếp cho người phải thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc thông qua cơ quan tài nguyên và môi trường đối với trường hợp hồ sơ nộp tại cơ quan tài nguyên và môi trường hoặc thông qua Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất đối với trường hợp hồ sơ nộp tại Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn. Trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo về nghĩa vụ tài chính, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan tài nguyên và môi trường, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thông báo cho người phải thực hiện nghĩa vụ tài chính để nộp tiền vào kho bạc nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Phí và lệ phí có liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai mà người sử dụng đất phải nộp khi thực hiện thủ tục hành chính về quản lý, sử dụng đất do Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất xác định theo quy định của pháp luật, thông báo và hướng dẫn người sử dụng đất nộp trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính.
Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa công ty và cá nhân ?
Câu hỏi:

: Khi ông B chuyển nhượng 300m2 đất ở cho Công ty M đã đến Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất làm thủ tục chứng thực hợp đồng. Nhưng Uỷ ban nhân dân xã đã từ chối với lý do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cá nhân với cho tổ chức kinh tế thì phải được công chứng. Vậy việc Uỷ ban nhân dân xã từ chối yêu cầu của ông B và Công ty M với lý trên có được coi là đúng với quy định của pháp luật hiện hành hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Tại điểm b khoản 1 Điều 119 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 17/2006/ NĐ-CP ngày 27/1/2006) quy định hợp đồng hoặc giấy tờ khi người sử dụng đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc xác nhận của Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì phải có chứng nhận của công chứng nhà nước đối với tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài; phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất đối với hộ gia đình, cá nhân; phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất cho bên tham gia là hộ gia đình và bên còn lại là tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài.
Trường hợp ông B chuyển nhượng 300m2 đất ở cho Công ty M không thuộc diện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Cho nên, ông B và Công ty M có thể lựa chọn việc chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất đối với hợp đồng đó. Vì vậy, việc Uỷ ban nhân dân xã X chối yêu cầu chứng thực hợp đồng giữa ông B và Công ty M với lý do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cá nhân với cho tổ chức kinh tế bắt buộc phải công chứng là không đúng với quy định của pháp luật hiện hành.
Hợp đồng thuê đất khu công nghiêp có vô hiệu không?
Câu hỏi:

Công ty S thuê 3.000m2 đất tại Khu công nghiệp M để làm mặt bằng sản xuất, sau đó đã cho Công ty K thuê lại. Hợp đồng cho thuê lại giữa hai Công ty chỉ được Ban quản lý khu công nghiệp xác nhận mà không được công chứng hoặc chứng thực. Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành, hợp đồng cho thuê lại đất giữa công ty S với Công ty K trong trường hợp nêu trên được coi là có hiệu lực hay không ?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 119 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 17/2006/ NĐ-CP ngày 27/1/2006) thì hợp đồng hoặc giấy tờ khi người sử dụng đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc xác nhận của Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao. Trường hợp chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao thì phải có chứng nhận của Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao.
Đối chiếu với quy định nêu trên, khi Công ty S cho Công ty K thuê lại 3.000m2 đất tại Khu công nghiệp M thì hợp đồng cho thuê lại giữa hai doanh nghiệp bắt buộc phải có xác nhận của Ban quản lý khu công nghiệp M mới có hiệu lực pháp luật. Do đó, trong trường hợp trên hợp đồng cho thuê lại quyền sử dụng đất giữa Công ty S  và Công ty K đã được Ban quản lý khu công nghiệp M xác nhận được coi là có hiệu lực. 
Người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ sử dụng đất?
Câu hỏi:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, những người nào được coi là người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 115 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, người đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất là những người sau đây:
- Người đứng đầu của tổ chức, tổ chức nước ngoài đối với việc sử dụng đất của tổ chức mình.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đối với việc sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích công ích; đất phi nông nghiệp đã giao cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn để sử dụng vào mục đích xây dựng trụ sở Uỷ ban nhân dân và các công trình công cộng phục vụ hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí, chợ, nghĩa trang, nghĩa địa và các công trình công cộng khác của địa phương.
- Người đại diện cho cộng đồng dân cư đối với việc sử dụng đất đã giao cho cộng đồng dân cư.
- Người đứng đầu cơ sở tôn giáo đối với việc sử dụng đất đã giao cho cơ sở tôn giáo.
- Chủ hộ gia đình đối với việc sử dụng đất của hộ gia đình.
- Cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài đối với việc sử dụng đất của mình.
- Người đại diện cho những người sử dụng đất mà có quyền sử dụng chung thửa đất đối với việc sử dụng đất đó. 
Có được đòi lại đất cho mượn ?
Câu hỏi:

Ông A cho bà B mượn 100m2 đất để làm nhà ở. Sau 20 năm, bà B muốn trả lại đất cho ông A để chuyển sang tỉnh khác ở. Vậy trong trường hợp khi ông Acho bà B mượn không có hợp đồng và đất cho mượn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông A có quyền nhận lại đất cho mượn hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Khoản 3 Điều 113 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định trường hợp hộ gia đình, cá nhân mượn đất, thuê đất của hộ gia đình, cá nhân khác mà không có văn bản thoả thuận về việc mượn đất, thuê đất quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, nay tự nguyện trả lại đất đã mượn, đã thuê thì việc trả lại đất phải được Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định công nhận.   
Đối chiếu với quy định nêu trên, khi bà B muốn trả lại đất đã mượn 20 năm cho ông A mà khi mượn không có hợp đồng và đất cho mượn chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông A muốn nhận lại đất đã cho mượn thì phải được Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định công nhận.
Các trường hợp đòi lại đất cho thuê, cho mượn ?
Câu hỏi:

Hộ gia đình, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc đòi lại đất đã cho mượn, cho thuê trong trường hợp nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 113 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, hộ gia đình, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc đòi lại đất đã cho mượn, cho thuê trong các trường hợp sau đây:
- Quyền sử dụng đất là tài sản của người cho mượn, cho thuê đất;
- Nhà xưởng sản xuất, kinh doanh gắn liền với đất là tài sản của người cho mượn, cho thuê nhà xưởng;
- Quyền sử dụng đất; nhà xưởng sản xuất, kinh doanh gắn liền với đất; nhà ở gắn liền với đất không thuộc danh sách các trường hợp đã thực hiện các chính sách cải tạo của Nhà nước về đất đai, nhà ở, nhà xưởng;  
- Việc giải quyết đối với quyền sử dụng đất, nhà xưởng sản xuất, kinh doanh gắn liền với đất được thực hiện như đối với nhà ở gắn liền với đất quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991.
Quyền đối với quyền sử dụng đất chung được xác định như thế nào?
Câu hỏi:

Quyền và nghĩa vụ của nhóm người sử dụng đất gồm nhiều thành viên là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà quyền sử dụng đất là tài sản chung được xác định như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Khoản 2 Điều 111 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của nhóm người sử dụng đất gồm hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế được quy định như sau:
a- Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm mà phân chia được theo phần thì từng thành viên của nhóm được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đối với phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng;
b- Trường hợp quyền sử dụng đất của nhóm mà không chia được theo phần thì do người đại diện của nhóm thực hiện quyền và nghĩa vụ.
Từng thành viên của nhóm được uỷ nhiệm cho người đại diện của nhóm để thực hiện quyền và nghĩa vụ quy định tại điểm a khoản này theo quy định của pháp luật về dân sự;
c- Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của nhóm quy định tại điểm b khoản này, người đại diện phải có văn bản đồng ý của tất cả các thành viên của nhóm kèm theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho các thành viên của nhóm.
Quyền và nghĩa vụ đối với đất ở?
Câu hỏi:

Hộ gia đình ông H và cá nhân trong hộ gia đình đó cùng bỏ tiền ra nhận chuyển nhượng 50 m2 đất ở tại thị xã X tỉnh Y xây dựng nhà để ở. Vậy pháp luật quy định trong trường hợp trên hộ gia đình ông H và cá nhân trong hộ gia đình đó có các quyền và nghĩa vụ gì?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điểm a khoản 1 Điều 111 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định các thành viên của nhóm người sử dụng đất gồm hộ gia đình, cá nhân mà quyền sử dụng đất là tài sản chung thì nhóm người sử dụng đất đó có quyền và nghĩa vụ như quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân quy định tại Điều 113 của Luật Đất đai. Cụ thể, nhóm người sử dụng đất đó có quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 105 và Điều 107 của Luật Đất đai;
- Chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trừ trường hợp chuyển nhượng có điều kiện theo quy định của Chính phủ;
- Cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam thuê quyền sử dụng đất;
- Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật;
- Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;
- Tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 của Luật này; tặng cho quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này;
- Thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tại tổ chức kinh tế hoặc cá nhân để vay vốn sản xuất, kinh doanh;
- Góp vốn bằng quyền sử dụng đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài để hợp tác sản xuất, kinh doanh. 
Quyền của doanh nghiệp sử dụng đất xây dựng chung cư?
Câu hỏi:

Công ty A được giao 3 hecta đất để thực hiện dự án xây dựng nhà chung cư bán cho người có thu nhất thấp. Vậy theo quy định của pháp luật hiện hành, Công ty A sẽ có các quyền gì khi sử dụng đất để xây dựng nhà chung cư đó?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 110 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, Công ty A có các quyền sau đây đối với 3 hecta đất được giao để thực hiện dự án xây dựng nhà chung cư bán cho người có thu nhất thấp:
- Nếu Công ty A được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất hoặc được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, do nhận chuyển quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất, tiền đã trả cho việc nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng kinh doanh nhà chung cư theo dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 105 và Điều 107 của Luật Đất đai; bán, tặng cho, cho thuê căn hộ của nhà chung cư; thế chấp, bảo lãnh bằng các căn hộ của nhà chung cư; giá trị quyền sử dụng đất xây dựng nhà chung cư không được tính vào giá căn hộ của nhà chung cư khi bán, cho thuê; quyền sử dụng đất không được sử dụng để thế chấp, bảo lãnh, góp vốn.
- Nếu Công ty A được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất hoặc nhận chuyển quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất, tiền đã trả cho việc nhận quyền sử dụng đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì có quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 105 và Điều 107 của Luật Đất đai; quyền và nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 110 của Luật Đất đai; giá trị quyền sử dụng đất xây dựng nhà chung cư được tính vào giá căn hộ của nhà chung cư khi bán, cho thuê.
Xử lý đất khi hợp tác xã giải thể như thế nào?
Câu hỏi:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi hợp tác xã bị giải thể hoặc phá sản thì quyền sử dụng đất sẽ được xử lý như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 109 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai thì khi hợp tác xã bị giải thể hoặc phá sản thì quyền sử dụng đất của hợp tác xã được xử lý như sau:
- Đối với đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất; được Nhà nước cho thuê; được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, mua tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác mà tiền sử dụng đất, tiền mua tài sản, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước thì Nhà nước thu hồi đất đó;
- Đối với đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, mua tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác mà tiền sử dụng đất, tiền mua tài sản, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; đất do xã viên góp quyền sử dụng vào hợp tác xã thì Nhà nước không thu hồi đất đó, quyền sử dụng đất là tài sản của hợp tác xã và được xử lý theo Điều lệ của hợp tác xã hoặc Nghị quyết của Đại hội xã viên.
Chuyển nhượng đất rừng phòng hộ?
Câu hỏi:

Hộ gia đình ông X được giao 1 hec ta đất nông nghiệp xen kẽ trong khu vực rừng phòng hộ tại huyện Y tỉnh K. Do không có nhu cầu sử dụng nên gia đình ông đã quyết định chuyển nhượng cho anh T sống tại thành phố M. Vậy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa hộ gia đình ông X và anh T có được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Tại khoản 3 Điều 104 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp trong khu vực rừng phòng hộ thì chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ đó.
Đối chiếu với quy định nêu trên, khi được giao 1 hec ta đất nông nghiệp xen kẽ trong khu vực rừng phòng hộ tại huyện Y tỉnh K thì hộ gia đình ông X chỉ được quyền chuyển nhượng đất đó cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ đó. Trong trường hợp nêu trên, do không có nhu cầu sử dụng nên gia đình ông đã quyết định chuyển nhượng cho anh T hiện sống tại thành phố M thì việc chuyển nhượng đó sẽ không được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận.
Có được chuyển nhượng đất nuôi trồng thủy sản?
Câu hỏi:

Hộ gia đình ông A được giao 5 hecta đất nuôi trồng thuỷ sản trong phân khu bảo vệ phục vụ mục đích quốc phòng. Năm 2005 ông A đã quyết định chuyển nhượng 5 hec ta cho ông H hiện cũng đang sống tại đó, nhưng không được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận. Vậy việc cơ quan có thẩm quyền không chấp nhận sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông A cho ông H có đúng với quy định của pháp luật hiện hành hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, thì hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống xen kẽ trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng nhưng chưa có điều kiện chuyển ra khỏi phân khu đó thì chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất rừng kết hợp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản cho hộ gia đình, cá nhân sinh sống trong phân khu đó.
Đối chiếu với quy định nêu trên, hộ gia đình ông được quyền chuyển nhượng 5 hec ta đất nuôi trồng thuỷ sản trong phân khu bảo vệ phục vụ mục đích quốc phòng khi người nhận chuyển nhượng là H hiện cũng đang sống tại đó. Do đó việc cơ quan có thẩm quyền không chấp nhận sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông cho ông H là không đúng với quy định của pháp luật hiện hành.
Có được chuyển nhượng đất trồng lúa không?
Câu hỏi:

Trước đây ông T đã chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất trồng lúa đã được Nhà nước giao cho người khác. Nhưng sau đó gia đình ông T lại được Nhà nước giao 5.000m2 đất rừng để sản xuất. Vậy nay muốn chuyển đến nơi khác để làm ăn thì ông T có được tiếp tục quyền chuyển nhượng 5.000m2 đất rừng để sản xuất đó cho người khác hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Tại khoản 1 Điều 104 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai quy định hộ gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất lần đầu đối với đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất, đất ở được miễn tiền sử dụng đất mà đã chuyển nhượng và không còn đất sản xuất, không còn đất ở, nếu được Nhà nước giao đất lần thứ hai đối với đất nông nghiệp không thu tiền sử dụng đất, đất ở được miễn tiền sử dụng đất thì không được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất trong thời hạn 10 năm kể từ ngày được giao đất lần thứ hai.
Đối chiếu với quy định nêu trên, hộ gia đình ông T sẽ được chuyển nhượng 5.000m2 đất rừng để sản xuất cho người khác nếu khi nhận đất rừng sản xuất hộ gia đình ông T có nộp tiền sử dụng đất. Trong trường hợp khi được giao đất, hộ gia đình ông T không nộp tiền sử dụng đất thì hộ gia đình ông T không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong thời hạn 10 năm kể từ ngày được giao đất lần thứ hai. Nếu không nộp tiền sử dụng đất và thời gian nhận đất đã đủ 10 năm trở lên thì gia đình ông T cũng có quyền chuyển nhượng 5.000m2 đó cho cho người khác.
Chuyển nhượng đất rừng đặc dụng ?
Câu hỏi:

Gia đình ông X sống tại phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng đã chuyển nhượng một phần đất ở cho ông B hiện cũng đang sinh sống ở khu vực đó, nhưng không được Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền chấp thuận. Trong trường hợp này, việc làm của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền trong trường hợp nêu trên có bị coi là vi phạm quy định về quyền chuyển nhượng của người sử dụng đất hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Tại khoản 4 Điều 103 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định hộ gia đình, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất ở, đất nông nghiệp trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng; trong khu vực rừng phòng hộ nếu không sinh sống trong khu vực rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đó.
Như vậy, ông B sẽ không được quyền nhận quyền sử dụng đất tại phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng mặc dù ông B cũng đang sinh sống ở khu vực đó. Do vậy việc không chấp nhận việc chuyển quyền sử dụng đất ở giữa ông X và ông B của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền trong trường hợp nêu trên không bị coi là vi phạm quy định về quyền chuyển nhượng của người sử dụng đất.
Công chức có được sử dụng đất nông nghiệp không?
Câu hỏi:

Khi ông T chết có để lại thừa kế 1.000m2 đất trồng lúa do Nhà nước giao trong thời hạn 10 năm và cho anh B và chị C là người thừa kế theo pháp luật. Nhưng chị C cho rằng anh B là công chức nhà nước, không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nên không được quyền thừa kế 1.000m2 quyền sử dụng đất đó. Vậy ý kiến trên của chị C có đúng với quy định của pháp luật hiện hành hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Tại khoản 3 Điều 103 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất chuyên trồng lúa nước.
Quy định trên chỉ không cho phép hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất chuyên trồng lúa nước, mà không cấm quyền nhận thừa kế. Vì vậy, mặc dù anh B là công chức nhà nước, không trực tiếp sản xuất nông nghiệp những vẫn có quyền nhận thừa kế đất trồng lúa cho ông T là bố anh để lại. Do đó ý kiến của chị C cho rằng anh B là công chức nhà nước, không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nên không được thừa kế quyền sử dụng đất là không đúng pháp luật hiện hành.
Công ty có quyền chuyển nhượng đất rừng không?
Câu hỏi:

Công ty A đã nhận chuyển nhượng 5 héc ta đất rừng để sản xuất của gia đình ông T. Có ý kiến cho rằng Công ty A không có quyền được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất rừng để sản xuất. Vậy theo quy định của pháp luật ý kiến nêu trên có đúng quy định pháp luật hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, thì tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chuyên trồng lúa nước, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, trừ trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt. 
Quy định nêu trên không cấm tổ chức kinh tế được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất rừng để sản xuất. Cho nên, Công ty A cũng có quyền được nhận chuyển nhượng 5 hec ta đất rừng để sản xuất của hộ gia đình ông T. Như vậy, ý kiến cho rằng Công ty A không có quyền được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất rừng để sản xuất là không đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Có đươck dồn điền, đổi thửa không?
Câu hỏi:

Ông A ở xã Q, ông B ở xã S có đất nông nghiệp giáp ranh nhau, nay muốn dồn điền đổi thửa cho thuận tiện việc canh tác thì họ có được quyền thực hiện việc chuyển đổi hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Tại khoản 2 Điều 113 Luật Đất đai và Điều 102 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai quy định hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp do được Nhà nước giao đất hoặc do chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác thì được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp đó cho hộ gia đình, cá nhân khác trong cùng xã, phường, thị trấn để thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Hộ gia đình, cá nhân chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp theo chủ trương chung về ''dồn điền đổi thửa'' thì không phải nộp thuế thu nhập từ việc chuyển quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính.
Như vậy căn cứ vào quy định nêu trên, trong trường hợp ông A và ông B ở xã khác nhau thì họ sẽ không được quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp cho nhau, mặc dù họ có đất nông nghiệp giáp ranh nhau và có nhu cầu dồn điền đổi thửa cho thuận tiện việc canh tác.
Điều kiện chuyển nhượng đất chung cư
Câu hỏi:

Công ty Z trúng thầu dự án sử dụng đất xây dựng khu chung cư tại thị xã B đã chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất và cơ sở hạ tầng cho Công ty H để tiếp tục thực hiện dự án sau khi đã nộp đủ tiền sử dụng đất và hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Vậy trong trường hợp nêu trên, Công ty Z có thực hiện đúng với quy định của pháp luật hiện hành không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006), đối với các thành phố, thị xã, các khu đô thị mới của các thành phố, thị xã hoặc các khu đô thị mới được quy hoạch phát triển thành thành phố, thị xã, chủ đầu tư được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tổ chức kinh tế đối với diện tích đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng theo dự án được xét duyệt hoặc theo dự án thành phần của dự án đầu tư đã được xét duyệt; tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải sử dụng đúng mục đích, đúng nội dung xây dựng và tiến độ ghi trong dự án đó.
Như vậy, khi Công ty Z sử dụng đất xây dựng khu chung cư tại thị xã B mà đã nộp đủ tiền sử dụng đất và hoàn thiện cơ sở hạ tầng theo dự án được xét duyệt thì có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tổ chức kinh tế khác. Do đó, việc chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất và cơ sở hạ tầng cho Công ty H để tiếp tục thực hiện dự án của Công ty Z  được coi là đúng pháp luật.
Điều kiện chuyển nhượng đất hộ gia đình?
Câu hỏi:

Doanh nghiệp tư nhân A muốn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của một số hộ gia đình và cá nhân tại xã X để thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì phải có các điều kiện gì?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 100 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai quy định về điều kiện đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt thì Doanh nghiệp tư nhân A muốn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của một số hộ gia đình và cá nhân tại xã X để thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp phải có các điều kiện sau đây:
- Mục đích sử dụng diện tích đất nhận chuyển nhượng phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt;
- Được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, xác định thời hạn sử dụng đất đồng thời với việc xét duyệt nhu cầu sử dụng đất theo những căn cứ quy định tại Điều 30 của Nghị định này;
- Phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với việc chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định tại Điều 36 của Luật Đất đai và quy định của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.
Đất trúng đấu giá có được chuyển nhượng?
Câu hỏi:

Ông A trúng đấu giá 100m2 quyền sử dụng đất ở tại phiên đấu giá do Uỷ ban nhân dân thị xã B tổ chức. Ông A đã chuyển nhượng lô đất đó cho ông X và trong hợp đồng có thoả thuận ông X phải có nghĩa vụ nộp đủ tiền sử dụng đất theo kết quả đấu giá. Xin hỏi việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông A trong trường hợp nêu trên có đúng pháp luật hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo khoản 1 Điều 98 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đất đai quy định thì thời điểm người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai đối với đất do Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng phải nộp tiền sử dụng đất được xác định như sau:
a- Trường hợp người sử dụng đất không được phép chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc không được ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì chỉ được thực hiện các quyền của người sử dụng đất kể từ khi thực hiện xong nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật;
b- Trường hợp người sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cho chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc cho ghi nợ nghĩa vụ tài chính thì được thực hiện các quyền của người sử dụng đất kể từ khi có quyết định đó;
c- Trường hợp người sử dụng đất được chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật thì được thực hiện các quyền của người sử dụng đất kể từ khi có quyết định giao đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, ký hợp đồng thuê đất.
Như vậy, việc ông A chuyển nhượng 100m2 quyền sử dụng đất ở cho ông B trong khi ông chưa nộp tiền sử dụng đất theo kết quả đấu giá trong trường hợp nêu trên đã vi phạm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 98 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, mặc dù trong hợp đồng ông A có thoả thuận ông X nộp tiền sử dụng đất theo kết quả đấu giá. 
Xin phép chuyển mục đích đất nông nghiệp?
Câu hỏi:

Gia đình tôi muốn sử dụng điện tích nông nghiệp được giao có vườn trong khu dân cư để làm nhà ở. Trong trường hợp này, gia đình tôi có phải xin phép chuyển mục đích sử dụng đất không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 80 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị đã được xét duyệt, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định tỷ lệ diện tích được xây dựng nhà ở trên thửa đất ở có vườn, ao phù hợp với cảnh quan đô thị.
Người sử dụng đất nông nghiệp có vườn, ao để làm nhà ở thì phải xin phép chuyển mục đích sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất.
Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, tỷ lệ diện tích được xây dựng nhà ở theo quy định tại khoản này và nhu cầu thực tế của người sử dụng đất để xem xét, quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. 
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì bạn phải làm thủ tục xin chuyển mục đích sử dụng đất tại Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi có đất.
Hạn mức giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân được quy định như thế nào?
Câu hỏi:

Hạn mức giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân được quy định như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Đất ở của hộ gia đình, cá nhân tại nông thôn bao gồm đất để xây dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ đời sống, vườn, ao trong cùng một thửa đất  thuộc khu dân cư nông thôn, phù hợp với quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Căn cứ vào quỹ đất của địa phương và quy hoạch phát triển nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ưong quy định hạn mức đất giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân để làm nhà ở tại nông thôn phù hợp với điều kiện và tập quán tại địa phương (khoản 1 và 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2003).
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị và quỹ đất của địa phương quy định hạn mức đất ở giao cho mỗi hộ gia đình, cá nhân tự xây dựng nhà ở đối với trường hợp chưa đủ điều kiện để giao đất theo dự án đầu tư xây dựng nhà ở (khoản 5 Điều 84 Luật Đất đai năm 2003).
Thời hạn tối đa thuê đất?
Câu hỏi:

Công ty B có dự án thuê đất để làm nhà kính trồng hoa xuất khẩu. Xin hỏi thời hạn tối đa mà công ty B có thể thuê đất là bao lâu?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 78 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì thời hạn giao đất,  thuê đất làm nhà nghỉ, lán, trại cho người lao động tại trang trại ở nông thôn; đất để xây dựng nhà kính và các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt kể cả các hình thức trồng trọt không trực tiếp trên đất, xây dựng chuồng, trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp luật cho phép, xây dựng trạm, trại nghiên cứu thí nghiệm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, xây dựng cơ sở ươm tạo cây giống, con giống, xây dựng kho, nhà để chứa nông sản, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, máy móc, công cụ sản xuất thuộc khu vực đô thị mà không phải là đất Nhà nước giao cho các đơn vị sự nghiệp công được xem xét, quyết định trên cơ sở dự án đầu tư hoặc đơn xin giao đất, thuê đất nhưng không quá 50 năm; đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê đất là không quá 70 năm.
Như vậy, trong trường hợp này, thời hạn thuê đất đối với công ty B được xem xét, quyết định trên cơ sở dự án đầu tư nhưng không quá 50 năm; trường hợp dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê đất là không quá 70 năm.
Đất sử dụng cho kinh tế trang trại bao gồm những loại đất nào?
Câu hỏi:

Đất sử dụng cho kinh tế trang trại bao gồm những loại đất nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 75 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định:
Đất sử dụng cho kinh tế trang trại của hộ gia đình, cá nhân bao gồm:
a) Đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối, đất xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm và các loại động vật khác được pháp luật cho phép; đất xây dựng nhà kính và các loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt kể cả hình thức trồng trọt không trực tiếp trên đất; đất ươm cây giống, nuôi con giống;
b) Đất làm đường đi, kênh mương trong nội bộ trang trại;
c) Đất xây dựng các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi, chế biến sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp; đất làm sân phơi, làm nhà kho; đất xây dựng cơ sở dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối; đất xây dựng nhà để nghỉ cho người lao động và người bảo vệ trang trại.
Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp cho kinh tế trang trại phải sử dụng đất đúng mục đích đã được xác định; trường hợp chuyển đổi mục đích sử dụng các loại đất thì phải lập phương án sản xuất, kinh doanh gắn với việc sử dụng đất trình Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xét duyệt, phải đăng ký chuyển mục đích sử dụng đất và nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Đoois tượng được giao đất nông nghiệp?
Câu hỏi:

Trước đây, gia đình tôi làm nghề thủ công nhưng nay không có việc làm, nay gia đình tôi muốn xin được giao đất để sản xuất nông nghiệp. Xin hỏi gia đình tôi có thuộc đối tượng được giao đất để sản xuất nông nghiệp không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo Điều70 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì việc giao đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối cho hộ gia đình, cá nhân được quy định như sau:
1. Hộ gia đình, cá nhân đã được Nhà nước giao đất nông nghiệp trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì được tiếp tục sử dụng theo thời hạn giao đất còn lại.
2. Những địa phương chưa thực hiện việc giao đất để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối cho hộ gia đình, cá nhân theo quy định của pháp luật về đất đai thì Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất lập phương án đề nghị Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giao đất nông nghiệp cho nhân khẩu có nguồn sống chính bằng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối thường trú tại địa phương kể cả những người đang làm nghĩa vụ quân sự.
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xem xét, đưa vào phương án giao đất cho hộ gia đình, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất thuộc các đối tượng sau:
a) Những người có nguồn sống chính bằng sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là cư trú lâu dài tại địa phương nhưng chưa có hộ khẩu thường trú;
b) Những hộ gia đình, cá nhân trước đây hoạt động trong các ngành nghề phi nông nghiệp và có hộ khẩu thường trú tại địa phương nay không có việc làm;
c) Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, công nhân và bộ đội nghỉ mất sức hoặc nghỉ việc do sắp xếp lại sản xuất, tinh giản biên chế hưởng trợ cấp một lần hoặc hưởng trợ cấp một số năm về sống thường trú tại địa phương;
d) Con của cán bộ, công chức, viên chức, công nhân sống tại địa phương đến tuổi lao động nhưng chưa có việc làm.
Như vậy, nếu gia đình bạn trước đây làm nghề thủ công nay không có việc làm, có hộ khẩu thường trú tại địa phương, hiện có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất thì thuộc đối tượng được xem xét, giao đất nông nghiệp.
Giao đất nông nghiệp vượt hạng mức?
Câu hỏi:

Hộ gia đình ông C đã được giao 15 ha đất trồng cây lâu năm. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 thì hộ gia đình ông C có diện tích đất trồng cây lâu năm vượt hạn mức 5 ha. Trường hợp của hộ gia đình ông C được giải quyết như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 71 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì trong trường hợp hộ gia đình ông C sử dụng diện tích đất trên trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 thì được tiếp tục sử dụng theo thời hạn bằng một phần hai thời hạn giao đất quy định tại khoản 1 Điều 67 của Luật Đất đai (tức là 25 năm), sau đó chuyển sang thuê đất.
Nếu hộ gia đình ông C sử dụng diện tích đất trên từ ngày 01 tháng 01 năm 1999 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 đã chuyển sang thuê đất thì được tiếp tục thuê đất theo thời hạn còn lại của thời hạn thuê đất ghi trong hợp đồng thuê đất; trường hợp chưa chuyển sang thuê đất thì phải chuyển sang thuê đất từ ngày 01 tháng 7 năm 2004, thời hạn thuê đất là thời hạn còn lại của thời hạn giao đất đó.
Quy định như thế nào về hạn mức giao đất nông nghiệp?
Câu hỏi:

Vừa qua gia đình nhà ông H được giao 20 héc ta đất trồng cây lâu năm. Theo quy định của pháp luật thì việc giao đất cho gia đình ông H có vượt hạn mức cho phép không? Pháp luật quy định như thế nào về hạn mức giao đất nông nghiệp?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 70 Luật Đất đai năm 2003 quy định về hạn mức giao đất nông nghiêp như sau:
- Hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 3 héc ta đối với mỗi loại đất.
- Hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 10 héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 30 héc ta đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
- Hạn mức giao đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất cho mỗi hộ gia đình, cá nhân không quá 30 héc ta đối với mỗi loại đất.
- Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối thì tổng hạn mức giao đất không quá 5 héc ta.
- Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao thêm đất trồng cây lâu năm thì hạn mức đất trồng cây lâu năm là không quá 5 héc ta đối với xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 25 héc ta đối với xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được giao thêm đất rừng sản xuất thì tổng hạn mức giao đất rừng sản xuất là không quá 25 héc ta.
- Hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử dụng cho hộ gia đình, cá nhân đưa vào sử dụng theo quy hoạch để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối không quá hạn mức giao đất (không quá 3 héc ta đối với mỗi loại đất trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối; không quá 10 héc ta đất trồng cây lâu năm đối với các xã, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 30 héc ta đất trồng cây lâu năm đối với các xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi) và không tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân có hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối, trồng cây lâu năm, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất trên.
Như vậy, nếu hộ gia đình ông H ở xã, phường, thị trấn ở đồng bằng thì việc giao 20 héc ta đất trồng cây lâu năm cho hộ gia đình ông H là vượt hạn mức giao đất theo quy định của pháp luật (trường hợp này pháp luật quy định hạn mức là không quá 10 héc ta); nếu hộ gia đình ông H ở xã, phường, thị trấn ở trung du, miền núi thì việc giao đất nói trên phù hợp với quy định của pháp luật về hạn mức giao đất nông nghiệp (trường hợp này pháp luật quy định hạn mức là không quá 30 héc ta). 
Đăng ký giao dịch bảo đảm về quyền sử dụng đất gồm các trường hợp nào?
Câu hỏi:

Đăng ký giao dịch bảo đảm về quyền sử dụng đất gồm các trường hợp nào? được thực hiện tại cơ quan nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 64 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì đăng ký giao dịch bảo đảm về quyền sử dụng đất gồm các trường hợp sau:
a) Đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất;
b) Đăng ký thay đổi nội dung đã đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất;
c) Đăng ký sửa chữa sai sót trong nội dung đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất;
d) Đăng ký huỷ hoặc xoá kết quả đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất;
đ) Đăng ký kết quả về việc xử lý tài sản thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất.
Cơ quan thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm về quyền sử dụng đất là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Đấu giá quyền sử dụng đất trong trường hợp nào?
Câu hỏi:

Đấu giá quyền sử dụng đất được áp dụng trong trường hợp nào? Trường hợp nào thì không đấu giá quyền sử dụng đất?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 61 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định:
1. Đấu giá quyền sử dụng đất được áp dụng khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất hoặc khi thi hành án, thu hồi nợ có liên quan đến quyền sử dụng đất, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 điều này.
2. Không đấu giá quyền sử dụng đất được áp dụng khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất hoặc khi thi hành án, thu hồi nợ có liên quan đến quyền sử dụng đất trong các trường hợp sau:
a) Các trường hợp sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh thuộc lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư; sử dụng đất để xây dựng công trình công cộng có mục đích kinh doanh; thực hiện chính sách nhà ở, đất ở đối với người có công với cách mạng, hộ gia đình nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; nhà máy, xí nghiệp phải di dời theo quy hoạch; sử dụng đất để xây dựng nhà chung cư cho công nhân các khu công nghiệp, ký túc xá sinh viên, nhà ở cho người phải di dời do thiên tai;
b) Trường hợp tổ chức kinh tế chuyển từ thuê đất sang giao đất có thu tiền sử dụng đất;
c) Trường hợp người sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
d) Trường hợp đất đưa ra đấu giá mà không có người tham gia hoặc đấu giá không thành.
Loại đất nào thì được tham gia vào thị trường bất động sản?
Câu hỏi:

Tôi được biết hiện nay Nhà nước đã cho phép quyền sử dụng đất tham gia thị trường bất động sản. Vậy xin hỏi những loại đất nào thì được tham gia vào thị trường này?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 59 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định đất được tham gia thị trường bất động sản bao gồm:
1. Đất mà tài sản gắn liền với đất và quyền sử dụng đất được tham gia thị trường bất động sản bao gồm:
a) Đất sản xuất nông nghiệp, đất rừng sản xuất không phải là rừng tự nhiên được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân;
b) Đất nông nghiệp do hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất;
c) Đất nông nghiệp được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất đối với tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
d) Đất nông nghiệp được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài;  
đ) Đất ở được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân để làm nhà ở; đất ở được Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài để đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở; đất ở được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài để đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở;
e) Đất ở do hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng vào mục đích làm nhà ở đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất;
g) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng có mục đích kinh doanh được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
h) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng có mục đích kinh doanh được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài;
i) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng có mục đích kinh doanh do hộ gia đình, cá nhân, tổ chức kinh tế đang sử dụng đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất.
2. Đất thuê của Nhà nước trả tiền thuê đất hàng năm mà tài sản gắn liền với đất được tham gia thị trường bất động sản bao gồm:
a) Đất trồng cây lâu năm có vườn cây, đất rừng sản xuất có rừng, đất làm muối và đất nuôi trồng thuỷ sản đã đầu tư hạ tầng;
b) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp, đất sử dụng vào mục đích công cộng có mục đích kinh doanh mà đã đầu tư hạ tầng hoặc có công trình gắn liền với đất.
3. Người nhận tài sản gắn liền với đất thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất trong thời hạn còn lại của hợp đồng thuê đất đã ký kết.
4. Khi hết thời hạn sử dụng đất, người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; người nhận quyền sử dụng đất từ người khác quy định tại khoản 1 Điều này; người nhận tài sản gắn liền với đất thuê của Nhà nước từ người khác quy định tại khoản 2 Điều này nếu có nhu cầu gia hạn sử dụng đất thì đều được xem xét gia hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 34 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP. 
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho kinh tế trang trại?
Câu hỏi:

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất sử dụng cho kinh tế trang trại được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 50 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất sử dụng cho kinh tế trang trại như sau:
1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn rà soát hiện trạng sử dụng đất và báo cáo Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đối với đất sử dụng cho kinh tế trang trại mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo nội dung sau:
a) Hiện trạng sử dụng đất so với hồ sơ địa chính và quy hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt;
b) Kết quả đầu tư sản xuất, kinh doanh và dịch vụ phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối của trang trại;
c) Diện tích đất được Nhà nước giao, cho thuê; nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho, nhận góp vốn của hộ gia đình, cá nhân khác; nhận khoán của tổ chức.
2. Trên cơ sở báo cáo của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và quy hoạch sử dụng đất chi tiết đã được xét duyệt, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định xử lý, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định sau:
a) Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp cho kinh tế trang trại mà sử dụng đất không đúng mục đích; tự ý xây dựng nhà ở, công trình sử dụng vào mục đích kinh doanh phi nông nghiệp, các công trình kiến trúc khác thì phải tự khắc phục, tháo dỡ công trình để sử dụng đất đúng mục đích đã được xác định; trường hợp không tự khắc phục, tháo dỡ thì Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thực hiện biện pháp cưỡng chế hoặc thu hồi đất;
b) Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối được Nhà nước giao đất mà đã sử dụng để làm kinh tế trang trại thì được tiếp tục sử dụng trong thời hạn còn lại đối với diện tích đất không vượt quá hạn mức quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai; đối với diện tích đất vượt hạn mức thì xử lý theo quy định tại Điều 67 của Luật Đất đai;
c) Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối được Nhà nước giao đất mà đã sử dụng để làm kinh tế trang trại thì phải chuyển sang thuê đất; thời hạn thuê đất là thời hạn còn lại của thời hạn giao đất;
d) Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất để làm kinh tế trang trại do được Nhà nước cho thuê đất hoặc do nhận khoán của tổ chức, nhận góp vốn của hộ gia đình, cá nhân khác thì được tiếp tục sử dụng theo hợp đồng đã ký kết;
đ) Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất để làm kinh tế trang trại do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho thì xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 71 của Luật Đất đai.
3. Diện tích đất quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 2 Điều này (trừ trường hợp nhận khoán của tổ chức) mà có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn là không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.  
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với đất nông nghiệp?
Câu hỏi:

Gia đình ông K đang sử dụng hơn 200 m2 đất nông nghiệp nhưng không có giấy tờ về quyền sử dụng đất. Hỏi gia đình ông K có được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất đó không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 48 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì gia đình ông K đang sử dụng 200m2 mà toàn bộ thửa đất đó không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất đó khi có đủ các điều kiện sau:
a) Đất không có tranh chấp;
b) Đất đã được sử dụng trước thời điểm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn được xét duyệt; trường hợp đất được sử dụng sau thời điểm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn được xét duyệt thì phải phù hợp với quy hoạch hoặc kế hoạch đó. Thời điểm sử dụng đất do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận;
c) Trường hợp sử dụng đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất.
Cấp sổ chung hay sổ riêng?
Câu hỏi:

Ba anh em M sở hữu chung một ngôi nhà do bố mẹ họ để lại. Xin hỏi trong trường hợp này giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp chung cho ba anh em M hay được cấp riêng cho từng người?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 47 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì nếu ba anh em M tự thoả thuận phân chia toàn bộ diện tích đất thành từng thửa đất sử dụng riêng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo từng thửa đất đó.
Trong trường hợp ba anh em M tự thoả thuận phân chia phần diện tích đất sử dụng riêng và có phần diện tích sử dụng chung thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho từng người; trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi phần diện tích đất sử dụng chung và phần diện tích đất sử dụng riêng.
Trong trường hợp ba anh em M không tự thoả thuận phân chia diện tích đất sử dụng riêng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho từng người; trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi diện tích đất là sử dụng chung.  
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chung cư?
Câu hỏi:

Anh T mua một căn hộ chung cư, nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất xây dựng nhà chung cư. Xin hỏi trong trường hợp này anh T có được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 46 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì đất xây dựng nhà chung cư và các công trình trực tiếp phục vụ nhà chung cư thuộc chế độ đồng quyền sử dụng của những người sở hữu căn hộ chung cư; trường hợp nhà chung cư và các công trình trực tiếp phục vụ nhà chung cư cho thuê thì quyền sử dụng đất thuộc chủ sở hữu nhà chung cư.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhà chung cư theo quy định sau:
a) Chủ đầu tư sử dụng đất để thực hiện dự án xây dựng kinh doanh nhà chung cư được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b) Trường hợp toàn bộ nhà chung cư thuộc quyền sở hữu của một chủ sở hữu hoặc nhóm các chủ sở hữu là tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp mới hoặc chỉnh lý để giao cho chủ sở hữu hoặc nhóm chủ sở hữu nhà chung cư đó;
c) Trường hợp chủ đầu tư hoặc chủ sở hữu nhà chung cư bán căn hộ của nhà chung cư thì người mua căn hộ của nhà chung cư được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với hình thức sử dụng đất là sử dụng chung; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho chủ đầu tư hoặc chủ sở hữu nhà chung cư được chỉnh lý cho phù hợp với hình thức sử dụng đất là sử dụng chung.
Như vậy, anh T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với hình thức sử dụng đất là sử dụng chung.
Hợp thửa vườn và ao như thế nào?
Câu hỏi:

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân trong trường hợp thửa đất ở có vườn, ao được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở cho hộ gia đình, cá nhân trong trường hợp thửa đất có vườn, ao được quy định tại Điều 45 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai như sau:
1. Diện tích đất ở đối với hộ gia đình, cá nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành được xác định theo quy định sau:
a) Diện tích đất ở là diện tích ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp;
b) Trường hợp người sử dụng đất có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất từ đất vườn, ao sang đất ở thì diện tích đất ở được xác định lại theo quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 87 của Luật Đất đai, khoản 2 và khoản 3 Điều 80 của Nghị định này; hộ gia đình, cá nhân không phải nộp tiền sử dụng đất đối với phần diện tích chênh lệch giữa diện tích đất ở được xác định lại và diện tích đất ở ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
c) Trường hợp Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế thì diện tích đất ở được xác định lại theo quy định tại điểm b khoản này và người bị thu hồi đất được bồi thường theo giá đất ở đối với diện tích đất ở đã được xác định lại.
2. Trường hợp đất ở có vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư được sử dụng trước ngày 18 tháng 12 năm 1980 mà trong hồ sơ địa chính hoặc các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai có ghi nhận rõ ranh giới thửa đất ở (hoặc thổ cư) thì toàn bộ diện tích đất đó được xác định là đất ở theo quy định tại khoản 2 Điều 87 của Luật Đất đai; trường hợp ranh giới thửa đất chưa được xác định trong hồ sơ địa chính hoặc trên các giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì diện tích đất ở được xác định không quá năm (05) lần hạn mức diện tích giao đất ở của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật Đất đai nhưng tổng diện tích không vượt quá diện tích đất mà hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng; phần diện tích đất còn lại sau khi đã xác định thửa đất ở thì được xác định theo hiện trạng sử dụng đất.
3. Trường hợp đất ở có vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư được sử dụng từ ngày 18 tháng 12 năm 1980 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì diện tích đất ở được xác định theo quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 87 của Luật Đất đai. 
Cấp giấy chứng nhận khi vợ là người nước ngoài?
Câu hỏi:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình anh A chỉ ghi họ, tên anh A với lý do vợ anh A là người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Vợ chồng A cho rằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả vợ và chồng nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình anh A cần phải ghi họ, tên của cả hai vợ chồng anh. Xin hỏi pháp luật quy định về vấn đề này như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 43 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định về việc ghi tên người sử dụng đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như sau:
1. Đối với tổ chức, tổ chức nước ngoài sử dụng đất thì ghi tên tổ chức theo quyết định thành lập, giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép đầu tư.
Đối với đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh thì ghi tên đơn vị sử dụng đất quy định tại khoản 3 Điều 83 của Nghị định này.
2. Đối với cơ sở tôn giáo sử dụng đất thì ghi tên cơ sở tôn giáo đó.   
3. Đối với hộ gia đình sử dụng đất được thực hiện theo quy định sau:
a) Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất hoặc quyền sử dụng đất là tài sản chung của cả vợ và chồng thì ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng; trường hợp hộ gia đình đề nghị chỉ ghi họ, tên vợ hoặc họ, tên chồng thì phải có văn bản thoả thuận của vợ và chồng có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
b) Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất là tài sản chung của cả hộ gia đình không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì ghi họ, tên chủ hộ.
c) Trường hợp hộ gia đình sử dụng đất mà vợ hoặc chồng là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại Điều 121 của Luật Đất đai thì chỉ ghi họ, tên vợ hoặc họ, tên chồng là cá nhân trong nước.
Đối với hộ gia đình sử dụng đất mà vợ hoặc chồng là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc trường hợp quy định tại Điều 121 của Luật Đất đai thì việc ghi tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này.
4. Đối với cộng đồng dân cư sử dụng đất thì ghi tên cộng đồng dân cư đó.
5. Đối với cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân nước ngoài sử dụng đất thì ghi họ, tên cá nhân đó.
6. Đối với trường hợp nhiều người sử dụng đất có quyền sử dụng chung thửa đất thì ghi tên tất cả những người sử dụng đất đó, trừ trường hợp nhà chung cư.
Đối với nhà chung cư thì việc ghi tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 46 của Nghị định này.
7. Trường hợp người sử dụng đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà việc ghi tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phù hợp với quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều này, nếu có nhu cầu thì làm thủ tục chỉnh lý trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp.
Như vậy, trong trường hợp trên, nếu vợ anh A là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại Điều 121 Luật Đất đai năm 2003 (cụ thể là các trường hợp như: người về đầu tư lâu dài có nhu cầu nhà ở trong thời gian đầu tư tại Việt Nam; người có công đóng góp với đất nước; những nhà hoạt động văn hóa, hoạt động khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước; người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam) thì trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình anh A chỉ ghi họ, tên anh A. Nếu vợ anh A thuộc các trường hợp quy định tại Điều 121 của Luật Đất đai thì trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình anh A ghi cả họ, tên anh A và họ, tên vợ anh A.
Việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp được thực hiện như thế nào?
Câu hỏi:

Việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp được thực hiện như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 42 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp được thực hiện theo quy định sau:
a) Thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; sạt lở tự nhiên đối với cả thửa đất; có thay đổi ranh giới thửa đất mà phải cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b) Thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp thu hồi đất theo quy định tại Điều 38 của Luật Đất đai;
c) Trường hợp không thu hồi được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thông báo cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất;
d) Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền cấp giấy của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền cấp giấy của Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản này.
Trường hợp đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất thì việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của tòa án nhân dân đã được thi hành trừ các trường hợp quy định trên. 
Đính chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình?
Câu hỏi:

Diện tích đất mà gia đình ông bà C sử dụng là 80 m2, nhưng trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình ông bà C lại ghi nhầm là 68 m2. Trong trường hợp này thì cơ quan nào có trách nhiệm đính chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình ông bà C.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 42 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì khi phát hiện nội dung ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có sai sót thì Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đính chính đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp; Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm đính chính đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp.
Như vậy trong trường hợp trên, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đính chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình ông bà C là Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đã cấp giấy chứng nhận đó.
Để thực hiện việc đính chính nội dung ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình, ông bà C cần phải làm đơn gửi tới Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó, trong đơn ghi rõ những sai sót về nội dung đã ghi trên giấy, có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất nơi có đất hoặc biên bản kiểm tra của tổ kiểm tra do cơ quan tài nguyên và môi trường có thẩm quyền đính chính thành lập. 
Những trường hợp nào cần phải được cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Những trường hợp nào cần phải được cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Khoản 5 Điều 41 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì trong quá trình sử dụng đất, những trường hợp sau đây phải được cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
a) Tạo thửa đất mới do được Nhà nước giao đất, cho thuê đất;
b) Tạo thửa đất mới do hợp nhiều thửa đất thành một thửa;
c) Tạo thửa đất mới trong trường hợp chuyển quyền một phần thửa đất, chuyển mục đích sử dụng một phần thửa đất, Nhà nước thu hồi một phần thửa đất, người sử dụng đất đề nghị tách thửa đất thành nhiều thửa mà pháp luật cho phép;
d) Khi người sử dụng đất cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp; cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất đã có hoặc để xây dựng nhà xưởng, cơ sở dịch vụ công nghệ cao và sản xuất, kinh doanh sản phẩm công nghệ cao trong khu công nghệ cao; cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất trong khu phi thuế quan và khu công nghiệp, khu giải trí đặc biệt, khu du lịch trong khu thuế quan của khu kinh tế (gọi là cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp);
đ) Ranh giới thửa đất bị thay đổi khi thực hiện kết quả hòa giải thành về tranh chấp đất đai được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền công nhận; thực hiện quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức; thực hiện văn bản về việc chia tách hoặc sáp nhập tổ chức kinh tế phù hợp với pháp luật; thực hiện việc xử lý nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp, bảo lãnh; thực hiện quyết định hành chính giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai, thực hiện bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án; thực hiện văn bản công nhận kết quả đấu giá quyền sử dụng đất phù hợp pháp luật; thực hiện việc chia tách quyền sử dụng đất theo văn bản phù hợp với pháp luật đối với hộ gia đình hoặc nhóm người có quyền sử dụng đất chung;
e) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người sử dụng đất bị ố, nhòe, rách, hư hại hoặc bị mất.
Không được cấp giấy chứng nhận có đúng không?
Câu hỏi:

Ông K nhận khoán 2 ha đất của nông trường chè X. Khi ông K đến Ủy ban nhân dân xã nộp đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cán bộ địa chính của xã trả lời rằng trong trường hợp này ông K không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cán bộ địa chính xã nói như vậy có đúng không?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Cán bộ địa chính xã trả lời ông K như vậy là đúng. Vì theo quy định tại Khoản 2 Điều 41 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì Nhà nước không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp sau:
a) Đất do Nhà nước giao để quản lý quy định tại Điều 3 của Nghị định này;
b) Đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý sử dụng;
c) Người sử dụng đất do thuê, thuê lại của người khác mà không phải là đất thuê hoặc thuê lại trong khu công nghiệp quy định tại điểm d khoản 5 Điều này;
d) Người đang sử dụng đất mà không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 và Điều 51 của Luật Đất đai;
đ) Người nhận khoán đất trong các nông trường, lâm trường.
Đăng ký quyền sử dụng đất ở đâu?
Câu hỏi:

Gia đình tôi được nhà nước giao 2 héc ta đất trồng cây hàng năm. Nhưng vừa qua diện tích đất trên bị thu hẹp do sạt lở tự nhiên. Hỏi trong trường hợp này tôi có phải đăng ký lại quyền sử dụng đất không? Xin hỏi việc đăng ký quyền sử dụng đất được thực hiện trong những trường hợp nào và được thực hiện ở đâu?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
* Theo  quy định tại Điều 46 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 38 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì việc đăng ký quyền sử dụng đất được thực hiện tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh; do Uỷ ban nhân dân cấp huyện thành lập thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện.
* Đăng ký quyền sử dụng đất gồm đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu và đăng ký biến động về sử dụng đất.
1. Đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu được thực hiện trong các trường hợp sau:
a) Được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng;
b) Người đang sử dụng đất mà thửa đất đó chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
2. Đăng ký biến động về sử dụng đất được thực hiện đối với người sử dụng thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà có thay đổi về việc sử dụng đất trong các trường hợp sau:
a) Người sử dụng đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; 
b) Người sử dụng đất được phép đổi tên;
c) Có thay đổi về hình dạng, kích thước, diện tích thửa đất;
d) Chuyển mục đích sử dụng đất;
đ) Có thay đổi thời hạn sử dụng đất;
e) Chuyển đổi từ hình thức Nhà nước cho thuê đất sang hình thức Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất;
g) Có thay đổi về những hạn chế quyền của người sử dụng đất;
h) Nhà nước thu hồi đất.
Như vậy, trong trường hợp diện tích đất nông nghiệp của gia đình bạn bị thu hẹp do sạt lở tự nhiên tức là có sự thay đổi về hình dạng, kích thước, diện tích thửa đất nên bạn cần phải thực hiện đăng ký biến động về sử dụng đất.
Trường hợp nhà nước được thu hồi đất?
Câu hỏi:

Công ty A được tỉnh H giao đất để đầu tư xây dựng khu công nghiệp. Nhưng đã hơn 1 năm nay kể từ ngày nhận bàn giao đất trên thực địa, dự án vẫn chưa được tiến hành. Ủy ban nhân dân tỉnh H đã ra quyết định thu hồi diện tích đất đã giao cho công ty A. Quyết định trên của Ủy ban nhân dân tỉnh H có đúng quy định của pháp luật không. Theo quy định của pháp luật thì Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 38 Luật Đất đai năm 2003 thì Nhà nước thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
1. Nhà nước sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế;
2. Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất;
3. Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả;
4. Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;
5. Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;
6. Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp sau đây:
a) Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm;
b) Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;
7. Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế;
8. Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất;
9. Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
10. Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn;
11. Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền;
12. Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.
Công ty A được giao đất để xây dựng khu công nghiệp nhưng đã không được sử dụng đất  trong thời hạn hơn 12 tháng liền. Vậy theo quy định tại điểm 12 trên thì việc Uỷ ban nhân dân tỉnh H ra quyết định thu hồi đất trong trường hợp này là đúng.
Thời hạn giao đất và gia hạn thời hạn?
Câu hỏi:

Thời hạn sử dụng đất do Nhà nước giao, cho thuê được quy định như thế nào? Khi hết thời hạn giao đất, cho thuê đất, nếu người sử dụng đất có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì có được Nhà nước gia hạn sử dụng đất hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 67 Luật Đất đai năm 2003 quy định thời hạn sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê như sau:
1. Thời hạn giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối cho hộ gia đình, cá nhân là hai mươi năm; thời hạn giao đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là năm mươi năm.
- Thời hạn cho thuê đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là không quá hai mươi năm; thời hạn cho thuê đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là không quá năm mươi năm.
Thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày có quyết định giao đất, cho thuê đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; trường hợp đất được Nhà nước giao, cho thuê trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày 15 tháng 10 năm 1993.
Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước tiếp tục giao đất, cho thuê đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về đất đai trong quá trình sử dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt;
2. Thời hạn sử dụng đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức do được giao trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 bằng một phần hai thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, sau đó phải chuyển sang thuê đất;
3. Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức kinh tế để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; tổ chức kinh tế để thực hiện các dự án đầu tư; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam được xem xét, quyết định trên cơ sở dự án đầu tư hoặc đơn xin giao đất, thuê đất nhưng không quá năm mươi năm; đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, cho thuê đất là không quá bảy mươi năm.
Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về đất đai trong quá trình sử dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt.
4. Thời hạn cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao là không quá chín mươi chín năm. Khi hết thời hạn, tổ chức đó có thể được Nhà nước Việt Nam xem xét gia hạn hoặc cho thuê đất khác nếu có nhu cầu sử dụng đất;
5. Thời hạn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn là không quá năm năm; trường hợp cho thuê đất trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 thì thời hạn thuê đất được xác định theo hợp đồng thuê đất. 
Thuê đất làm mặt bằng kinh doanh?
Câu hỏi:

Hộ gia đình tôi muốn thuê đất của Nhà nước để làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh. Xin hỏi trong trường hợp này, thẩm quyền quyết định cho thuê đất thuộc cơ quan nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 37 Luật Đất đai năm 2003 quy định thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất như sau:
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với tổ chức; giao đất đối với cơ sở tôn giáo; giao đất, cho thuê đất đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài; cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài.
- Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân; giao đất đối với cộng đồng dân cư.
- Ủy ban nhân dân xã, phường thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.
Ủy ban nhân dân các cấp không được ủy quyền trong việc quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất.
Như vậy, trong trường hợp trên thẩm quyền quyết định cho hộ gia đình thuê đất để làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất – kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi có đất.
So sánh hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế?
Câu hỏi:

Những tiêu chí để phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế?

Trả lời:

Hợp đồng kinh tế là gì?

Hợp đồng kinh tế là hợp đồng có hiệu lực phát lý về việc thưc hiện trao đổi hàng hóa giữa bên mua và bán trong đó bên mua và bên bán đưa ra những thỏa thuận được ghi đầy đủ và chi tiết trong hợp đồng như: phương thức thanh toán, tỷ giá, đồng tiền chung, điều kiện giao nhận hàng phẩm chất quy cách chủng loại số lượng, thời gian giao và nhận hàng... khi có tranh chấp thì đưa ra trọng tài kinh tế sử lý điều này được ghi rã trong hợp đồng.
Là văn bản có tính pháp lý mà nội dung gồm những thoả thuận giữa bên giao và bên nhận một công việc nào đó cần hoàn thành để bên nhận được trả một khoản tiền nào đó! Ngoài ra trong HĐKT còn có những thoả thuận khác nhằm đảm bảo cho hai bên làm tốt nghĩa vụ của mình như thời hạn, chất lượng, nơi thực hiện, phương thức thanh toán, giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn nghiệm thu, bàn giao...

Hợp đồng dân sự là gì ? hợp đồng kinh tế là gì? so sánh hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế?

Trước hết, câu hỏi của bạn đã trả lời một phần rồi đó.
Một hợp đồng để phân biệt là HĐ dân sự hay HĐ KT thì phải xét đến đối tượng và mục đích của hợp đồng.
Giống nhau: đều là sự thỏa thuận giữa hai bên ký kết hợp đồng.
Khác ở chỗ là: Hợp đồng kinh tế: chủ thể là pháp nhân với pháp nhân, pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.... và mục đích là: kinh doanh ( mục đích đạt được là lợi ích kinh tế).
Hợp đồng dân sự là một quan hệ dân sự làm phát sinh, thay đổi hoặc hủy bỏ một giao dịch, và mục đích không vì lợi kinh tế.

Thế nào là một hợp đồng kinh tế! cách đây3 năm, 11 tháng #3021

Theo luật kinh tế Việt Nam và trong các quyển hướng dẫn về cách soạn thảo hợp đồng kinh tế thì.

Hợp đồng kinh tế là một sự thỏa thuận giữa hai bên được gọi là chủ thể của hợp đồng, các chủ thể sẽ ràng buộc với nhau bởi các điều và các khoản trong đó chia ra làm điều khoản chính, điều khoản tùy nghi và điều khoản thường lệ.

Vậy chúng ta cần quan tâm nhất những vấn đề gì của một hợp đồng kinh tế, theo tôi:

1. Phạm vi cung cấp và giá trị hợp đồng.

2. Điều khoản thanh toán.

3. Điều kiện và phương thức giao hàng.

4. Hiệu lực của hợp đồng.

Anh em cho xin thêm ý kiến phản bác nào!!

Hợp đồng dân sự là gì ? hợp đồng kinh tế là gì? so sánh hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế?

 
Về cơ bản, một hợp đồng là một sự thỏa thuận về việc sẽ thực hiện hay không thực hiện một điều gì đó. Một hợp đồng có tính logic có nghĩa là nó có sự ràng buộc về mặt pháp lý và có hiệu lực. Mỗi điểm thỏa thuận trong hợp đồng đều phải rõ ràng, có chủ thể đi kèm để tránh những tranh chấp và kiện tụng có thể xảy ra. Nếu hỏi bất cứ một luật sư nào, họ sẽ trả lời bạn rằng việc kiện cáo rất tốn kém nhưng lại không hiệu quả để giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Hơn nữa, bạn sẽ mất đi quyền kiểm soát mọi vấn đề liên quan đến tranh chấp khi với sự xuất hiện toà án.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2005 thì hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Tuy hình thức và nội dung của hợp đồng dân sự được Bộ luật quy định nhưng để soạn thảo được một hợp đồng thể hiện ý chí của các bên, bảo đảm không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì là vấn đề không dễ.
Hợp đồng kinh tế là loại hợp đồng được điều chỉnh bởi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (HĐKT), được ban hành từ năm 1989. Theo đó, HĐKT là loại hợp đồng được ký giữa pháp nhân với pháp nhân, hoặc giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.
HĐKT là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thỏa thuận khác nhằm mục đích kinh doanh. Như vậy, HĐKT là một khái niệm vừa rất rộng, thậm chí còn có thể bị coi là một khái niệm “mơ hồ” (về đối tượng của hợp đồng), nhưng cũng lại rất hẹp về chủ thể ký kết (các bên ký kết). Mặt khác, với những thay đổi mang tính tất yếu của nền kinh tế thị trường, những quy định của Pháp lệnh HĐKT tỏ ra không còn thích ứng với môi trường kinh doanh đa dạng về mọi mặt, phản ánh một cách cụ thể trình độ phát triển của nền kinh tế thị trường nước ta trong giai đoạn hiện nay. Do đó, việc Bộ Luật Dân sự năm 2005 “khai tử” Pháp lệnh HĐKT không nằm ngoài dự đoán của giới chuyên môn, mà còn thể hiện là một kết thúc có hậu cho cả một quá trình tranh luận sôi nổi, nhằm làm thay đổi cơ bản về tư duy nhận thức của nhà làm luật. Bài viết này nhằm giới thiệu một số vấn đề cơ bản liên quan đến việc ký kết các giao dịch kinh doanh giữa các bên như là hệ quả của sự “xóa sổ” HĐKT.

Tên của các hợp đồng được ký kết nên thể hiện rõ nội dung của thỏa thuận
Cho đến nay, không ít doanh nghiệp vẫn có thói quen ký kết hợp đồng với các đối tác làm ăn của mình với tên gọi là HĐKT. Thực tế này là hệ quả của việc quy định khái niệm về HĐKT theo Pháp lệnh HĐKT. Các doanh nghiệp này cho rằng, nếu tên của hợp đồng mà khác với cái gọi là HĐKT thì có thể sẽ không có văn bản pháp luật nào điều chỉnh và vì vậy, khi có tranh chấp xảy ra, sẽ không có cơ quan thụ lý giải quyết. Có thể nói, đây là một quan điểm lỗi thời, bởi lẽ, quan hệ hợp đồng xét về bản chất chính là sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên về việc thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nào đó. Vậy tại sao tên gọi của hợp đồng lại không thể hiện cụ thể nội dung của các giao dịch do các bên ký kết với nhau? Mặt khác, nếu có tranh chấp xảy ra, các cơ quan nhà nước không phải căn cứ vào tên gọi của hợp đồng mà áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp trước tiên phải được xác định thuộc về loại tranh chấp gì, do hệ thống văn bản pháp luật nào điều chỉnh để từ đó có thể xác định chính xác các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ bị tranh chấp, nhằm giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật.
Do đó, lời khuyên đối với các doanh nghiệp là khi ký kết một hợp đồng nào đó với đối tác kinh doanh của mình, nên xác định cụ thể nội dung của hợp đồng ký kết mà đặt tên cho hợp đồng. Điều này vừa dễ cho công tác quản lý (do có cơ sở để phân loại hợp đồng theo tên gọi), vừa là cơ sở để các bên có thể tìm hiểu một cách có hiệu quả các quy định của pháp luật về loại hợp đồng với nội dung đó (do đã giới hạn được phạm vi của các văn bản pháp luật điều chỉnh loại quan hệ giao dịch sắp ký kết). Ví dụ, nếu là hợp đồng gia công thì các bên có thể đặt tên cho hợp đồng của mình là “hợp đồng gia công”, mua bán hàng hóa thì ghi rõ là “hợp đồng mua bán hàng hóa”…

Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại hay các luật khác được ưu tiên áp dụng
“Sát thủ” của Pháp lệnh HĐKT là Bộ Luật Dân sự. Thế nhưng, nội dung của Bộ Luật Dân sự và Luật Thương mại lại có một số quy định trùng nhau về một số loại hợp đồng thông dụng, ví dụ hợp đồng gia công hàng hóa. Nếu xét về mặt đối tượng điều chỉnh thì Bộ Luật Dân sự có đối tượng điều chỉnh rộng hơn Luật Thương mại. Nhưng nếu xét về mức độ chi tiết của các điều luật về một số loại hợp đồng được cả hai văn bản luật này điều chỉnh thì Luật Thương mại lại có những quy định chi tiết hơn. Luật Thương mại là một đạo luật điều chỉnh các hoạt động thương mại. Do đó, nếu tính chất của giao dịch giữa các bên là hoạt động thương mại thì các hoạt động thương mại đó phải chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại.
Trong khi đó, Bộ Luật Dân sự được coi là một bộ luật chung, chứa đựng rất nhiều quy phạm pháp luật khác nhau. Do đó, có những hoạt động thương mại giữa các các bên mà không được quy định trong Luật Thương mại và các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ Luật dân sự.
Cũng tương tự như vậy, đối với những hoạt động thương mại đặc thù, được quy định trong các luật khác thì quy định của văn bản luật đó lại được ưu tiên áp dụng, ví dụ hợp đồng vận chuyển hành khách bằng đường hàng không sẽ do các quy định của Luật Hàng không dân dụng điều chỉnh.
Nói cách khác, thứ tự ưu tiên áp dụng quy định pháp luật là đi từ quy định pháp luật đặc thù đến quy định pháp luật chung. Nếu không có quy định đặc thù thì mới áp dụng quy định pháp luật chung.
Thời hiệu giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc ký kết hợp đồng
Trước đây, theo quy định tại Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế chỉ là… 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp. Thế nhưng, kể từ ngày 1/1/2005, ngày có hiệu lực của Bộ Luật Tố tụng dân sự, cũng là ngày chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là 2 năm. Theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự, vụ án dân sự bao gồm cả các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Như vậy, kể từ thời điểm đầu năm 2005, thời hiệu để các bên có thể khởi kiện nhằm giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại đã được kéo dài đến 2 năm thay vì chỉ 6 tháng như trước đây.
Luật Thương mại mới năm 2005 có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 cũng có quy định thống nhất với Bộ Luật Tố tụng dân sự về thời hiệu là 2 năm đối với các tranh chấp thương mại, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất trong việc áp dụng thời hiệu khởi kiện theo Luật Thương mại đó là trường hợp doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics sau khi bị khiếu nại đã không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Tòa án trong thời hạn 9 tháng, kể từ ngày giao hàng. Như vậy, thời hiệu khởi kiện đối với dịch vụ logistics chỉ có 9 tháng, tính từ ngày giao hàng.
 

Hợp đồng thương mại là gì? So sánh giữa hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự?

Nếu phân tích ra thì có rất nhiều điểm giống nhau nhưng ở đây mình chỉ ra những điểm cơ bản nhất để phân biệt hai loại hợp đồng này.
Sự khác nhau:
Có thể thấy hợp đồng dân sự là một dạng hợp đồng bao quát chung nhất, bao trùm nhất các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, trao đổi mua bán... còn hợp đồng thương mại chỉ là một phần nhỏ trong hợp đồng dân sự mà thôi. Tức là hợp đồng dân sự là mẹ của hợp đồng thương mại và hợp đồng thương mại là một dạng của hợp đồng dân sự, một dạng hợp đồng chuyên ngành mà luật thương mại điều chỉnh.
Hợp đồng thương mại chỉ những hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi đó có thể là hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại, đầu tư.
Còn hợp đồng dân sự chỉ các hoạt động của dân sự trong đó có thể có mục đích sinh lợi hoặc không có mục đích sinh lợi (hợp đồng tặng cho).
Điểm khác cơ bản về chủ thể thì hợp đồng thương mại đòi hỏi ít nhất là một trong các bên tham gia phải có tư cách thương nhân. Tư cách thương nhân này được hiểu đó là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, có đămg ký kinh doanh, còn nếu là cá nhân hoạt động thường xuyên thì phải đăng ký kinh doanh.
Ví dụ: A mua của B một con bò để về giết thịt làm giỗ nhà thờ họ, trong khi đó thì B là một người chăn nuôi bình thường không có đăng ký kinh doanh chăn nuôi gia súc thì trong trường hợp này có hợp đồng mua bán hàng hóa và đối tượng điểu chỉnh của nó là luật dân sự
Trường hợp hau công ty C và D mua bán hàng hóa vật liệu xây dựng để bán lại, hoặc C bán cho F trong đó F là một người dân mua về để là nhà thì cả hai trường hợp này đều là hợp đồng thương mại bởi vì trường hợp đầu C bán cho D thì cả hai cùng được đăng ký kinh doanh và bán để kiếm lời. Còn trường hợp C bán cho F thì C có chức năng kinh doanh và bán cho F với mục đích thu lời cho dù F chỉ là cá nhân.
Điểm giống nhau thì cả hai bên phải tự do thỏa thuận những điều mà luật không cấm. Khi ký kết thì không bị lừa dối, không bị hạn chế năng lục hành vi...

Phân biệt hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế?

1. Xin cho biết sự giống và khác nhau giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mai như thế nào?
2. Xin cho biết Hợp đồng thuê khoán công việc là loại hợp đồng gì? và hợp đổng uỷ quyền bán tài sản là loại hợp đồng gì?
* Hợp đồng dân sự có một số đặc điểm như sau:
Về nội dung, hợp đồng dân sự có nội dung rất rộng, có thể là mua bán tài sản, thuê tài sản, vận chuyển khách và tài sản, hợp đồng gia công, hợp đồng gửi giữ.
Về hình thức tuỳ thuộc vào nội dung, tính chất của hợp đồng cũng như tuỳ thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định trong công việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định, khi các bên thoả thuận giao kết bằng hình thức nhất định thì hợp đồng được coi là đã giao kết khi đã thoả thuận theo từng hình thức đó.
Nếu trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bảnm phải được chứng nhận của công chứng Nhà nước,  chứng thực, dăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó như vậy hình thức của hợp đồng dân sự rất phong phú đa dạng.
Về chủ thể hợp đồng dân sự quy định rất rộng, hợp đồng dân sự có thể được ký kết giữa cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình tổ hợp tác, cá nhân chủ thể của hợp đồng dân sự phải là người có năng lực pháp luật và năng lực hành vi pháp nhân là tổ chức có đủ các yếu tố quy định tại Điều 94 BLHS, hộ gia đình gồm các thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất trong các hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác do pháp luật quy định. Tổ hợp tác gồm từ ba cá nhân trở lên cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi, cùng chịu trách nhiệm, trên cơ sở hợp đồng hợp tác xã có chứng thực của UBND cấp xã.
Vè mục đích trong trường hợp đồng dân sự một bên hoặc các bên ký kết phải nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng. Như vậy pháp luật không bắt buộc cả hai bên trong hợp đồng dân sự phải ký kết hợp đồng nhằm mục đích sinh hoạt.
Hợp đồng kinh tế

Là một chế định đặc thù của pháp luật về kinh tế, chế độ hợp đồng kinh tế quy định: Các nguyên tắc ký kết hợp đồng kinh tế, điều kiện chủ thể hợp đồng kinh tế, thủ tục và trình tự ký kết hợp đồng kinh tế, các điều kiện và giải quyết hậu quả của việc thay đổi, huỷ bỏ, đình chỉ hợp đồng kinh tế, các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng kinh tế, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế...
Hợp đồng dân sự

Điều 410 BLDS năm 2005 viện dẫn việc áp dụng các quy định từ Điều 127 đến Điều 138 vì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, do đó, cần áp dụng những quy định về giao dịch dân sự vô hiệu đối với hợp đồng vô hiệu.

Theo quy định tại Điều 127 BLDS, giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 BLDS thì vô hiệu. Về lý thuyết, có thể phân chia thành hai loại vô hiệu của giao dịch: đó là giao dịch đương nhiên vô hiệu (hay còn gọi là giao dịch vô hiệu tuyệt đối) và giao dịch dân sự vô hiệu theo đề nghị của người có quyền, lợi ích liên quan ( hay còn gọi là giao dịch vô hiệu tương đối). Nếu không có đề nghị hoặc có đề nghị nhưng không được Toà án chấp nhận thì giao dịch vẫn có hiệu lực pháp luật. BLDS quy định 7 trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu. Đây chỉ là những trường hợp vô hiệu nói chung. Ngoài ra, Điều 411 quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được, cụ thể :

Trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.
Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.Quy định này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.
Đồng thời, BLDS năm 2005 giải quyết mối quan hệ giữa vô hiệu của hợp đồng chính và vô hiệu của hợp đồng phụ, trong đó sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.

Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được giải quyết theo Điều 137 BLDS năm 2005, theo đó hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Trong trường hợp này, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

1.1.11. Về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 136 được áp dụng đối với yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, vì hợp đồng là một loại phổ biến của giao dịch dân sự.
Xuất phát từ đó, thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của BLDS năm 2005 là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập. Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 128 và Điều 129 của BLDS năm 2005 thì thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế, có nghĩa là yêu cầu Toà án vào bất kỳ thời điểm nào cũng được.

1.1.12. Thực hiện hợp đồng

Đây là một trong những giai đoạn quan trọng của hợp đồng, vì mục đích của các bên có đạt được hay không phụ thuộc vào vấn đề hợp đồng được thực hiện tốt hay không. Do đó, khi thực hiện hợp đồng, các bên phải tuân theo các nguyên tắc được quy định tại Điều 412 BLDS.

1.1.13. Cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ

Cầm giữ tài sản là việc bên có quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang chiếm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ được cầm giữ tài sản khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng theo thỏa thuận.
Bên cầm giữ có quyền cầm giữ toàn bộ hoặc một phần tài sản; thu hoa lợi từ tài sản cầm giữ và được dùng để bù trừ nghĩa vụ; yêu cầu bên có tài sản bị cầm giữ thanh toán các chi phí cần thiết cho việc bảo quản, giữ gìn tài sản đó và phải bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ.
Quyền cầm giữ chấm dứt theo thỏa thuận của các bên; khi bên cầm giữ vi phạm nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ hoặc bên có tài sản bị cầm giữ hoàn thành nghĩa vụ.

1.1.14. Về phạt vi phạm đối với vi phạm hợp đồng

BLDS năm 2005 không quy định phạt vi phạm là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như quy định của BLDS năm 1995, mà quy định đó là một trong các nội dung của hợp đồng, nếu các bên có thoả thuận và tùy từng loại hợp đồng (khoản 7 Điều 402).
Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng về việc bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận. Về quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, BLDS quy định: các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm.

1.1.15. Sửa đổi hợp đồng

Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí trong việc giao kết hợp đồng, các bên có thể thoả thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó.

1.1.16. Chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng, đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng

Hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Hợp đồng đã được hoàn thành:
Các bên đã thực hiện xong các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, ví dụ, bên bán đã giao tài sản cho bên mua, bên mua đã trả đủ tiền cho bên bán.
- Theo thoả thuận của các bên.
Ví dụ, A cho B vay tiền. Nếu A thoả thuận với B xoá khoản nợ đó cho B thiìhợp đồng vay tiền giữa A và B chấm dứt.
- Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện.
Đây là những loại hợp đồng bắt buộc người có nghĩa vụ phải tự họ thực hiện, không được chuyển cho người khác. Ví dụ, A ký hợp đồng với hoạ sĩ B vẽ cho mình bức tranh; B chưa vẽ xong thì không may bị chết; hợp đồng này sẽ chấm dứt vì bức tranh đó phải do chính hoạ sĩ B vẽ theo hợp đồng đã giao kết.
- Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện.
- Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thoả thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại.
- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.

1.1.17. Huỷ bỏ hợp đồng

Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Hậu quả pháp lý là: khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền.
Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại.

1.1.18. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng

Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Hậu quả pháp lý là: Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán.
Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại.

1.1.19. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng

Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm.

Trong quá trình soạn thảo BLDS, có ý kiến đề nghị thời hạn nêu trên cần được tính từ thời điểm bên có quyền bị vi phạm biết hoặc phải biết quyền của mình bị vi phạm; nếu tính thời điểm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác bị xâm phạm, thì quyền lợi của bên có quyền trong nhiều trường hợp không được bảo vệ tốt, vì họ có thể không biết quyền của họ đã bị vi phạm. BLDS năm 2005 không thể hiện ý kiến này, mà giải quyết mục tiêu tương tự bằng cách tính thời hạn của thời hiệu khởi kiện, cụ thể: nếu người có quyền khởi kiện gặp trở ngại khách quan, trong đó có trường hợp không biết hoặc không thể biết quyền của mình bị xâm phạm, thì thời gian này cũng không tính vào thời hạn của thời hiệu (đoạn 3 khoản 1 Điều 161 BLDS năm 2005).
Bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án cũng là giấy tờ hợp lệ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi được thừa hưởng sở hữu từ cụ nội một ngôi nhà trên mảnh đất có diện tích 1,9 sào Bắc Bộ ở xã Ngũ Lão, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ông bà nội tôi sinh được năm người con và cùng ở trên mảnh đất này. Ngoài ngôi nhà cũ của cụ nội để lại, còn có 3 căn nhà cấp 4 của bác thứ hai (xây năm 1975) và 2 chú (xây năm 1990). Nhưng diện tích đất còn lại vẫn nhiều. Năm 1978 ông nội mất không để lại di chúci. Hiện nay diện tích này do bà tôi đứng tên trong sổ địa chính. Bà tôi vẫn chưa chia mảnh đất này cho ai vì theo ý nguyện của ông là để thờ cúng tổ tiên. Năm 2000 do làm ăn thua lỗ nên bác tôi đã bí mật chuyển nhượng căn nhà cấp bốn đang ở cho chủ nợ và bỏ đi nơi khác sinh sống. Tháng 9/2003 bà tôi làm đơn đề nghị Uỷ ban nhân dân xã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà tôi thì được biết toàn bộ diện tích này đã được cấp giấy chứng nhận đứng tên bác của tôi vào năm 1995 do một cán bộ địa chính của xã giúp đỡ. Do đó Uỷ ban đã từ chối cấp giấy chứng nhận cho bà tôi. Hỏi:
1. Bà nội có thể thực hiện ý nguyện của ông nội là để diện tích đất còn lại làm nơi thờ cúng không ai được phép chuyển nhượng hay không?
2. Bà nội tôi phải làm gì để được đứng tên toàn bộ mảnh đất này?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện ông cung cấp chúng tôi xác định ngôi nhà trên diện tích đất nêu trên là tài sản chung vợ chồng của ông bà nội ông theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 (có hiệu lực từ ngày 13/01/1960 đến ngày 03/01/1987): “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Năm 1978 ông nội của ông mất nên theo quy định của Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì một nửa khối tài sản này là của bà nội, còn một nửa là di sản thừa kế của ông nội.  Ông nội của ông có nguyện vọng chỉ dùng diện tích này để thờ cúng tổ tiên chứ không được chuyển nhượng (tuy vẫn cho phép các con làm nhà trên đó). Trên diện tích đất của ông bà nội có 3 căn nhà cấp 4 của bác và 2 chú của ông  đươc ông bà nội cho phép xây  dựng để ở nên là tài sản của bác và chú ông, còn đất vẫn là của ông bà.
Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: "Khi một bên chết trước, nếu tài sản của vợ chồng cần chia, thì chia như quy định ở điều 29. Vợ chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau".
Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: "Khi ly hôn, việc chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái và lợi ích của việc sản xuất"
Căn cứ khoản 2 điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 (1)thì quyền sử dụng đất "cũng thuộc di sản thừa kế". Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 Điều 673 Bộ luật dân sự năm 1995 (2) về điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng như sau: " Trong trường hợp người lập di chúc có để lại 1 phần di sản dùng vào việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho 1 người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng". Có nghĩa rằng việc để di sản (là một nửa quyền sử dụng đất trong khối tài sản chung với bà nội) dùng vào việc thờ cúng phải được thể hiện trong di chúc của người chết. Vì ông nội mất không để lại di chúc nên không thuộc trường hợp nêu trên (tức là không có căn cứ để xác định toàn bộ diện tích đất này là di sản dùng vào việc thờ cúng).
Căn cứ khoản 1 điều 684 Bộ luật dân sự năm 1995(3) thì những người thừa kế có quyền họp mặt để thoả thuận về việc để diện tích này dùng vào việc thờ cúng. Trong trường hợp các đồng thừa kế không đồng ý thì bà của ông chưa có quyền quyết định để diện tích đất này (bao gồm cả di sản thừa kế của ông nội) để làm nơi thờ cúng.
Căn cứ điều 635 Bộ luật dân sự quy định năm 1995(4): " Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền ...hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" nên một trong các thừa kế có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản của ông nội theo quy định của pháp luật tức là "thừa kế theo hàng thừa kế" với " điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định" (điều 677 Bộ luật dân sự năm 1995(5).  Căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(6) thì bà nội cùng năm người con trai được xác định là "người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất" và mỗi người "được hưởng phần di sản bằng nhau"(khoản 2 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(7)). Tuy nhiên theo quy định tại điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995(8) thì yêu cầu chia thừa kế phải được thực hiện trong thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Vì ông bà chỉ cho phép bác và hai chú của ông xây nhà ở chứ không cho quyền sử dụng đất do đó đất vẫn của ông bà nên bà là người đứng tên trong sổ địa chính của xã.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất: b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính"
Như vậy chỉ có bà nội ông mới đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này. Nhưng căn cứ dữ kiện ông nêu thì bác ông đã bí mật xin cấp giấy chứng nhận đối với diện tích nhà đất này vào năm 1995 và không cho ai biết. Việc cấp giấy chứng nhận cho bác ông là không có căn cứ vì bác ông không phải là người sử dụng đất.
Căn cứ điều 138 Luật đất đai năm 2003 thì bà của ông cần có đơn khiếu nại gửi Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền (cấp quận/huyện) đề nghị kiểm tra lại hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bác ông. Nếu trong hồ sơ không có một trong các giấy tờ về thừa kế, tặng cho đối với diện tích đất này thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bác ông là không đúng quy định của pháp luật.
Vì diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận nên thuộc thẩm quyền của Toà án theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003. Do đó bà nội của ông cần gửi đơn đến Toà án nhân dân đề nghị được bảo vệ quyền lợi.
Sau khi có bản án của Toà án, bà nội của ông có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 5 Điều 49 Luật đất đai năm 2003 về các trường hợp được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là: “Người được sử dụng đất theo bản án hoặc theo quyết định của Toà án nhân dân”.
Khoản 5 Điều 49 Luật đất đai năm 2003: “Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp sau đây:
5. Người được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành”.
------------------------------------------------
(1)Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định vấn đề này mà quyền để thừa kế quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 5 điều 113 Luật đất đai năm 2003: "Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Họ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật"
(2) Khoản 1 điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 1 điều 681Bộ luật dân sự năm 2005
(4) Điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005
(5) Điều 674 Bộ luật dân sự năm 2005
(6), (7) Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
(8) Điều 645Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu  khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Không cần phải đăng ký thừa kế cho vợ đối với diện tích đất đã chuyển nhượng khi người chồng đang còn sống?
Câu hỏi:

Đầu năm 2003 tôi mua 40m2 trong mảnh đất của ông B đã được cấp sổ đỏ ở xã Tân Triều, huyện Thanh Trì. Hiện tôi có các giấy tờ sau: bản sao công chứng sổ đỏ mang tên ông B, hợp đồng chuyển nhượng có chữ ký của vợ chồng ông B và người làm chứng có xác nhận của UBND xã là không có tranh chấp. Nay tôi muốn xin cấp sổ đỏ phần diện tích đang sử dụng nhưng Phòng tài nguyên và Môi trường huyện yêu cầu vợ ông B phải làm thủ tục thừa kế (vì ông B chết đột ngột không để lại di chúc) thì chữ ký của vợ trong hợp đồng chuyển nhượng mới hợp pháp và tôi mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hỏi: Theo quy định của pháp luật tôi có được tách sổ đỏ mà không cần phải đợi thủ tục thừa kế cho vợ ông B không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định của Luật đất đai năm 2003 hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nếu có 1 trong 6 loại giấy tờ nêu tại khoản 1 điều 50 của Luật đât đai năm 2003.
Khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a. Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d. Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993;
đ. Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e. Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
Vì ông là người sử dụng đất chỉ có các loại giấy tờ: bản sao công chứng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông B, hợp đồng chuyển nhượng có chữ ký của vợ chồng ông B và người làm chứng, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã là không có tranh chấp. Những loại giấy tờ không thuộc quy định tại khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003.
Căn cứ khoản 2 điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định như sau:  "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 điều này mà trên giấy tờ ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan nhưng đến trước ngày luật này có hiệu lực thi hành (tức là trước ngày 01/7/2004) chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất …".
Trường hợp của ông thuộc quy định nêu trên vì: Ông đang sử dụng diện tích đất được vợ chồng ông B chuyển nhượng; diện tích đất này là 1 phần của mảnh đất mà ông B đã được cấp giấy chứng nhận và ông có 1 bản sao công chứng giấy chứng nhận đứng tên ông B (tức là giấy tờ đất đứng tên người khác chứ không phải tên ông); có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên (bên chuyển nhuợng có chữ ký của vợ chồng ông B); và vì hai bên chưa đi làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 điều 31 Luật đất đai năm 1998 (theo quy định này thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải thực hiện tại Uỷ ban nhân dân cấp huyện) vào thời điểm chuyển nhượng. Như vậy ông không cần phải đợi vợ ông B làm thủ tục thừa kế nữa vì đã có điều kiện để được xét cấp giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật và vợ ông B cũng không có tranh chấp gì về diện tích đất chuyển nhượng cho ông.
Trên cơ sở các giấy tờ này ông có thể làm thủ thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại điều khoản 1 điều 123 Luật đất đai năm 2003 như sau: Ông cần nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, ở nông thôn thì nộp tại UBND xã để chuyển cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận QSD đất gồm: Đơn xin cấp giấy chứng nhận QSD đất, giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 2 điều 50 (như liệt kê nêu trên)
Khoản 1 điều 123 Luật đất đai năm 2003 quy định: "Việc nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a. Người xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nộp hồ sơ tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân tại nông thôn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì nộp hồ sơ tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;
b. Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1,2 và 5 điều 50 của luật này (nếu có), văn bản uỷ quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có).
Di chúc là giấy tờ hợp lệ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Cha tôi qua đời còn mẹ tôi nay đã già có chia nhà cho sáu anh em, trong đó có một người không nhận phần nhà mà đòi tiền. Mẹ tôi đã cho tiền nhưng không làm giấy tờ xác nhận là người này đã lấy phần của mình bằng tiền. Nay người đó đòi chia nhà, mà nhà đã chia hết, còn phần tôi làm giấy tờ sau nên bị người này từ chối ký giấy ưng thuận. Hỏi mẹ tôi muốn làm di chúc hợp lệ để tôi hợp thức hoá phần nhà được chia có được không? Ngoài di chúc còn có cách nào để tôi được xác lập quyền sở hữu ngay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(1) quy định quyền định đoạt của chủ sở hữu như sau: “Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, cho tặng… để thừa kế hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản của mình”.
Căn nhà là tài sản của mẹ bà nên mẹ bà có quyền định đoạt bằng cách chia cho các con, trong đó có một người con không lấy nhà thì đã nhận tiền. Hiện nay, những người con được chia đã tiến hành đăng ký sở hữu phần nhà được chia của mình. Còn bà chưa làm thủ tục thì bị người con này tranh chấp. Vấn đề này giải quyết như sau:
Do bà chưa làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu của mình đối với phần diện tích được chia nên về nguyên tắc đây vẫn là tài sản của mẹ bà. Vì mẹ bà vẫn còn sống nên vẫn có quyền định đoạt phần nhà đó mà không cần có sự đồng ý của người con kia. Việc định đoạt đó có thể thông qua hai hình thức:
- Bằng di chúc: Căn cứ khoản 1 Điều 655 Bộ luật dân sự(2) quy định về di chúc hợp pháp như sau: “Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều  kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức không trái quy định của pháp luật”.
Như vậy, nếu mẹ bà muốn lập di chúc cho bà diện tích nhà còn lại thì di chúc của mẹ bà phải đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên. Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự(3) thì di chúc chỉ có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế (là thời điểm người để lại di sản chết). Có nghĩa là chỉ vào thời điểm mẹ bà mất thì bà mới có quyền sở hữu đối với phần nhà đó.
- Bằng hình thức tặng cho bất động sản: Do hiện nay mẹ bà vẫn còn sống nên mẹ bà có thể làm hợp đồng tặng cho bà diện tích nhà đó. Căn cứ khoản 2 Điều 463 Bộ luật dân sự(4) thì: “Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực từ thời điểm nhận tài sản”. Như vậy, vì nhà là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu nên bà phải làm thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì giấy tờ tặng cho bất động sản là một trong các giấy tờ hợp lệ để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất...”.
------------------------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Khoản 1 điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 1 điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 467 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản".
. Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Mẹ tôi có một thửa đất khoảng một mẫu. Năm 2001 mẹ tôi mất đi đã làm di chúc để lại mảnh đất này cho tôi và hiện tôi đang sử dụng. Tôi phải làm những thủ tục gì để được đứng tên mảnh đất đó?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995(1) thì: “Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại phần thứ năm của Bộ luật dân sự”. Vì dữ kiện không nêu rõ là đất này do mẹ ông thuê hay là có nguồn gốc do tổ tiên để lại nên có hai trường hợp xảy ra:
- Nếu diện tích đất nêu trên không phải đất thuê: Căn cứ khoản 5 Điều 113 Luật đất đai năm 2003 quy định về quyền của cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê như sau: “Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
- Nếu diện tích đất là đất thuê thì căn cứ điểm b khoản 1 Điều 114 Luật đất đai năm 2003 thì người sử dụng đất chỉ có quyền: “để lại thừa kế tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê”.
Trong trường hợp không phải là đất thuê thì mẹ ông chỉ có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất cho ông khi có đủ bốn điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 106 Luật đất đai năm 2003 gồm:
“a. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b. Đất không có tranh chấp;
c. Quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án;
d. Trong thời hạn sử dụng đất”.
Căn cứ khoản 3 Điều 690 Bộ luật dân sự năm 1995(2) quy định: “Quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình cũng được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Do đó ông được đứng tên diện tích đất của mẹ ông để lại theo di chúc nếu có đủ điều kiện mà pháp luật quy định.
Trong trường hợp là đất thuê mà ông là người đang sử dụng đất thì ông được quyền tiếp tục thuê đất và chỉ được thừa kế đối với tài sản trên đất.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì di chúc cũng là một trong các giấy tờ hợp lệ về đất ở để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khoản 2 Điều 107 Luật đất đai năm 2003 quy định người nhận thừa kế quyền sử dụng đất có nghĩa vụ: “phải đăng ký quyền sử dụng đất và làm đầy đủ thủ tục khi thừa kế...”.
Căn cứ khoản 1 Điều 129 Luật đất đai năm 2003 ông phải thực hiện trình tự thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất như sau: “Việc nộp hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a. Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;
b. Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất gồm di chúc hoặc biên bản phân chia thừa kế hoặc bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp người được nhận thừa kế là người duy nhất thì hồ sơ thừa kế gồm đơn đề nghị và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Như vậy, khi ông hoàn tất các thủ tục trên ông sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích mà mẹ ông di chúc lại cho ông theo quy định của pháp luật.
----------------------------------------
(1) Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ quy định này.
(2) Khoản 3 điều 688 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai".
Trình tự, thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Cha mẹ tôi muốn cho tôi được thừa kế ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của cha mẹ tôi. Như vậy phải cần những thủ tục gì để chuyển quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 634 Bộ luật dân sự(1) quy định chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình thông qua việc lập di chúc để cho người thừa kế theo pháp luật.
Điều 634 Bộ luật dân sự quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Như vậy, nhà và đất của cha mẹ ông phải là tài sản thuộc sở hữu của cha mẹ ông và không có tranh chấp, không thế chấp, bảo lãnh cho ai thì mới để lại thừa kế được.
Cũng theo quy định trên, việc để lại tài sản thừa kế thông qua hành vi của chủ sở hữu là lập di chúc. Như vậy, nếu nhà đất là tài sản chung của vợ chồng thì cả cha và mẹ đều phải lập di chúc cho ông theo quy định tại Điều 666 Bộ luật dân sự(2) về di chúc chung của vợ, chồng: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 636 Bộ luật dân sự(3) thì di chúc chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế tức là khi chủ sở hữu chết. Cụ thể, Điều 671 Bộ luật dân sự(4) về hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng quy định: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”.
Như vậy, nếu cha mẹ ông vẫn đang còn sống, mặc dù đã có di chúc thì cũng chưa chuyển quyền sở hữu nhà đất sang ông được.
Do đó, nếu cha mẹ muốn cho con tài sản khi đang còn sống có thể thông qua việc tặng cho tài sản. Trên cơ sở giấy tặng cho tài sản, ông có thể làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà đất sang tên mình theo quy định của pháp luật.
Căn cứ Điều 463 Bộ luật dân sự(5) quy định:
“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc có chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm nhận tài sản”.
Như vậy, ngôi nhà là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu do đó nó chỉ thuộc quyền sở hữu của ông khi đăng ký tên ông.
Về thủ tục đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại Điều 129 Luật đất đai năm 2003, ông phải thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất như sau: “Trình tự, thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất:
1. Việc nộp hồ sơ thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a. Hồ sơ thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;
b. Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất gồm di chúc hoặc biên bản phân chia thừa kế hoặc bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp người được nhận thừa kế là người duy nhất thì hồ sơ thừa kế gồm đơn đề nghị và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất gồm văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho hoặc quyết định của tổ chức tặng cho quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của công chứng nhà nước.
2. Trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp bên nhận quyền sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính mà nghĩa vụ tài chính đó được xác định theo số liệu địa chính thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thông báo cho bên nhận quyền sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.
Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, người nhận quyền sử dụng đất nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ”.
Tuỳ cách thức chuyển dịch quyền sở hữu từ bố mẹ sang ông là để thừa kế hoặc tặng cho, khi đăng ký quyền sử dụng đất ông cần phải có giấy tờ hợp pháp về thừa kế hoặc tặng cho theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất”.
-------------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp toà án tuyên bố 1 người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 điều 81 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản".
(4) Điều 668 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết".
(5) Điều 467 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản".
 
Có tên trong bản đồ địa chính đối với đất thừa kế cũng là giấy tờ hợp lệ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Ông bà tôi mất đi có di chúc để lại cho bố mẹ tôi một căn nhà trên mảnh đất thổ cư nhưng không có giấy tờ gì về đất. Nay bố mẹ tôi muốn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tôi biết có nhiều trường hợp như gia đình tôi tuy sống trên mảnh đất của tổ tiên nhưng không có giấy tờ gì mà chỉ có hồ sơ quản lý ở Uỷ ban nhân dân xã. Hỏi: trường hợp này có thuộc trường hợp được hưởng nhà đất theo thừa kế không và theo quy định của pháp luật thì căn cứ nào để cấp giấy chứng nhận cho bố mẹ tôi? Nếu chưa được cấp sổ đỏ thì có được quyền chuyển nhượng không? Giả sử bố mẹ tôi đã chuyển nhượng một phần đất thì việc chuyển nhượng này có hợp pháp không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự(1) thì: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Do đó, ông bà ông có quyền lập di chúc để lại di sản thừa kế (là căn nhà trên mảnh đất thổ cư nói trên) cho bố mẹ ông. Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(2) về thời điểm mở thừa kế thì: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết”. Như vậy, kể từ thời điểm ông bà của ông mất đi, bố mẹ ông có quyền sở hữu di sản thừa kế của ông bà.
Căn cứ khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định các loại giấy tờ làm căn cứ cấp giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp là:
“b. ... Có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính...
  c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế...”.
Như vậy di chúc của ông bà và việc có tên trong hồ sơ quản lý đất đai của Uỷ ban nhân dân xã là cơ sở để bố mẹ ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích nhà đất của ông bà để lại cho bố mẹ ông.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 106 Luật đất đai năm 2003 thì người sử dụng đất chỉ được quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật khi có các điều kiện sau:
“a. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b. Đất không có tranh chấp;
c. Quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án;
d. Trong thời hạn sử dụng đất”.
Vì thế, khi chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bố mẹ ông không thể thực hiện chuyển nhượng đất cho người khác được vì thiếu điều kiện theo quy định của pháp luật.
Giả sử gia đình ông đã chuyển nhượng một phần đất trước đấy nếu có tranh chấp thì căn cứ Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình như sau:
Tại điểm b.1 tiểu mục 2.3 phần I về giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau ngày 15/10/1993 quy định: “Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm  a.4, tiểu mục 2.3 phần này (là đất chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này”. Như vậy, cần xác định thời điểm các bên tranh chấp yêu cầu Toà án giải quyết để được áp dụng quy định nêu trên.
-------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
Biên bản thoả thuận của các đồng thừa kế cũng là giấy tờ hợp lệ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Gia đình tôi hiện nay đang ở tại ngôi nhà xây dựng trên mảnh đất của cơ quan cấp cho mẹ tôi, và có các giấy tờ sau : Bản sao quyết định của Cơ quan có thẩm quyền cấp đất cho cơ quan mẹ tôi; Bản gốc giấy phân đất do cơ quan cấp mang tên mẹ tôi, Giấy phép xây dựng do mẹ tôi đứng tên xin phép, Sơ đồ vị trí đất... Đầu năm 2002 mẹ tôi mất và không để lại di chúc, nên gia đình tôi muốn chuyển quyền sử dụng đất sang tên tôi. Tuy nhiên, khi đến Sở Địa chính Hà Nội để đăng ký làm thủ tục cấp sổ đỏ và chuyển tên sang cho tôi bằng dịch vụ hành chính công thì nhân viên tại đây có nói là về giấy tờ liên quan đến đất thì đã đầy đủ, nhưng phải có giấy khước từ thừa kế (gồm bố tôi và chị tôi). Hỏi: tôi muốn sang tên diện tích nhà đất trên thì phải làm thủ tục gì? Có phải nộp thuế sang tên tôi không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng”.
Như vậy căn nhà xây trên diện tích đất mà mẹ ông được cơ quan cấp là tài sản chung vợ chồng. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi”. Năm 2002, mẹ ông mất nên một nửa khối tài sản chung là của bố ông, còn một nửa là di sản thừa kế chưa chia của mẹ.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự(1) quy định những trường hợp thừa kế theo pháp luật là “không có di chúc”. Vì mẹ mất đi không để lại di chúc nên một nửa khối tài sản của mẹ sẽ được chia theo pháp luật.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) quy định những người thừa kế theo pháp luật thì bố ông và hai chị em ông là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản bằng nhau.
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. 
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì những đồng thừa kế thống nhất không chia thừa kế mà cả bố ông và chị gái ông đều đồng ý để cho ông được đứng tên diện tích nhà đất này.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 684 Bộ luật dân sự(3) thì “mọi thoả thuận của những người thừa kế” về “cách thức phân chia di sản thừa kế” phải được lập thành biên bản.
Điểm b khoản 1 Điều 684 Bộ luật dân sự quy định: “Cách thức phân chia di sản”.
Khoản 2 Điều 684 Bộ luật dân sự quy định: “Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”. 
Do đó cần phải có biên bản của bố con ông về việc đồng ý để ông đứng tên nhà đất.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định về các loại giấy tờ hợp lệ về đất ở thì Biên bản này là “giấy tờ hợp pháp về thừa kế” để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất”. 
Do đó, bố ông và chị ông không cần làm thủ tục khước từ thừa kế phần tài sản mà họ được hưởng.
Theo khoản 5 Điều 3 Nghị định số 19/2000/NĐ-CP ngày 8/6/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất quy định những trường hợp không thuộc diện chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất thì: “chuyển quyền sử dụng đất giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau”. Do vậy, ông không phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất (4%) vì được thừa kế từ mẹ.
Theo quy định tại điểm 1 mục I Thông tư số 28/2000/TT-BTC ngày 18/4/2000 của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 176/1999/NĐ-CP ngày 21/12/1999 của Chính phủ về lệ phí trước bạ thì đất là tài sản phải chịu lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, ông phải nộp lệ phí trước bạ sang tên ông (tức lệ phí đăng ký quyền sở hữu) bằng 1% trị giá tài sản tại thời điểm nộp.
-------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
Bản án có hiệu lực pháp luật của Toà án cũng là giấy tờ hợp lệ để đăng ký quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Bà nội tôi chết có để lại di chúc cho chị em tôi (là cháu nội) được thừa hưởng phần di sản của bà là 2/3 ngôi nhà tôi đang ở (từ năm 1994), nhưng hiện nay giấy tờ nhà lại do bác của tôi giữ. Như vậy, di chúc của chúng tôi đang giữ có thời hạn thực hiện trong bao lâu? Vì hiện nay giấy tờ nhà do người bác giữ vậy chúng tôi phải làm gì để được hưởng di sản thừa kế của bà nội?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì bà nội để di chúc cho chị em ông hưởng 2/3 ngôi nhà là tài sản của bà nội, do đó chỉ có 2/3 ngôi nhà là được chia theo di chúc còn 1/3 ngôi nhà do không định đoạt trong di chúc nên sẽ chia thừa kế theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 678 Bộ luật dân sự(1) cụ thể: “Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
a) Phần di sản không được định đoạt trong di chúc”.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) quy định những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Như vậy, các anh em của bố ông (có cả người bác) sẽ là những người được hưởng thừa kế đối với 1/3 ngôi nhà của bà nội.
Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(3) thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm người để lại di sản thừa kế chết. Trong trường hợp còn trong thời hiệu thì ông có quyền khởi kiện chia thừa kế theo di chúc, còn phần di sản không được định đoạt trong di chúc thì yêu cầu Toà án chia theo quy định của pháp luật cho những người cùng hàng thừa kế (nếu họ có yêu cầu). Nếu đã hết thời hiệu thì không còn quyền yêu cầu chia thừa kế nữa tuy nhiên Toà án vẫn có thể giải quyết mà không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế nếu thuộc trường hợp quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn việc áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án dân sự. Cụ thể:
Căn cứ điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP quy định như sau: “Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà những đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
Do đó nếu đủ điều kiện như nêu trên, khi có tranh chấp giữa chị em ông và người bác thì ông có quyền làm đơn yêu cầu Toà án giải quyết chia cho chị em ông 2/3 diện tích nhà đất theo di chúc. Còn 1/3 ngôi nhà không được định đoạt trong di chúc sẽ được chia theo pháp luật về tài sản chung cho những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất của bà nội (vì bố ông mất nên kỷ phần của bố ông do chị em của ông được hưởng).
Sau khi có phán quyết của Toà án chị em ông có thể làm thủ tục sang tên diện tích nhà đất sang tên mình. Căn cứ khoản 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định bản án hoặc quyết định của Toà án cũng là một trong các giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai chị em ông cũng có thể thoả thuận cùng đứng tên hoặc phân chia diện tích đất đó để từng người đứng tên theo phần căn cứ vào biên bản phân chia giữa hai đồng thừa kế.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Nghĩa vụ đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Cha mẹ tôi muốn cho tôi được thừa kế ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của cha mẹ. Tôi phải làm những thủ tục gì để chuyển quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở theo đường thừa kế? Tôi là người nhận thừa kế có nghĩa vụ gì khi nhận thừa kế là nhà đất không? Tôi có quyền từ chối nhận di sản thừa kế không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Điều 634 Bộ luật dân sự(1) quy định chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình thông qua việc lập di chúc để lại tài sản cho người thừa kế.
Điều 634 Bộ luật dân sự quy định về quyền thừa kế của cá nhân: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. 
Theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì ngôi nhà này là tài sản chung vợ chồng nên cả cha và mẹ đều phải lập di chúc chung về chuyển dịch quyền sở hữu ngôi nhà cho ông.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận”.
 Khoản 1 Điều 106 Luật đất đai năm 2003 quy định về điều kiện được để lại thừa kế tài sản là nhà đất gồm:
“a. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b. Đất không có tranh chấp;
c. Quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án;
d. Trong thời hạn sử dụng đất”.
Như vậy, nếu ngôi nhà của cha mẹ ông đủ các điều kiện nêu trên thì được để lại thừa kế.
Căn cứ Điều 639 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Như vậy kể từ thời điểm mở thừa kế thì người nhận di sản phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại theo quy định tại các điều luật sau:
- Khoản 1 Điều 640 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”.
- Khoản 1 Điều 645 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác”.
Ngoài ra, người được hưởng thừa kế là nhà đất còn phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của Luật đất đai như sau:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 107 Luật đất đai năm 2003 thì người nhận thừa kế là quyền sử dụng đất phải có nghĩa vụ “đăng ký quyền sử dụng đất và làm đầy đủ thủ tục khi thừa kế...”.
Điều 129 Luật đất đai năm 2003 quy định trình tự thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất như sau:
- Nộp hồ sơ: Điểm a khoản 1 Điều 129 quy định người nhận thừa kế phải “nộp hồ sơ đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất”.
- Các giấy tờ kèm theo đơn: Điểm b khoản 1 Điều 129 quy định: “Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất gồm di chúc hoặc biên bản phân chia thừa kế hoặc bản án, quyết định giải quyết tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp người được nhận thừa kế là người duy nhất thì hồ sơ thừa kế gồm đơn đề nghị và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
- Thời gian xem xét giải quyết: Khoản 2 Điều 129 quy định: “Trong thời hạn không quá mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp bên nhận quyền sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính mà nghĩa vụ tài chính đó được xác định theo số liệu địa chính thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thông báo cho bên nhận quyền sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính.
Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, người nhận quyền sử dụng đất nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ”.
-------------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 636 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 1 điều 637 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác".
(4) Khoản 1 điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005.
Nghĩa vụ của người quản lý di sản theo thoả thuận?
Câu hỏi:

Cha mẹ chúng tôi mất đi có để lại cho các con tài sản là ngôi nhà. Chúng tôi thoả thuận để người em quản lý và đứng tên ngôi nhà. Nhưng người em đã thế chấp ngân hàng số tiền là 350 triệu đồng để sử dụng riêng. Hỏi: việc thế chấp nhà của cha mẹ để lại có phải có đủ chữ ký những người đồng thừa kế không? Vậy tôi phải làm đơn ở nơi nào cho phù hợp và điều nào của Bộ luật dân sự quy định cấm thế chấp nhà cửa không có chữ ký của những người đồng thừa kế?

Trả lời:
Trong trường hợp cha mẹ mất mà không có di chúc thì ngôi nhà là di sản thừa kế của bố mẹ để lại cho những người đồng thừa kế. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì ông và người em là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất và có quyền tài sản ngang nhau đối với di sản (căn nhà) do cha mẹ để lại.
Hiện tại căn nhà đó chưa được chia và theo thoả thuận của hai anh em của ông thì ngôi nhà sẽ do người em quản lý và đứng tên. Căn cứ khoản 1 Điều 641 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thoả thuận cử ra”. Trong trường hợp này người em được xác định là người quản lý di sản chứ không phải chủ sở hữu ngôi nhà.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 642 Bộ luật dân sự(3) quy định nghĩa vụ của người quản lý di sản như sau: “Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”. Như vậy, trong trường hợp người em tự ý đem ngôi nhà đi thế chấp là trái quy định của điều này và xâm phạm đến quyền lợi của ông.
Để bảo vệ quyền tài sản của mình bị xâm phạm, ông có thể kiện ra Toà án nhân dân yêu cầu huỷ giao dịch thế chấp đó nhưng ông phải chứng minh việc người em đứng tên ngôi nhà chỉ là theo thoả thuận của hai anh em. Ngoài ra ông có quyền yêu cầu Toà án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Việc yêu cầu chia thừa kế chỉ được thực hiện trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm bố mẹ của ông mất theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(4).
Điều 648 Bộ luật dân sự quy định: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Nếu hai anh em của ông đều thống nhất ngôi nhà này là tài sản chung và chưa chia thì theo quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật dân sự(5) đây là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Khoản 1 Điều 232 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia”.
Nên việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung đó phải tuân theo quy định tại khoản 2 Điều 237 Bộ luật dân sự(6): “Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung...”.
Do đó, trong trường hợp người em tự định đoạt ngôi nhà đó một mình cũng là trái với quy định này và ông cũng có quyền yêu cầu Toà án tuyên huỷ giao dịch thế chấp và đề nghị chia tài sản thuộc sở hữu chung này theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nếu ngôi nhà là tài sản chung của hai anh em thì cả hai anh em của ông sẽ cùng đứng tên sở hữu ngôi nhà với tư cách là những đồng sở hữu chung.
--------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 638 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điểm b khoản 1 điều 639 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(5) Khoản 1 điều 217 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia".
(6) Khoản 2 điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005.
Biên bản thoả thuận phân chia di sản của các đồng thừa kế?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có ba người con (chị gái, tôi là con trai và em gái). Bố tôi mất năm 1982 còn mẹ tôi mất năm 1986, để lại một diện tích 1000m2 gồm cả đất và ao (trên đất có ngôi nhà cấp bốn) nguồn gốc do tổ tiên để lại. Bố mẹ tôi mất không có di chúc. Khi bố mẹ còn sống có tôi và cô em gái cùng sống trên mảnh đất đó (em gái tôi ở trên diện tích 140m2) còn chị gái tôi lấy chồng và ở nơi khác. Năm 1995 tôi san lấp ao được khoảng 500m2 (do tôi tự bỏ chi phí bằng giá trị 150m2 ao). Sau khi san lấp ao chị em tôi có họp gia đình và lập biên bản để chia di sản thừa kế của bố mẹ (nhưng không có chữ ký của tôi). Theo biên bản này thì cô em gái của tôi được thêm 57m2 (cùng với 140m2 đang ở) và cho chị gái tôi 100m2, còn lại là phần của tôi (vì tôi phải lo giỗ tết cho cha mẹ và tổ tiên hàng năm). Đầu năm 2004 em rể tôi (chồng của em gái tôi) rủ chị gái tôi đòi chia lại đất nhưng chị tôi không đồng ý. Hỏi: Em rể của tôi có quyền lợi gì đối với di sản thừa kế của bố mẹ chúng tôi không? Nếu một mình em gái tôi yêu cầu chia đất có được không? Tôi có phải chia lại đất không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì bố mẹ ông mất không có di chúc nên việc chia thừa kế sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế (tức là theo hàng thừa kế).
Căn cứ khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(1) quy định về những hàng thừa kế theo pháp luật như sau:
"a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột".
Như vậy đối chiếu vào quy định trên thì 3 chị em ông thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ (điểm a) còn người em rể không thuộc hàng thừa kế nào nên không được hưởng di sản thừa kế của bố mẹ ông.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”.
Theo dữ kiện ông cung cấp hiện nay 3 chị em của ông đang quản lý sử dụng  1000m2 đất trên có ngôi nhà của bố mẹ để lại. Theo quy định tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định quyền sử dụng đất cũng là di sản nếu trên đất có tài sản là nhà gắn liền với quyền sử dụng đất. Di sản (là quyền sử dụng 1000m2 nói trên) do bố mẹ ông được để lại cho những người thừa kế sử dụng như sau: Ông sử dụng 700m2, em gái sử dụng 197m2, chị gái 100m2. Việc phân chia đất này là do ba chị em ông tự thoả thuận cách thức chia sau đó đã có lập văn bản. Tuy ông không ký vào Biên bản nhưng ông không phản đối gì và chị và em gái của ông cũng không có ý kiến gì như vậy là cả ba người đều thống nhất về việc định đoạt tài sản chung do bố mẹ để lại (là quyền sử dụng đất) theo phân chia như nêu trên.
Tiểu mục 1.3 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: " trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có 1 trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn liền với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất đó có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế thì phân biệt các trường hợp sau:
- Trong trường hợp đương sự có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
-Trong trường hợp đương sự không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để UBND cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Trong trường hợp UBND cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó thì toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
Theo quy định tại Điều 230 Bộ luật dân sự(3) về xác lập quyền sở hữu chung thì: “Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán”. Như vậy, Biên bản chia đất giữa ba chị em ông lập vào năm 1995 được coi là sự thoả thuận định đoạt  tài sản chung là di sản thừa kế của bố mẹ để lại.
Vì bố mẹ của ông mất trước 1/7/1991 nên căn cứ các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế thì những người thừa kế không còn quyền yêu cầu vào ngày 10/3/2003. Tuy nhiên, trong trường hợp này, giả sử người em gái không công nhận giá trị của Biên bản chia đất năm 1995 mà muốn yêu cầu Toà án phân chia lại đất thì căn cứ quy định của điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế khi: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”. Vì năm 1995 ba chị em của ông có biên bản thoả thuận phân chia đất nên thuộc trường hợp quy định tại tiểu mục a.2 điểm a mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02 (2). Do đó toà án sẽ căn cứ vào biên bản này để chia tài sản chung.
Tiểu mục a.2 điểm a mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 quy định: "Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ".
---------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 215 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại?
Câu hỏi:

Trước khi ba tôi mất đã làm di chúc cho tôi thừa hưởng nửa căn nhà (phần của ba) mà ba mẹ đứng tên ( còn mẹ tôi cho em gái tôi phần của mẹ). Sau khi ba tôi mất, có người mang giấy nợ có chữ ký của ba tôi đã thế chấp cho họ một nửa ngôi nhà thuộc phần sở hữu của ba nhưng không có công chứng. Hỏi: giấy nợ có thế chấp nhà do ba tôi lập có hợp pháp hay không? Tôi có trách nhiệm phải bán phần nhà được thừa kế của ba tôi để trả nợ cho ba hay không? Mẹ tôi có cùng chịu trách nhiệm trả nợ không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Giấy vay nợ của ba ông lập có hai nội dung: giao dịch vay nợ và giao dịch thế chấp (cụ thể là một nửa ngôi nhà).
* Để đánh giá tính hợp pháp của giao dịch thế chấp nhà (do bố ông thực hiện) cần căn cứ vào mặt hình thức và mặt nội dung của giao dịch này cụ thể như sau:
- Về hình thức:
Vì nhà đất là bất động sản phải có đăng ký nên theo Điều 347 Bộ luật dân sự(1) quy định về hình thức thế chấp tài sản là nhà đất:
“1. Thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản... và phải có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền...
2. Việc thế chấp phải được đăng ký, nếu bất động sản có đăng ký quyền sở hữu”.
Do đó, giao dịch thế chấp nhà bị vô hiệu về hình thức do không tuân thủ khoản  khoản 4 Điều 131 Bộ luật dân sự năm 1995 cụ thể: “Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật”. Và theo quy định tại Điều 139 Bộ luật dân sự(3) thì việc xử lý giao dịch dân sự bị vô hiệu về hình thức như sau: “Trong trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự vô hiệu, nếu không được thể hiện bằng văn bản, không được Công chứng nhà nước chứng nhận, không được chứng thực, đăng ký hoặc cho phép, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện, thì giao dịch vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại”. Trong trường hợp này vì bố ông đã mất nên chỉ có người cho vay có quyền được yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch thế chấp nhà vô hiệu còn ông và mẹ ông không có quyền vì không phải là 1 bên trong giao dịch dân sự này.
- Về nội dung: Tại thời điểm thế chấp ngôi nhà do bố mẹ ông đứng tên vẫn là tài sản chung vợ chồng, giữa bố mẹ ông vẫn chưa có thoả thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết”. Khoản 1 Điều 346 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền”. Vì căn nhà là tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và chưa phân chia cụ thể nên bố ông không có quyền định đoạt một mình. Mặt khác theo quy định tại khoản 3 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì: “Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình... phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận”, nên bố ông không có quyền thế chấp tài sản chung vợ chồng mà không được sự đồng ý của mẹ ông.
Do đó, giao dịch thế chấp này cũng bị vô hiệu về mặt nội dung nên việc thế chấp một nửa ngôi nhà do bố ông thực hiện không có giá trị. Và mẹ ông với tư cách là người đồng sở hữu tài sản chung có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch thế chấp nhà của bố ông là vô hiệu.
* Trách nhiệm  của người còn sống đối với nghĩa vụ của người đã chết:
Tuy giao dịch thế chấp nhà không có hiệu lực nhưng giao dịch vay nợ của bố ông đối với chủ nợ thì vẫn có hiệu lực.
Căn cứ Điều 639 Bộ luật dân sự(5) quy định về chuyển giao nghĩa vụ từ người chết sang người thừa kế như sau: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Do vậy, ông là người thừa kế theo di chúc phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả khoản nợ này trong phạm vi di sản được thừa kế của bố ông. Có hai tình huống xảy ra:
+ Trường hợp bố vay nợ để chi tiêu chung cho gia đình: Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”. Việc vay nợ của bố ông nếu vì nhu cầu sinh hoạt chung của gia đình thì mẹ ông cũng có trách nhiệm trả nợ lấy từ khối tài sản chung vợ chồng (ngôi nhà đứng tên cha mẹ) theo quy định của khoản 2 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng”. Sau khi trừ đi khoản nợ đó tài sản chung còn lại mới được chia đôi và phần tài sản thuộc sở hữu của bố sẽ được để lại cho người thừa kế là ông được chỉ định trong di chúc.
+ Trường hợp bố vay nợ để chi tiêu riêng: Căn cứ khoản 3 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó” thì mẹ ông không có nghĩa vụ liên đới trả khoản nợ mà bố đã vay.
Vì bố ông để lại di chúc cho ông hưởng một nửa căn nhà phần của bố nên ông  phải trả nợ cho bố ông theo quy định tại khoản 1 Điều 640 Bộ luật dân sự(6) là: “Người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”.
Trong trường hợp ông không có tiền trả nợ thì ông buộc phải bán nửa căn nhà là di sản thừa kế của bố ông để trả nợ.
Tuy nhiên, nếu khoản nợ lớn hơn phần di sản ông được hưởng thì ông chỉ có nghĩa vụ trả nợ tương ứng với phần di sản ông được hưởng theo quy định tại khoản 3 Điều 640 Bộ  luật dân sự năm 1995(7) cụ thể quy định như sau: “Trong trường hợp di sản đã được chia, thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận”.
-----------------------------------------------
(1) Điều 343 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký".
(2) Khoản 2 điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định".
(3) Điều 134 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong 1 thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu".
(4) Khoản 1 điều 342 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thế chấp tài sản là việc 1 bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp.
Trong trường hợp thế chấp 1 phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Tài sản thế chấp có thể là tài sản được hình thành trong tương lai".
(5) Điều 636 Bộ luật dân sự năm 2005.
(6) Khoản 1 điều 637 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác".
(7) Khoản 3 điều 637 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác".
Cách phân chia di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Bà ngoại tôi có hai người con gái là mẹ tôi và dì tôi. Bà tôi mất năm 1995, khi mất không để lại di chúc về mảnh đất mà mẹ tôi đang ở trên dó. Bà tôi cũng chẳng để lại giấy tờ gì về đất mà chỉ có tên trong sổ địa chính. Theo quy định của pháp luật về thừa kế thì tài sản là đất đai bà tôi để lại được phân chia như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện ông nêu chúng tôi xác định quyền sử đất là di sản thừa kế của bà ông theo các quy định của pháp luật như sau:
Căn cứ  tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì việc xác định quyền sử dụng đất là di sản khi "người chết có 1 trong các giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 Luật đất đai năm 2003". Tuy bà ngoại của ông không có các giấy tờ về nguồn gốc đất nhưng có tên trong sổ địa chính nên thuộc trường hợp quy định điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 do vậy quyền sử dụng đất của bà ông được xác định là di sản thừa kế và được để lại cho những người thừa kế.
Tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: "Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 điều 50 của Luật đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế".
Điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban Nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất: b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có trên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính".
 Năm 1995 bà của ông mất không để lại di chúc nên di sản thừa kế của bà ngoại sẽ chia theo pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(1) thì hai người con của bà ngoại (mẹ ông và người dì) thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản bằng nhau.
Điểm a khoản 1điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;"
Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995(2) quy định thời hiệu yêu cầu chia thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Vì bà ngoại mất năm 1995 nên đến năm 2005 mới hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế. Như vậy, nếu những người con không thoả thuận được về cách chia thì có thể yêu cầu Toà án giải quyết.
Điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: "Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Căn cứ khoản 2 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 1995(3) quy định về cách thức phân chia di sản như sau: “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người có thể thoả thuận về việc định giá hiện vật và thoả thuận về người nhận hiện vật; nếu không thoả thuận được thì hiện vật được bán để chia”.
Như vậy, mẹ ông và dì của ông có thể thoả thuận với nhau về việc chia diện tích đất. Trong trường hợp một người nhận đất thì người đó phải có trách nhiệm thanh toán bằng tiền cho người còn lại tương đương với giá trị của mảnh đất đó.
----------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Khoản 2 điều 685 Bộ luật dân sự năm 2005.
Biên bản phân chia di sản của các đồng thừa kế?
Câu hỏi:

Cha mẹ tôi mất năm 1998 có để lại một thửa đất (trên có nhà) không có di chúc. Nay anh em tôi thoả thuận với nhau về việc chia tài sản thừa kế bằng một biên bản của hội đồng gia tộc. Vậy văn bản này có phải đưa ra Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân thì mới có giá trị hay không và có được công nhận như một cơ sở để chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chúng tôi không? Tôi là một thừa kế ở Hưng Yên thì có được nhận phần thừa kế là đất tại Hà Nội không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện ông nêu chúng tôi xác định trường hợp của ông thuộc quy định tại điểm a khoản 1 điều 678 Bộ luật dân sự năm 1995 (1) tức là trường hợp "thừa kế theo pháp luật" vì người chết không để lại di chúc.
Điểm a khoản 1 điều 678 Bộ luật dân sự năm 1995: "1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợ sau đây: a. Không có di chúc".
Căn cứ khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự năm 1995(2) quy định về thời điểm mở thừa kế như sau: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết...”. Như vậy, vì bố mẹ ông mất năm 1998 nên thời điểm mở thừa là năm 1998. Điều 639 Bộ luật dân sự năm 1995(3) quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”.
Vì bố mẹ ông mất không có di chúc nên việc chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(4) thì các anh em ông là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản bằng nhau. Hiện nay, các anh chị em ông không có tranh chấp gì và cùng nhau thoả thuận phân chia di sản thừa kế của bố mẹ là phù hợp với quy định của pháp luật cụ thể:
Điều 684 Bộ luật dân sự(5) quy định về họp mặt những người thừa kế như sau: “Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế... những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản”.
Khoản 2 Điều này quy định: “Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”. Vì bố mẹ ông mất năm 1998 và căn cứ điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995 (6) quy định về thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nên trường hợp của gia đình ông thuộc quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình cụ thể: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.
Điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995: "Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Như vậy, kể từ thời điểm các anh chị em ông lập biên bản thoả thuận phân chia di sản thì di sản thừa kế của bố mẹ trở thành tài sản chung của các anh chị em ông. Vì pháp luật chỉ quy định mọi thoả thuận của các đồng thừa kế phải lập thành văn bản không cần phải có chứng thực của cơ quan Công chứng nhà nước hoặc chứng nhận của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền nên bản thoả thuận của gia tộc ông có tất cả các chữ ký của các đồng sở hữu chung có giá trị.
Điều 634 Bộ luật dân sự năm 1995 (7) quy định về quyền thừa kế của cá nhân như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình... hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Điều 635 Bộ luật dân sự năm 1995(8) cũng quy định: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Do dó, mặc dù ông là một thừa kế tuy ở Hưng Yên nhưng vẫn được hưởng thừa kế của bố mẹ tại Hà Nội.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003: “1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất...”.
Do đó, biên bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế của hội đồng gia tộc ông cũng được coi là một trong các giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất vì là "giấy tờ hợp pháp về thừa kế". Tính hợp pháp của giấy tờ này thể hiện: các đồng thừa kế thoả thuận về phân chia di sản thừa kế.
Căn cứ vào tài liệu này các ông có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
------------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005
(2) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005
(3) Điều 636 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
(6) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế"
(7) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(8) Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2005.
Phân chia di sản thừa kế theo pháp luật?
Câu hỏi:

Tôi là một trong những người được thừa kế di sản là nhà đất của bố mẹ theo pháp luật. Tôi phải làm những thủ tục gì mới được hưởng phần di sản? Nếu chưa làm xong thủ tục mà phát sinh tranh chấp liên quan đến di sản thừa kế thì sẽ được giải quyết như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự(1) thì người để lại tài sản không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì thuộc trường hợp thừa kế theo pháp luật. Nếu ông là con của người chết và cùng với các anh chị em khác thì căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) đều được xác định là người thừa kế thuộc “hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, của người chết”.
Để được hưởng phần thừa kế của mình những người thừa kế phải cùng nhau họp mặt lập biên bản để thoả thuận cách thức phân chia di sản sau khi có thông báo về việc mở thừa kế được quy định tại Điều 684 Bộ luật dân sự(3).
Điều 684 Bộ luật dân sự quy định:
“1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”.
Sau khi những người thừa kế trong gia đình thoả thuận được với nhau về cách thức phân chia di sản và thoả thuận đó được ghi nhận thành văn bản, ông phải làm thủ tục đăng ký thừa kế theo quy định tại khoản 2 Điều 107 Luật đất đai năm 2003 “Người sử dụng đất có nghĩa vụ... đăng ký quyền sử dụng đất, làm đầy đủ thủ tục khi... thừa kế quyền sử dụng đất... theo quy định của pháp luật”.
Căn cứ khoản 1 Điều 129 Luật đất đai năm 2003 thì người thừa kế phải gửi hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất gồm Biên bản phân chia thừa kế và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi nộp hồ sơ hợp lệ và thực hiện đủ các nghĩa vụ tài chính thì Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền sẽ xem xét để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người thừa kế.
Điều 648 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Trong trường hợp thủ tục đăng ký sang tên ông chưa hoàn tất mà có tranh chấp xảy ra thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Toà án.
Nếu thời điểm phát sinh tranh chấp xảy ra sau mười năm kể từ ngày mở thừa kế, việc giải quyết sẽ được thực hiện theo Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình. Cụ thể:
- Tranh chấp giữa những người thừa kế với nhau: Theo điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP nếu các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận là di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
- Tranh chấp giữa những người thừa kế với người thứ ba: điểm b tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP quy định trường hợp có tranh chấp giữa những người thừa kế với người thứ ba đang trực tiếp chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người thứ ba đó để đòi lại di sản.
----------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Quy định về thừa kế thế vị theo quy định của pháp luật?
Câu hỏi:

Ông nội tôi trước đây có khối tài sản là năm gian nhà ngói liền kề với mảnh vườn diện tích 250m2, tổng là 324m2. Ông tôi mất năm 1977 để lại quyền thừa kế cho bà nội tôi (có giấy tờ). Năm 1998 bà nội tôi cũng mất và không có di chúc. Ông bà tôi có năm người con trai, trong đó hai bác trai đã mất năm 1968 và năm 1991, chỉ còn hai bác dâu nhưng cũng đã có nhà và đất riêng biệt ở quê mà ông bà cho từ khi ông bà còn sống. Chỉ còn ba người con trong đó có bố tôi và hai chú là chưa được chia. Bố tôi là con thứ ba đã mất năm 1989. Hiện nay chỉ có chú út tôi đang quản lý diện tích nhà đất của ông bà. Nay tôi về quê xin một phần diện tích đất trên để làm nơi thờ cúng cho người đã khuất. Tôi đã nói chuyện với hai chú nhưng chưa được giải quyết. Uỷ ban nhân dân xã đã hoà giải nhưng không có kết quả. Hỏi: tôi có quyền hưởng phần di sản thừa kế (đất đai, tài sản) của ông bà tôi để lại không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì ông nội mất đi để lại quyền thừa kế căn nhà và mảnh vườn cho bà nội nên tài sản này là của bà nội. Năm 1998 bà nội mất đi không để lại di chúc nên việc phần chia di sản thừa kế của bà nội phải theo quy định của pháp luật.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì bố ông và hai người bác đã mất nên chỉ còn hai người chú con của ông bà nội thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản bằng nhau.
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. 
Tuy nhiên bố ông và bác lại mất trước bà nội nên theo quy định tại Điều 680 Bộ luật dân sự(2) thì: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha cháu được hưởng nếu còn sống...”. Như vậy, những người con của 2 người bác (nếu có) và ông cùng các anh chị em của ông (nếu có) là những người thừa kế thế vị và được quyền hưởng kỷ phần thừa kế của 2 bác và bố ông bằng mỗi phần mà mỗi người chú còn sống được hưởng.
Vì bà nội mất năm 1998 nên vẫn còn thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế theo quy định của Điều 648 Bộ luật dân sự(3): “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Vì vậy ông cũng có quyền hưởng phần di sản thừa kế của bà nội để lại và có thể khởi kiện yêu cầu Toà án chia di sản thừa kế của bà nội.
-------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
(3) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Đại diện cho người thừa kế trong quan hệ với bên thứ ba liên quan đến di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Năm 1995 hai vợ chồng tôi ly hôn (chồng tôi tên là D), chúng tôi thoả thuận chồng tôi ở lại căn nhà do 2 vợ chồng xây trên đất bố mẹ chồng cho năm 1991. Việc bố mẹ cho đất có giấy tờ và có chữ ký của các anh chị em chồng. Chúng tôi có một con gái chung còn bé và ở với tôi. Năm 2000 anh D chết (lúc này cũng đã có một con khác với chị M không có đăng ký kết hôn) và cuối năm 2001 mẹ của anh D cũng qua đời. Năm 2002 em ruột của anh D (là anh L) đã chiếm toàn bộ căn nhà này và tháng 10/2003 đã tự ý phá ngôi nhà đi để xây nhà mới. Tôi đã làm đơn gửi ra phường khiếu nại việc anh L chiếm tài sản thừa kế của con tôi. Uỷ ban nhân dân phường đã chuyển hồ sơ đến Toà án quận Đống Đa đề nghị giải quyết cho con tôi được hưởng thừa kế. Toà án yêu cầu phường phải xác nhận anh D đã có quyền sử dụng đối với nhà đất trên nhưng phường không xác nhận với lý do đây là đất do hợp tác xã nông nghiệp chia cho bố mẹ chồng tôi. Hỏi: con gái tôi có được hưởng thừa kế là căn nhà của bố cháu không? Tôi phải làm gì để con gái tôi về ở ngôi nhà của bố cháu để tiếp tục học tập?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện chị cung cấp chúng tôi xác định diện tích đất trên có nguồn gốc là của hợp tác xã chia cho bố mẹ chồng chị để làm nhà ở từ năm 1983. Năm 1991 bố mẹ cho vợ chồng chị diện tích này, việc cho được lập thành văn bản và có các chữ ký của bố mẹ và các anh em chồng. Căn cứ Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự ban hành năm 1991 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay mượn, tặng cho tài sản”. Như vậy giấy tờ thể hiện việc  bố mẹ chồng chị cho vợ chồng đất làm nhà được coi là một hợp đồng về tặng cho tài sản. Khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh hợp đồng dân sự quy định: “Hợp đồng có hiệu lực có từ thời điểm giao kết, nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác”. Căn cứ vào giấy tờ cho đất có chữ ký của bố mẹ chồng và các thành viên khác trong gia đình nhà chồng thì diện tích đất mà vợ chồng chị được cho là tài sản của hai vợ chồng. Sau đó vợ chồng chị đã bỏ tiền xây dựng căn nhà trên đó và là tài sản của chung của hai vợ chồng tuy diện tích đất vẫn mang tên bố mẹ chồng chị trong sổ địa chính (vì có nguồn gốc là đất do hợp tác xã nông nghiệp chia cho bố mẹ chồng).
Năm 1995 vợ chồng chị ly hôn, tuy diện tích đất vẫn đứng tên bố mẹ chồng nhưng trên đó có căn nhà là tài sản chung của hai vợ chồng và hai người đã tự thoả thuận về tài sản cụ thể là chị để lại cho anh D sử dụng căn nhà cho nên Toà án đã chấp nhận sự thoả thuận này bằng một quyết định có hiệu lực pháp luật. Gia đình nhà chồng chị cũng không có tranh chấp gì về diện tích đất này. Anh D đã ở tại căn nhà này cho đến năm 2000 thì mất.
Căn cứ khoản 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân... thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật”.
Vì căn nhà là tài sản riêng của anh D nên khi anh D mất đi thì tài sản này trở thành di sản thừa kế của những người thừa kế theo pháp luật của anh D (vì anh D mất đi không để lại di chúc). Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của anh D bao gồm: con chung của chị với anh D và con của anh D với chị M. Vì chị M không có đăng ký kết hôn với anh D nên không thuộc hàng thừa kế theo quy định của pháp luật.
Vì cả hai người con của anh D đều dưới 18 tuổi nên theo quy định tại Điều 150 Bộ luật dân sự(2) quy định về người đại diện theo pháp luật (cụ thể là cha mẹ đối với con chưa thành niên) thì chị và chị M được xác định là người đại diện cho hai cháu bé.
Điều 150 Bộ luật dân sự quy định: “Người đại diện theo pháp luật bao gồm:
1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
2. Người giám hộ đối với người được giám hộ;
3. Người được Toà án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
4. Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
5. Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;
6. Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;
7. Những người khác theo quy định của pháp luật”. 
Căn cứ Điều 153 Bộ luật dân sự(3) quy định phạm vi thẩm quyền đại diện thì chị và chị M “có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện” và có thể tham gia tố tụng tại Toà án để yêu cầu anh L phải trả lại căn nhà là di sản thừa kế.
Điều 153 Bộ luật dân sự quy định: “Phạm vi thẩm quyền đại diện
1. Người đại diện theo pháp luật có thẩm quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyết định khác.
2. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo văn bản uỷ quyền.
3. Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện.
4. Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm vi thẩm quyền đại diện của mình.
5. Người đại diện không được thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc  người thứ ba mà mình cũng là đại diện của người đó”.
-----------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 141 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 144 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
"1. Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Phạm vi đại diện theo uỷ quyền được xác lập theo sự uỷ quyền.
3. Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
4. Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự biết về phạm vi đại diện của mình.
5. Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".
Quyền đòi nhà cho thuê của những người thừa kế?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có ba người con (một người đã mất) và có một khối tài sản là một căn nhà trên diện tích đất 50m2 tại ngõ Tô Hoàng, Bạch Mai mà bố mẹ tôi mua từ năm 1944. Năm 1964 bố mẹ tôi đã cho ông P thuê căn nhà này (hợp đồng thuê nhà có thời hạn từ 20/7/1964 đến 20/7/1967). Nhưng kể từ khi hết hạn hợp đồng đến nay gia đình ông P vẫn không chịu trả nhà mặc dù chúng tôi đã đòi rất nhiều lần trong thời gian đó chúng tôi vẫn thực hiện đầy đủ các khoản thuế với Nhà nước cho diện tích nhà đất này. Vì vậy, tuy bố tôi mất năm 1948, mẹ mất năm 1975, nhưng đến nay chúng tôi vẫn chưa sang tên thừa kế được. Hỏi chúng tôi chưa sang tên thừa kế, vậy chúng tôi có đủ tư cách để đòi nhà của người cho thuê không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì căn nhà là tài sản của bố mẹ ông, khi bố mẹ ông mất đi thì đó là di sản thừa kế của các anh em ông. Nhưng những người thừa kế chưa được thụ hưởng di sản thừa kế vì căn nhà này vẫn đang bị người thuê nhà chiếm dụng mặc dù hợp đồng thuê đã hết hạn.
Căn cứ khoản 4 Điều 492 Bộ luật dân sự năm 1995(1) quy định quyền của bên cho thuê nhà ở như sau: “Được lấy lại nhà cho thuê khi hết hạn hợp đồng thuê; nếu hợp đồng thuê không quy định thời hạn thuê, thì bên cho thuê muốn lấy lại nhà phải báo cho bên thuê biết trước sáu tháng”. Khoản 5 Điều 493 Bộ luật dân sự năm 1995(2) quy định người đi thuê nhà phải trả nhà cho bên thuê theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp bên thuê nhà không tự nguyện trả nhà thì bên cho thuê nhà có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH 10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991.
Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH 10 ngày 20/8/1998 quy định: “Trong trường hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng đã hết trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà các bên không thỏa thuận được về việc tiếp tục thuê, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở theo quy định sau đây:
a. Trong trường hợp bên thuê đã có chỗ ở khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng;
b. Trong trường hợp bên thuê có điều kiện tạo lập chỗ ở khác hoặc bên cho thuê đã tự nguyện tạo điều kiện cho bên thuê có chỗ ở khác, thì bên cho thuê được lấy lại nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là sáu tháng;
c. Trong trường hợp bên cho thuê không có chỗ ở và không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, thì tuỳ từng trường hợp mà bên cho thuê được lấy lại một phần hoặc toàn bộ nhà ở, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên cho thuê biết trước ít nhất là ba tháng;
d. Trong trường hợp bên cho thuê tuy có nhà ở nhưng có khó khăn về đời sống hoặc có diện tích ở dưới mức bình quân 6m2/người và bên thuê không có chỗ ở khác hoặc không có điều kiện tạo lập chỗ ở khác, thì tuỳ từng trường hợp mà bên cho thuê được lấy lại một phần nhà cho thuê, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là sáu tháng;
đ. Trong trường hợp bên cho thuê chưa được lấy lại nhà ở theo quy định tại các điểm  a, b, c, và d khoản 2 Điều này thì được lấy lại nhà ở kể từ ngày 01/7/2005, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước ít nhất là ba tháng”.
Căn cứ Điều 639 Bộ luật dân sự năm1995(3) quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Vì bố mẹ ông đã mất nên quyền đòi nhà cho thuê khi hợp đồng thuê nhà hết thời hạn thuộc về những người thừa kế. 
Vì bố mẹ ông qua đời không để lại di chúc nên quyền đòi nhà thuộc về những người thuộc hàng thừa kế theo quy định của Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(4). Căn cứ dữ kiện ông nêu thì các anh em của ông được xác định là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này và có quyền khởi kiện tại Toà án yêu cầu người thuê phải trả lại nhà mặc dù căn nhà vẫn đứng tên của bố mẹ.
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
-------------------------------------------------
(1) Khoản 4 điều 494 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Bên cho thuê nhà ở có các quyền sau đây:
4. Được lấy lại nhà cho thuê khi thời hạn thuê đã hết; nếu hợp đồng không quy định thời hạn thuê thì bên cho thuê muốn lấy lại nhà phải báo cho bên thuê biết trước 6 tháng".
(2) Khoản 5 điều 495 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 636 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
Mẹ không có quyền định đoạt một mình khối tài sản chung trong đó có di sản thừa kế của bố?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có năm người con và tài sản là ngôi nhà trên mảnh đất diện tích 504m2. Bố tôi mất năm 1967 không có di chúc, trên mảnh đất của bố mẹ có tôi và anh thứ hai ở cùng với mẹ. Năm 1984 tôi được hợp tác xã cấp cho một mảnh đất có diện tích 415m2 là đất giãn dân và mẹ tôi bảo tôi là đổi cho anh thứ hai để về ở mảnh đất của bố mẹ. Hiện nay tôi có xác nhận về việc đổi đất này được sự đồng ý của mẹ tôi, tôi, người anh thứ hai và 3 người con ở chỗ khác. Vừa qua tôi được biết diện tích này đã được cấp sổ đỏ cho ba người theo yêu cầu của mẹ tôi cụ thể: mẹ tôi 84m2, tôi 300m2, anh thứ hai 120m2. Việc mẹ tôi làm giấy chia diện tích đất này để được cấp sổ đỏ tôi hoàn toàn không biết. Tôi không đồng ý với việc chia này vì đất này tôi đã đổi cho người anh thứ hai để được sử dụng toàn bộ. Hỏi mẹ tôi có quyền định đoạt một mình diện tích đất này không? Tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?Liệu tôi có thể đòi lại mảnh đất mà hợp tác xã đã cấp cho tôi không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Ngôi nhà trên diện tích đất 504m2 là tài sản chung vợ chồng của bố mẹ ông theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 (là luật áp dụng đối với hôn nhân của bố mẹ ông): “vợ và chồng đều có quyền sở hữu... ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Do vậy một nửa khối tài sản này là của bố và một nửa là của mẹ.
Năm 1967 bố ông mất vì hiện nay trên diện tích đất này vẫn còn ngôi nhà của bố ông ngày xưa nên theo quy định tại tiểu mục 1.3 tiểu mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì một nửa căn nhà trên một nửa quyền sử dụng đất là di sản của bố ông để lại cho các đồng thừa kế. Tuy mẹ ông đứng tên trong bản đồ địa chính với tư cách là chủ sử dụng đất nhưng mẹ ông chỉ có quyền định đoạt một nửa khối tài sản thuộc phần của mẹ, còn một nửa là di sản của bố ông.
Tiểu mục 1.3 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: " trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có 1 trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn liền với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất đó có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế thì phân biệt các trường hợp sau:
- Trong trường hợp đương sự có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.
-Trong trường hợp đương sự không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để UBND cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Trong trường hợp UBND cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó thì toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì  mẹ ông và năm anh chị em của ông là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố ông. Những người này có quyền hưởng thừa kế phần di sản của bố để lại nhưng không có ai yêu cầu chia mà chỉ có mẹ ông, ông và anh thứ hai ở tại đây. Do đó họ là đồng sở hữu đối với tài sản chung là di sản của bố ông để lại.
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định những người thừa kế theo pháp luật theo thứ tự như sau: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.  
Năm 1984 ông được hợp tác xã cấp cho đất giãn dân (415m2) diện tích này là tài sản riêng của ông nên theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(2) ông có quyền định đoạt tài sản của mình.
Điều 201 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.
Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”. 
Sau khi được hợp tác xã cấp đất ông và người anh thứ hai có thoả thuận đổi đất theo ý kiến của mẹ ông. Cụ thể người anh thứ hai sử dụng diện tích đất 415m2 mà ông được hợp tác xã cấp và ông sử dụng toàn bộ diện tích đất 504m2 (mẹ ông ở cùng với ông). Vì diện tích mảnh đất 504m2 không phải là tài sản của riêng mẹ vì trong đó có 1 phần là di sản của bố ông nên mẹ không có quyền quyết định một mình. Tuy nhiên, việc đổi đất diễn ra vào năm 1980 đã được mẹ ông, ông và người anh thứ hai đồng ý và không có ý kiến phản đối của ba người con còn lại (đang ở chỗ khác) thì coi đó là sự thoả thuận của những người đồng thừa kế.
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì mẹ ông ở cùng với ông và đã xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích mảnh đất mà ông đang sử dụng mà ông không biết. Mẹ ông đã đề nghị Uỷ ban Nhân dân cấp có thẩm quyền tách thửa thành 3 phần, trong đó ông chỉ được hưởng 300m2. Nếu ông không đồng ý với cách chia của mẹ thì có thể thực hiện như sau:
- Trường hợp 1: Nếu ông có chứng cứ về việc các đồng thừa kế đồng ý việc đổi đất giữa ông và anh thứ hai vào năm 1980 (trong đó có mẹ ông) thì tài liệu này là biên bản về sự thoả thuận của những đồng thừa kế đối với một nửa khối tài sản (phần di sản của bố ông) và cũng thể hiện sự định đoạt của mẹ ông đối với một nửa khối tài sản (phần của mẹ trong khối tài sản chung). Do đó việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất này cho mẹ ông là không có căn cứ (vì đã được đồng sở hữu thống nhất cho ông được hưởng).
- Trường hợp 2: Nếu  ông không có chứng cứ về sự thoả thuận của các đồng sở hữu về việc đổi đất (và mẹ ông cũng không thừa nhận về việc đổi đất là theo ý kiến của mẹ ) thì mẹ ông chỉ có quyền định đoạt một nửa diện tích đất này. Do đó việc cấp giấy chứng nhận cho mẹ ông đối với toàn bộ diện tích đất 504m2 cũng là không đúng.
Trong cả hai trường hợp ông đều có quyền yêu cầu Toà án huỷ giấy chứng nhận đã cấp theo đề nghị của mẹ ông.
Trong trường hợp ông chấp nhận quyết định của mẹ ông cụ thể: để mẹ ông xin cấp giấy chứng nhận đối với diện tích này đứng tên 3 người: mẹ ông (84m2), ông (300m2), người anh thứ hai (120m2) thì ông vẫn có quyền khởi kiện đòi lại diện tích đã đổi cho người anh thứ hai nếu ông có giấy tờ về việc hợp tác xã cấp đất cho ông và việc đổi đất giữa ông và người anh thứ hai vào năm 1984 không làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng với Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền. Trong trường hợp toà án tuyên giao dịch đổi đất là vô hiệu thì người anh thứ hai phải trả cho ông diện tích đất này nhưng ông phải bồi thường tài sản mà người anh đã tạo dựng được trên đất trong quá trình sử dụng.
-------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
Con rể có quyền về thừa kế di sản của bố mẹ vợ không?
Câu hỏi:

Cha mẹ của bạn tôi chết đi có để lại một căn nhà (không có di chúc). Gia đình bạn tôi có ba chị em, một người đã chết (chết sau cha mẹ của họ) chỉ còn bạn tôi và người em trai. Người em gái đã mất này có ba con, hiện người chồng đã đi lấy vợ khác. Bạn tôi được người em trai đồng ý cho đứng tên sở hữu ngôi nhà mà cha mẹ họ để lại. Nhưng hiện nay bạn tôi đang gặp khó khăn vì không làm được thủ tục chuyển quyền sở hữu ngôi nhà vì nơi nhận hồ sơ yêu cầu phải có sự đồng ý của người em rể (chồng của người em gái đã mất), song người này nhất định không chịu đồng ý nếu bạn tôi không trả cho anh ta khoản tiền mà anh ta yêu cầu. Hỏi: Người em rể có quyền đối với di sản thừa kế của bố mẹ bạn tôi không? Các con của người em gái đã mất có được hưởng quyền lợi gì trong ngôi nhà này không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn nhà là tài sản chung vợ chồng của bố mẹ của bạn chị. Vì những người để lại di sản khi mất không có di chúc nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự(1) thì căn nhà trở thành di sản thừa kế của những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ.
Điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự quy định: “1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây: a. Không có di chúc...”.
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật này(2) quy định những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết gồm: “Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Ngoài ra còn có những hàng thừa kế khác nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều này(3) thì “những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai của hàng thừa kế trước”. Do đó người con rể và ba người con của bạn chị không thuộc hàng thừa kế của bố mẹ bạn chị.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 638 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế...” và khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(5) quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết”.
Như vậy vào thời điểm bố mẹ mất thì ba anh chị em của bạn chị là những người thừa kế của bố mẹ họ kể cả người em gái vì lúc bố mẹ mất thì người này vẫn còn sống.
Căn cứ Điều 684 Bộ luật dân sự(6) quy định về họp mặt những người thừa kế như sau:
“1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này...
b. Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”.
Nhưng vào thời điểm đó không có ai yêu cầu chia thừa kế đối với ngôi nhà và cũng không có sự họp mặt để thoả thuận của những đồng thừa kế về phân chia kỷ phần thừa kế của từng người. Do vậy, đến thời điểm người em gái mất, thì căn nhà của bố mẹ vẫn là di sản thừa kế chưa chia. Vì chị không nói rõ thời điểm bố mẹ bạn chị mất nên căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(7) quy định về thời hiệu thừa kế thì: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Như vậy, nếu trong thời hiệu khởi kiện thì các đồng thừa kế có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc chia di sản thừa kế, còn nếu hết thời hạn thì các đồng thừa kế khác không có quyền yêu cầu chia.
Giả sử giữa các đồng thừa kế có sự thừa nhận căn nhà là di sản thừa kế cũng như không có tranh chấp về hàng thừa kế thì căn nhà này trở thành tài sản chung của ba chị em của bạn chị theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
Điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
Căn cứ khoản 1 Điều 637 Bộ luật dân sự(8) quy định di sản thừa kế bao gồm: “tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Do đó, vì người em gái có kỷ phần trong khối tài sản chung là căn nhà nên phần đó sẽ trở thành di sản thừa kế của chồng và ba người con của người đó theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 và khoản 3 Điều 683 Bộ luật dân sự(9).
Khoản 3 Điều 683 Bộ luật dân sự quy định: “Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết, thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản”.
Có nghĩa là người em rể vẫn có quyền lợi đối với căn nhà mặc dù người này đã kết hôn. Như vậy, trong trường hợp này thì người em rể là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người em gái đã chết. Ngoài ra còn là đại diện theo pháp luật của ba người con nếu chưa thành niên theo quy định tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật dân sự(10).
Trong trường hợp việc đứng tên sở hữu ngôi nhà gặp khó khăn do có sự tranh chấp của người em rể thì người bạn chị có thể khởi kiện tại Toà án nhân dân để đề nghị giải quyết. Toà án sẽ căn cứ vào từng tình huống cụ thể để ra phán quyết. Quyết định của Toà án sẽ là cơ sở để bạn của chị thực hiện các thủ tục tiếp theo.
------------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 3 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
(6) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
(7) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(8) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
(9) Khoản 3 điều 680 Bộ luật dân sự năm 2005.
(10) Khoản 1 điều 141 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thừa kế thế vị ?
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi khi mất có để lại hơn 1000m2 đất thổ cư (tuy ông mất năm 1998, bà mất năm 2003 nhưng vẫn có tên ông trong sổ địa chính), hiện nay chú ruột tôi đang ở tại mảnh đất này và có hộ khẩu tại đó. Bố tôi là con cả đã mất trước ông bà chỉ còn mẹ tôi và không có hộ khẩu tại đây. Nay chú tôi bán đất để dùng cho việc riêng của chú. Hỏi: Tôi là cháu có được thừa hưởng một phần số đất nói trên không? Nếu muốn được hưởng thì phải làm những thủ tục gì?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì ông bà vẫn đứng tên trong sổ địa chính đối với diện tích 1000m2 nên được coi là trường hợp có 1 trong các loại giấy tờ theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003. Căn cứ tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02 ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: " Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 điều 50 Luật đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 1/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế". Do đó quyền sử dụng diện tích 100m2 mà chú của anh đang sử dụng được xác định là di sản của ông bà.
 Vì ông bà nội của anh mất không để di chúc nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự(1) nên thuộc trường hợp thừa kế theo pháp luật.
Điều 678 Bộ luật dân sự quy định: “Những trường hợp thừa kế theo pháp luật.
1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
a. Không có di chúc”. 
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 679 Bộ luật dân sự năm năm 1995(2)  quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”.
Như vậy, bố anh và chú đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bà, đều được hưởng phần di sản bằng nhau. Nhưng vì bố anh đã mất trước thời điểm ông bà mất nên  anh được xác định là thừa kế thế vị theo quy định tại Điều 680 Bộ luật dân sự(3) về thừa kế thế vị như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống”.
Do đó, anh và các chị em ruột của anh (nếu có) sẽ được hưởng kỷ phần thừa kế mà bố anh được chia từ di sản ông bà để lại. Anh có thể đề nghị chú anh chia di sản là quyền sử dụng đất. Căn cứ khoản 5 điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự quy định những việc dân sự thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân là: " Tranh chấp về tài sản thừa kế", do đó nếu chú không đồng ý thì anh có thể khởi kiện tại Toà án nhân dân yêu cầu chia thừa kế.
-------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
Xác định hàng thừa kế theo pháp luật?
Câu hỏi:

Hiện nay tôi đang sử dụng cái ao có diện tích 848m2 nguồn gốc do bố chồng tôi cho vợ chồng tôi sử dụng và đã được Quản thủ sổ sách địa chính của Chính phủ Đông Pháp Bắc Kỳ bảo hộ cấp giấy Chứng thực đăng bộ năm 1942 đứng tên tôi. Năm 1986 khi xã lập bản đồ địa chính thì do chồng tôi đứng tên. Năm 1994 khi chồng tôi mất thì tôi đứng tên trong bản đồ địa chính. Từ khi chồng tôi còn sống có một người em con nhà ông chú của chồng tôi (là ông C) chiếm 1/3 ao để sử dụng dựa vào một tờ giấy chia ao do chồng tôi viết vào năm 1991 và một tờ giấy chia ao không hiểu sao lại có chữ ký của tôi vào năm 2001. Căn cứ vào các tờ giấy này hiện nay ông C đã tiến hành đổ đất san lấp ao. Chúng tôi có sáu người con trong đó có một người con hy sinh trước khi chồng tôi mất và có một con trai. Hỏi: ông C có thuộc hàng thừa kế của chồng tôi không? Nay tôi muốn đòi lại diện tích ao này thì phải làm thế nào?

Trả lời:
- Về giấy chia đất năm 1991 do chồng bà ký:
Căn cứ dữ kiện bà nêu chúng tôi xác định rằng phần đất ao đang tranh chấp vốn do các cụ để lại cho vợ chồng của bà sử dụng. Tuy theo giấy tờ của chế độ cũ từ năm 1942 là đứng tên bà nhưng là tài sản chung của vợ chồng bà theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Do đó giấy chia đất cho ông C mà có chữ ký của chồng bà vào năm 1991 là không hợp pháp vì không có sự đồng ý của bà.
- Về giấy chia đất năm 2001 có chữ ký của bà:
Khi chồng bà mất (năm 1991) thì bà vẫn tiếp tục quản lý và sử dụng cái ao này. Vì là tài sản chung vợ chồng nên một nửa cái ao là của bà, còn một nửa là di sản thừa kế chưa chia của chồng bà. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì bà cùng sáu người con là những người thừa kế cùng hàng và có quyền định đoạt đối với phần ao thuộc di sản thừa kế của chồng bà. Vì cái ao này chưa chia theo thoả thuận của bà và các con theo quy định tại Điều 684 Bộ luật dân sự(2) do đó giấy chia đất ao cho ông C vào năm 2001 có chữ của bà cũng không có giá trị vì bà không có quyền định đoạt một mình đối với tài sản thuộc sở hữu chung.
Trước khi mất chồng bà là người đứng tên trong sổ địa chính sau đó là bà đứng tên trong sổ địa chính do đó quyền sử dụng cái ao là di sản thừa kế theo quy định tại tiểu mục 1.2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003, thì kể từ 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Nay ông C dựa trên hai giấy này để tiến hành đổ đất chiếm 1/3 ao. Do vậy căn cứ điểm b tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP bà và các con có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân để đòi lại di sản của chồng bà để lại mà ông C đang chiếm hữu bất hợp pháp, cụ thể: “Trường hợp ng|ời chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".
--------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
Chia thừa kế theo pháp luật như thế nào?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có năm người con: ba gái một trai là con đẻ và một chị gái là con nuôi. Bố mẹ tôi có khối tài sản là căn nhà cấp bốn hai gian trên diện tích đất 334m2. Bố tôi chết năm 1972 không để lại di chúc. Mẹ tôi cùng anh trai tôi tiếp tục quản lý khối tài sản này. Năm 1983 anh trai bán 100m2 đất. Năm 1993 khi có chủ trương cấp sổ đỏ, anh trai tự kê khai và được cấp sổ đỏ đối với diện tích nhà đất trên. Lúc này tuy mẹ tôi đang ở với người con trai nhưng lúc đó đã bị điếc và không biết chữ đến năm 1995 mẹ tôi mất không để lại di chúc. Chúng tôi biết khi mẹ tôi còn sống không hề làm giấy cho anh trai tài sản nhà đất này. Năm 2001 anh trai lại cắt 85m2 đất để xây nhà cho con trai của mình. Anh tôi có hai đời vợ, vợ cả đã ly dị. Nay anh ở với vợ hai và định để lại tài sản cho con gái của vợ hai (và tự ý cho con của vợ cả 85m2). Hỏi: việc chỉ có người con trai được cấp sổ đỏ đối với khối tài sản của bố mẹ có đúng không? Chúng tôi có được hưởng thừa kế tài sản mà bố mẹ tôi để lại không? Nay người em gái út chưa có nhà có thể được chia một phần không? Chúng tôi phải làm gì để được hưởng quyền lợi theo quy định của pháp luật?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện bà nêu chúng tôi xác định khối tài sản gồm căn nhà cấp bốn trên diện tích đất 334m2 là tài sản chung của bố mẹ bà. Năm 1972 khi bố bà mất thì một nửa khối tài sản là của mẹ bà còn một nửa là di sản thừa kế chưa chia của bố bà. Cả 5 chị em bà và mẹ bà đều được hưởng thừa kế đối với phần di sản của bố. Nhưng vào thời điểm đó không có ai yêu cầu chia thừa kế nên mẹ bà sẽ là người quản lý sử dụng phần di sản này theo quy định tại Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986: “Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau”.
Năm 1983 người anh trai ở cùng với mẹ bà đã tự ý bán 100m2 đất nhưng mẹ bà lúc đó đang còn sống không có ý kiến gì nên khối tài sản chỉ còn căn nhà trên 234m2.
Năm 1993 người anh trai làm thủ tục xin cấp sổ đỏ đứng tên mình trong khi mẹ bà còn sống và không có giấy tờ cho tặng như vậy là không đúng quy định của pháp luật vì anh trai không có các giấy tờ làm căn cứ pháp lý để chứng tỏ là người sử dụng đất hợp pháp theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
          Căn cứ dữ kiện bà nêu thì lúc đó mẹ bà bị điếc và không biết chữ. Do đó, tất cả các chị em bà sẽ là người đại diện hợp pháp cho mẹ để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, khi người anh cả đứng ra kê khai để cấp sổ đỏ đứng tên mình mà không hỏi ý kiến của những người con khác là không đúng, mà người anh cả chỉ được quyền đứng ra kê khai hộ mẹ còn người đứng tên trong sổ đỏ phải là mẹ bà.
          Năm 1995 mẹ bà chết không để lại di chúc nên căn nhà trên diện tích 234m2 được xác định là di sản thừa kế chưa chia của mẹ bà. Tất cả năm chị em bà đều có quyền yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo quy định của pháp luật vì theo quy định tại khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất theo thứ tự sau đây: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, của người chết”.
Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(2) quy định thời hiệu khởi kiện về thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế (tức là thời điểm người để lại di sản mất). Như vậy, tính từ thời điểm mẹ bà mất năm 1995 (thời điểm mở thừa kế) thì đến 2005 sẽ hết thời hiệu. Trong khoảng thời gian này chị em bà có quyền yêu cầu Tòa án chia thừa kế khối tài sản trên. Theo quy định tại khoản 2 Điều 679 Bộ luật dân sự(3) thì những người cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng ngang bằng nhau. Tức là mỗi người được 1/5 giá trị tài sản. Căn cứ dữ kiện bà nêu thì anh trai đã cắt cho con 85m2 xây nhà. Do đó, nếu phần được chia nhỏ hơn 85m2 thì người anh trai sẽ được hưởng thêm phần chênh lệch. Còn nếu lớn hơn thì phần diện tích này cũng bị đem chia vì anh trai không có quyền tự ý lấy đất thừa kế để cho con trai mình.
Hoặc các đồng thừa kế có thể cùng nhau lập biên bản xác nhận là đồng thừa kế và xác định di sản mà cha mẹ để lại là di sản thừa kế chưa chia theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình: “Trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm  mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
Như vậy, kể từ thời điểm các anh em cùng nhau lập biên bản thoả thuận thì tài sản đó trở thành tài sản chung của các anh em. Nếu trong số các anh em bà có yêu cầu Toà án giải quyết thì Toà án thụ lý giải quyết và áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung. Do đó, nếu hiện nay người anh cả không đồng ý cho người em út một phần diện tích thì người này có thể yêu cầu Toà án chia thừa kế (vì vẫn còn thời hiệu khởi kiện) hoặc chia tài sản chung (nếu giữa các anh chị em có những thoả thuận theo viện dẫn nêu trên).
-------------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại".
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Con dâu có được thừa kế của bố mẹ chồng không?
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi có ba người con (hai trai, một gái) và có một số diện tích đất thổ cư (đã được cấp sổ đỏ đứng tên bà nội tôi). Vì bố tôi là con út nên khi ông nội tôi mất bà nội tôi ở với bố tôi. Đến tháng 3/1994 thì bà nội mất. Sau đó bố tôi cũng qua đời. Hỏi: mẹ tôi có được thừa kế đối với diện tích đất này không? Việc chuyển quyền sử dụng đất từ bà nội tôi sang mẹ tôi phải làm thủ tục như thế nào? Bác và cô tôi có quyền lợi gì đối với diện tích đó không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì diện tích đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà nội của ông nên là tài sản của bà nội và bà có quyền định đoạt theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(1). Căn cứ Điều 253 Bộ luật dân sự(2) về xác lập quyền sở hữu do được thừa kế như sau: “Người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản thừa kế theo quy định tại phần thứ tư của Bộ luật này”. Vì mẹ ông là con dâu không phải là người thừa kế theo quy định của pháp luật do đó nếu bà nội ông mất có để lại di chúc cho mẹ ông hưởng tài sản thì mẹ ông có quyền sở hữu diện tích đất này theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự(3): “Cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì giấy tờ về thừa kế là một trong các giấy tờ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất...”.
Do đó, di chúc của bà nội là căn cứ để chuyển quyền sử dụng đất từ bà nội sang mẹ của ông. Vì quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu nên hiện nay mẹ ông muốn sang tên từ bà của ông sang tên mình thì phải làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nếu bà nội mất không để lại di chúc thì việc thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(4) thì những người con của bà nội ông (gồm cả bác và cô ông) thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản bằng nhau. Tuy nhiên việc yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật phải căn cứ vào thời hiệu.
Tại Điều 648 Bộ luật dân sự(5) thì thời hiệu yêu cầu chia thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế (thời điểm bà nội ông mất). Theo dữ kiện ông nêu thì bà nội mất tháng 3/1994 nên đến tháng 3/2004 sẽ hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế.
Hiện nay, diện tích đất này vẫn do gia đình ông quản lý sử dụng nay muốn chuyển quyền sử dụng đất cho mẹ ông thì phải có sự thoả thuận giữa mẹ ông, người bác và người cô còn sống theo quy định tại Điều 684 Bộ luật dân sự(6) quy định về họp mặt những người thừa kế bao gồm: người bác, người cô của ông, mẹ ông và ông (vì trong trường hợp này mẹ ông và ông có quyền hưởng kỷ phần thừa kế của bố ông).
Điều 684 Bộ luật dân sự quy định:
“1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”. 
Nếu người bác và cô của ông đồng ý cho mẹ ông hưởng toàn bộ di sản thì mẹ ông sẽ được đứng tên quyền sở hữu nhà đất này. Còn nếu bác và cô của ông yêu cầu chia theo pháp luật thì mẹ của ông chỉ được đứng tên phần được chia tương ứng với kỷ phần của bố ông. Trong cả hai trường hợp thì những người đồng thừa kế phải lập biên bản về việc thoả thuận này và biên bản này được coi là giấy tờ hợp pháp về thừa kế để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong trường hợp không tự thoả thuận được thì những người đồng thừa kế (hoặc mẹ ông) có quyền yêu cầu Toà án chia theo pháp luật theo như phân tích nêu trên.
----------------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Điều 245 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(6) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
Điều kiện để con riêng của vợ được hưởng thừa kế của bố dượng?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi lấy nhau năm 1959. Khi lấy bố tôi mẹ tôi có một con trai riêng. Sau khi bố mẹ tôi lấy nhau anh này vẫn ở cùng với bố mẹ tôi tại nhà đất của bố mẹ. Đến năm 1998 bố tôi mất không để lại di chúc. Hỏi anh con riêng của mẹ tôi có được chia thừa kế phần tài sản do bố tôi để lại không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Do đó, nhà đất của bố mẹ ông là tài sản chung vợ chồng và một nửa khối tài sản chung là của bố ông, còn một nửa là của mẹ ông.
Năm 1998 bố ông mất, căn cứ Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “vợ và chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau” nên mẹ ông được hưởng thừa kế đối với một nửa tài sản của bố ông là di sản thừa kế. Vì bố ông không để lại di chúc nên phần tài sản của bố ông được chia theo pháp luật. Căn cứ khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định về hàng thừa kế theo pháp luật thì chỉ có mẹ ông và ông là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố ông còn anh con riêng của mẹ ông không thuộc hàng thừa kế nào của bố ông.
Khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định:
“Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết  mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột”.
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì bố mẹ ông ở với anh con riêng của mẹ ông, do đó anh này vẫn có thể được hưởng thừa kế của bố ông nếu có điều kiện theo quy định tại Điều 682 Bộ luật dân sự(2) về quan hệ giữa con riêng với bố dượng cụ thể: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con, thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 679 và Điều 680 của Bộ luật này(3)”. Do đó, việc xác định xem anh con riêng này có được hưởng thừa kế của bố ông cần phải căn cứ vào mối quan hệ và chăm sóc nuôi dưỡng của anh này đối với bố ông. Theo quy định tại khoản 2 Điều 679 Bộ luật dân sự thì những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
----------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 679 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại điều 676 và điều 677 của Bộ luật này".
(3) Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản";
Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
Người lập di chúc chỉ được định đoạt phần tài sản thuộc sở hữu của mình?
Câu hỏi:

Tôi lấy người vợ trước sinh được 2 người con. Năm 1975 tôi ly dị và ra đi người không vì tài sản chẳng có gì, nhà thì thuê của Nhà nước. Năm 1976 tôi mua được 100m2 đất trên có 1 gian nhà lá và hoa màu. Năm 1980 tôi lấy vợ lần thứ 2 và có thêm một người con. Năm nay tôi 75 tuổi, tôi muốn lập di chúc chia thừa kế cho người vợ hai và 3 người con của tôi. Hỏi: Tôi lập di chúc như vậy có đúng với quy định của pháp luật không? Nếu vợ và con (lấy lần sau) phản đối thì tôi phải làm thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì thời điểm ông mua mảnh đất 100m2 trên có 1 gian nhà lá cùng hoa màu và thời điểm ông lấy người vợ thứ 2 vào năm 1980 là trong thời gian Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực. Nên căn cứ điều 15 của luật quy định: "Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới" do đó tài sản này là tài sản chung vợ chồng của ông với người vợ thứ hai (Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và 2000 chỉ xác định tài sản được tạo dựng trước hôn nhân là tài sản chung vợ chồng nếu có sự thoả thuận về việc nhập tài sản này vào khối tài sản chung của vợ chồng).
Căn cứ điều 634 Bộ luật dân sự năm 1995(1) quy định: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật...". Vì khối tài sản này là tài sản chung vợ chồng nên ông chỉ có quyền định đoạt một nửa khối tài sản này bằng việc lập di chúc chia thừa kế cho 2 con của vợ trước, người vợ sau và con chung của ông với người này. Còn người vợ thứ hai có quyền định đoạt đối với một nửa phần của mình. Căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự(2) quy định: "Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết", như vậy việc ông lập di chúc để lại tài sản cho những người này là đúng pháp luật. Tuy nhiên theo quy định tại điều 651 Bộ luật dân sự(3) thì ông cũng có quyền: "Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế" (khoản 1), "Phân định di sản cho từng người thừa kế" (khoản 2).
Do đó nếu ông tự định đoạt một mình khối tài sản này thì người vợ thứ hai hoàn toàn có quyền phản đối. Theo quy định tại điều 233 Bộ luật dân sự(4) thì: "Sở hữu chung vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất" (khoản 1) và "Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận, hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung" (khoản 3) nên ông và người vợ thứ hai có thể cùng lập di chúc chung để định đoạt khối tài sản chung này.
(Đã đăng trên Báo Kinh tế & Đô thị số 68, ra thứ tư ngày 22/6/2005).
------------------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người lập di chúc có các quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành 1 phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản".
(4) Điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005
Điều kiện thay đổi người quản lý di sản thờ cúng theo di chúc?
Câu hỏi:

Vợ chồng tôi cùng mua một ngôi nhà do tôi đứng tên chủ sở hữu. Chúng tôi có năm con (bốn gái và một trai), hiện nay chỉ có con trai ở cùng chúng tôi tại ngôi nhà này. Vợ chồng tôi muốn lập di chúc cho con trai tôi với điều kiện con trai tôi phụng dưỡng vợ chồng tôi và chăm lo việc thờ cúng tổ tiên có được không? Hỏi: nếu các con gái của chúng tôi không đồng ý thì di chúc có hợp pháp không? Nếu sau này con trai tôi không thực hiện đúng di chúc mà bán ngôi nhà đi thì có hậu quả pháp lý gì không? Nếu con trai tôi chết đi thì ai sẽ tiếp tục quản lý ngôi nhà để trông nom việc thờ cúng?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì ngôi nhà do bà đứng tên là tài sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà nên ông bà có quyền định đoạt theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(1): “Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế... đối với tài sản”.
Điều 649 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Di chúc hợp pháp phải đáp ứng các yêu cầu do pháp luật quy định. Cụ thể, khoản 1 Điều 655 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật”.
Căn cứ các quy định pháp luật kể trên, ông bà hoàn toàn có quyền lập di chúc để lại ngôi nhà cho con trai mà không cần có sự đồng ý của những người con gái khác.
Người lập di chúc có các quyền theo khoản 1, 4 Điều 651 Bộ luật dân sự(4):
“1. Chỉ định người thừa kế;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản”.
Trong di chúc ông bà có thể giao nghĩa vụ cho con trai là chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà và chăm lo việc thờ cúng tổ tiên. Người con trai phải thực hiện những nghĩa vụ mà ông bà đã giao trong phạm vi tài sản được thừa kế.
Căn cứ khoản 1 Điều 673 Bộ luật dân sự(5) quy định di sản dùng vào việc thờ cúng như sau: “Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng...
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết, thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.
Như vậy, nếu trong di chúc quy định con trai bà chỉ được sử dụng ngôi nhà để làm nơi thờ cúng bố mẹ thì anh ta sẽ không có quyền sử dụng vào mục đích khác hoặc bán đi. Trong trường hợp người con này làm trái di chúc của bố mẹ thì những người đồng thừa kế (cụ thể là ba chị em gái) có quyền cử một người quản lý di sản thờ cúng đó.
Trong trường hợp người con trai chết thì ngôi nhà thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
Căn cứ khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(6) thì những người thừa kế thuộc cả ba hàng thừa kế của ông bà sẽ có quyền quản lý ngôi nhà để dùng vào việc thờ cúng.
Khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định:
“Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột”.
---------------------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức của di chúc không trái với quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất 2 người làm chứng và ngay sau đó người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng, chứng thực".
(4) Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người lập di chúc có các quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành 1 phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản".
(5) Điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005.
(6) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”.
Hiệu lực của di chúc chung vợ chồng khi có một người chết trước?
Câu hỏi:

Cha mẹ tôi có làm di chúc chung để lại căn nhà cho ông A. Di chúc do cha tôi viết tay nhưng không có chứng thực mà chỉ có một người quen làm chứng ký tên xác nhận là đã chứng kiến hai ông bà đã cùng ký tên vào bản di chúc. Nay mẹ tôi đã mất nhưng ông A muốn sở hữu luôn tài sản trong khi cha tôi muốn để lại tài sản cho tôi. Hỏi di chúc chỉ có một mình cha tôi viết, còn mẹ tôi chỉ ký tên thì di chúc có hợp lệ không? Nay ông A có được quyền hưởng di sản thừa kế theo di chúc không khi cha tôi đã thay đổi ý định?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(1) thì chủ sở hữu có quyền định đoạt bằng cách để thừa kế tài sản của mình cho người khác.
Điều 201 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.
Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”.
Cụ thể, Điều 634 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Căn cứ Điều 666 Bộ luật dân sự(3) thì “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Vì vậy, cha mẹ bà hoàn toàn có quyền cùng lập di chúc để lại thừa kế cho ông A.
Khoản 1, 4 Điều 655 Bộ luật dân sự(4) quy định về di chúc hợp pháp như sau:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
4. Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này(5) chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này”.
Như vậy, bản di chúc của cha mẹ bà không nhất thiết phải có người làm chứng, tuy nhiên, nếu có người làm chứng thì người làm chứng phải đáp ứng được các điều kiện luật định. Cụ thể, Điều 657 Bộ luật dân sự(6) quy định người làm chứng cho việc lập di chúc: “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(7) quy định về thời điểm mở thừa kế: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết”.
Căn cứ dữ kiện mà bà cung cấp thì chỉ có người mẹ chết nên chỉ có phần di chúc liên quan đến tài sản của người mẹ có hiệu lực. Tuy nhiên vì cha mẹ bà đã lập di chúc chung để lại di sản cho ông A, do đó trong trường hợp này còn phải tuân theo quy định tại Điều 671 Bộ luật dân sự(8). Điều luật này quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng, cụ thể như sau:  
“Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”.
Căn cứ Điều luật trên, đối chiếu với trường hợp của bà thì có hai trường hợp sau:
- Trường hợp 1: Nếu trong bản di chúc cha mẹ bà có thoả thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết thì khi mẹ bà mất, ông A chưa có quyền hưởng di sản thừa kế của mẹ bà (vì người cha chưa chết) tức là di chúc chưa phát sinh hiệu lực.
- Trường hợp 2: Nếu trong bản di chúc mà cha mẹ bà lập không có sự thoả thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc thì khi mẹ bà chết phần di chúc liên quan đến phần di sản của mẹ bà sẽ có hiệu lực pháp luật, theo đó ông A có quyền được hưởng phần di sản của mẹ bà. 
Căn cứ dữ kiện bà nêu vì bố bà thay đổi ý định nên căn Điều 667 Bộ luật dân sự(9) quy định:
“1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
2. Nếu một người đã chết, thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”.
Do đó trong mọi trường hợp ông A chỉ được hưởng phần di sản thừa kế của mẹ bà, còn phần tài sản thuộc quyền sở hữu của cha bà sẽ do cha bà định đoạt.
-----------------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Khoản 1, 4 điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Điều 657 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc".
(6) Điều 654 Bộ luật dân sự năm 2005.
(7) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
(8) Khoản 1 điều 668 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết".
(9) Điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005.
Di chúc chung của vợ chồng?
Câu hỏi:

Cha mẹ tôi có làm một bản di chúc cho anh tôi ngôi nhà mà cha mẹ đang ở. Bản di chúc do cha tôi viết tay, có chữ ký của cha mẹ tôi, nhưng không có chứng thực tại Uỷ ban nhân dân cũng như Công chứng nhà nước mà chỉ có một người quen làm chứng ký tên xác nhận chứng kiến bố mẹ tôi đã cùng ký tên vào di chúc. Hỏi: về hình thức và nội dung của di chúc như vậy có hợp lệ không? Nay mẹ tôi đã mất nhưng bố tôi vẫn còn sống thì anh tôi đã được quyền hưởng di sản thừa kế chưa?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 666 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Nếu ngôi nhà là tài sản chung của cha mẹ ông thì việc cha mẹ ông cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung là hoàn toàn hợp pháp.
Căn cứ khoản 1 Điều 655 Bộ luật dân sự(2) quy định về các điều kiện để đảm bảo tính hợp pháp của di chúc bao gồm:
“a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật”.
Nếu đảm bảo các điều kiện nêu trên thì di chúc của cha mẹ ông là hợp pháp.
Điều 652 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Di chúc phải được lập thành văn bản” do đó việc cha của ông viết di chúc sau đó cả cha và mẹ cùng ký là phù hợp với quy định của pháp luật về hình thức.
Điều 653 Bộ luật dân sự(4) quy định các loại di chúc bằng văn bản bao gồm: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (khoản 1), di chúc bằng văn bản có người làm chứng (khoản 2), di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (khoản 3), di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước (khoản 4).
Căn cứ dữ kiện ông nêu vì vào thời điểm lập di chúc cả cha và mẹ của ông đều minh mẫn do đó có thể tự mình lập di chúc mà không cần người làm chứng và di chúc này cũng không cần phải ra Uỷ ban nhân dân hoặc Công chứng nhà nước chứng thực vì theo quy định tại Điều 660 Bộ luật dân sự(5) việc công chứng, chứng thực đối với di chúc chỉ thực hiện khi có yêu cầu của người lập di chúc.
Điều 660 Bộ luật dân sự quy định: “Người lập di chúc có thể yêu cầu Công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng thực bản di chúc”. 
Việc cha mẹ ông tự lập di chúc và mời một người làm chứng không phải là quy định bắt buộc của pháp luật mà chỉ cần đảm bảo quy định tại khoản 1 Điều 655 Bộ luật dân sự thì di chúc được coi là hợp pháp.
Về hiệu lực pháp luật của di chúc chung đó, căn cứ Điều 671 Bộ luật dân sự(6) quy định: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”.
Như vậy, theo Điều luật trên cần phải xem trong di chúc chung của bố mẹ có thoả thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc. Giả sử trong di chúc không quy định về điều kiện này thì căn cứ Điều 671 Bộ luật dân sự khi mẹ của ông mất đi (và cha của ông vẫn còn sống) thì phần tài sản của mẹ trong khối tài sản chung của vợ chồng trở thành di sản thừa kế và người anh của ông chỉ có quyền được hưởng di sản của mẹ chứ không được hưởng toàn bộ ngôi nhà. Còn nếu trong di chúc xác định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người sau cùng mất thì chỉ khi nào bố ông mất thì anh trai của ông mới có quyền sở hữu toàn bộ ngôi nhà mà bố mẹ di chúc cho.
---------------------------------------------------
(1) Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2005 sửa đổi khoản 3, 4 như sau: "Di chúc bằng văn bản bao gồm:
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực".
(5) Điều 657 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc".
(6) Điều 668 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết".
Hiệu lực của di chúc khi người thừa kế theo di chúc chết trước người lập di chúc?
Câu hỏi:

Bà nội tôi có năm người con và có một diện tích đất là 985m2 tại xã Uy Nỗ, Đông Anh. Các cô chú của tôi đã xây dựng gia đình và có chỗ ở ổn định ở nơi khác chỉ có mình bà tôi sống ở đây. Do tuổi cao, sức yếu nên năm 1996 bà tôi đã lập di chúc cho bố tôi (là con trai út) toàn bộ khối tài sản này. Nhưng chẳng may năm 1997 bố tôi lại qua đời đột ngột còn bà nội tôi mất năm 1998. Hiện nay, các cô chú của tôi đã yêu cầu mẹ tôi phải chia thừa kế tài sản của bà. Vậy tôi xin hỏi: di chúc của bà đã lập cho bố tôi có giá trị pháp lý không? Các cô chú tôi yêu cầu chia thừa kế có được không? Nếu phải chia thì sẽ chia như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
 Căn cứ khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự(1) quy định về hiệu lực của di chúc như sau: “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế”. Khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết”.
Căn cứ dữ kiện nêu trên chúng tôi xác định thời điểm mở thừa kế là năm 1998 là thời điểm bà nội của ông mất. Vì bà nội có để lại di chúc nên tuy bà lập di chúc để lại tài sản cho bố vào năm 1996 (tức là lúc bố đang còn sống), nhưng lúc đó di chúc chưa có hiệu lực pháp luật, còn đến khi di chúc có hiệu lực pháp luật (vào năm 1998) thì bố ông đã chết (vào năm 1997). Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 638 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế...” thì bố ông không còn quyền thừa kế. Mặt khác theo quy định tại khoản 2 Điều 670 Bộ luật dân sự(4) thì: “Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần khi người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc”. Do đó, phần di chúc mà bà lập để định đoạt toàn bộ khối tài sản cho bố ông không phát sinh hiệu lực pháp luật.
Căn cứ điểm c khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 678 Bộ luật dân sự(5) thì trường hợp thừa kế theo pháp luật được áp dụng khi: “Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc...” và “Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ... chết trước người lập di chúc”.
Như vậy, trong trường hợp này việc chia thừa kế sẽ không theo di chúc của bà nội lập năm 1996 mà chia theo quy định của pháp luật về thừa kế và người thừa kế sẽ được xác định theo hàng thừa kế chứ không phải theo di chúc.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(6) quy định những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: “Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Như vậy, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà nội ông gồm: bố ông cùng các cô chú của ông. Nhưng vì bố của ông đã chết trước thời điểm bà nội chết nên theo quy định tại Điều 680 Bộ luật dân sự(7) thì ông và các anh chị em của ông (nếu có) được xác định là những người thừa kế thế vị và được hưởng kỷ phần mà bố ông được hưởng nếu còn sống.
Điều 680 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 679 Bộ luật dân sự(8) quy định: “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”. Do vậy, khối tài sản của bà nội để lại sẽ được chia thành năm phần bằng nhau và các anh chị em của ông sẽ được hưởng một phần năm (1/5).
-------------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp toà án tuyên bố 1 người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 điều 81 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản".
(3) Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Khoản 2 điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc 1 phần trong các trường hợp sau đây:
a. Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc;
b. Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc, 1 trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật”.
(5) Điểm c khoản 1, điểm c khoản 2 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
c. Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế”.
(6) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(7) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
(8) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Như thế nào là di chúc hợp pháp?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi sinh được hai người con trai, bố tôi mất từ lâu còn mẹ tôi hiện nay vẫn còn sống (94 tuổi). Anh trai tôi lấy vợ năm 1958 sinh được một con gái và năm 1963 anh tôi đi bộ đội rồi hy sinh năm 1965. Chị dâu tôi đi bước nữa để lại con gái cho mẹ tôi nuôi. Năm 1972 tôi lấy vợ, sinh được ba con và vợ chồng tôi cùng sống chung với mẹ tôi và cháu gái trên diện tích đất 320m2 của mẹ tôi. Mẹ tôi có hứa cho cháu gái (con của anh tôi) 80m2 trong diện tích đó nhưng chưa có giấy tờ. Năm 1992 cháu gái tôi (lúc đó đi lấy chồng ở nơi khác) tự lập một tờ di chúc để lại thừa kế 80m2 đất cho cháu rồi mời mẹ tôi đến chơi và bảo mẹ tôi điểm chỉ vào mà mẹ tôi không biết. Cháu tôi nhờ ông trưởng họ đến làm chứng tại nhà cháu mà vợ chồng tôi và các con tôi không hề được biết. Sau đó, cháu tôi tự mang tờ di chúc đó vào nhà ông Chủ tịch phường xin xác nhận nhưng ông không ký. Cháu lại đem đến nhà ông Phó Công an phường xin xác nhận và được ký vào tờ di chúc. Sự việc này cả mẹ tôi và người làm chứng đều không biết. Năm 1998 khi Nhà nước tiến hành cấp sổ đỏ diện tích 320m2 đất, mẹ tôi đã uỷ quyền cho tôi đứng tên trong sổ đỏ. Năm 2004 khi tôi muốn xây nhà trên 80m2 đó thì cháu tôi không cho và mang tờ di chúc ra bắt tôi phải trả lại 80m2. Hỏi: mẹ tôi có quyền để lại diện tích đất của mình cho tôi không? Tờ di chúc của cháu tôi có giá trị pháp luật không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Thứ nhất, về tính hợp pháp của bản di chúc lập năm 1992:
Căn cứ dữ kiện ông nêu có thể xác định di chúc này không phù hợp với quy định của pháp luật cụ thể:
Căn cứ Điều 655 Bộ luật dân sự(1) quy định:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái với quy định của pháp luật.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
4. Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này(2) chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này”.
Như vậy, di chúc năm 1992 chỉ được coi là hợp pháp nếu khi điểm chỉ vào mẹ của ông biết được nội dung của di chúc. Nhưng xét về mặt hình thức thì di chúc đó là không hợp pháp vì nếu mẹ ông không biết chữ thì người lập văn bản phải là người làm chứng chứ không phải là người được thừa kế lập và văn bản này phải được công chứng hoặc chứng thực.
Theo quy định tại Điều 653 Bộ luật dân sự(3) thì có các loại di chúc sau:
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
- Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước.
Căn cứ dữ kiện của ông nêu thì tờ di chúc nói trên không thuộc trường hợp nào theo quy định của Điều 653 Bộ luật dân sự. Mặt khác, vì tờ di chúc do cháu của ông tự lập chứ không phải mẹ ông tự viết mà mẹ ông chỉ điểm chỉ vào nên theo quy định tại Điều 659 Bộ luật dân sự(4) thì phải có hai người làm chứng đối với trường hợp người để lại di chúc không tự tay viết được mà phải nhờ người khác viết.
Điều 659 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc, thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 656 và Điều 657 của Bộ luật này(5)”.
Theo quy định của pháp luật thì không quy định công an là cơ quan có thẩm quyền chứng nhận di chúc. Và theo quy định Điều 661 Bộ luật dân sự(6) thì nếu mẹ ông muốn lập di chúc có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân hoặc công chứng thì phải đến trụ sở các cơ quan này để lập di chúc chứ không phải sau khi ký điểm chỉ vào di chúc thì mới đi lấy xác nhận.
Điều 661 Bộ luật dân sự quy định: “Việc lập di chúc tại Công chứng nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc.
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được, thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”. 
Do đó, căn cứ vào các quy định trên thì bản di chúc này không hợp pháp.
Thứ hai, về quyền định đoạt của mẹ ông đối với diện tích 320m2.
Vì mảnh đất trên là của tổ tiên để lại cho mẹ ông nên mẹ ông là người sở hữu hợp pháp. Điều 201 Bộ luật dân sự(8) về quyền định đoạt quy định: “Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác... Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”. Căn cứ Điều này, mẹ ông có quyền chuyển giao quyền sở hữu đối với mảnh đất trên cho ông bằng cách tặng cho hoặc để lại thừa kế thông qua di chúc và cũng có quyền huỷ di chúc vì theo quy định của pháp luật di chúc chỉ có hiệu lực sau khi người để lại di chúc mất. Ngoài ra tại khoản 1, 3 Điều 665 Bộ luật dân sự(9) còn quy định như sau:
“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào.
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng một di chúc mới, thì di chúc trước bị huỷ bỏ”.
Vì vậy, trong trường hợp này mẹ ông có thể tuyên bố không công nhận di chúc năm 1992 do đó di chúc này không có giá trị pháp lý.
-------------------------------------------------------
(1) Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức của di chúc không trái với quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất 2 người làm chứng và ngay sau đó người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng, chứng thực".
(2) Điều 657 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc".
(3) Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực".
(4) Điều 656 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Điều 653 Bộ luật dân sự năm 2005 sửa đổi điểm c khoản 1 như sau: "1. Di chúc phải ghi rõ:
c. Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản”..
(6) Điều 654 Bộ luật dân sự năm 2005.
(7) Điều 658 Bộ luật dân sự năm 2005.
(8) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(9) Khoản 1, 3 điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005.
Chia thừa kế theo di chúc?
Câu hỏi:

Cha mẹ tôi qua đời để lại cho năm anh chị em chúng tôi một căn nhà (không có di chúc). Ba anh chị tôi ở Việt Nam muốn bán căn nhà đó nhưng hai người đang định cư tại Mỹ thì không đồng ý. Vậy chúng tôi có thể bán nhà được không? Nếu được phép bán thì thủ tục phải làm như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo dữ kiện bà cung cấp chúng tôi xác định căn nhà trên được cha mẹ bà để lại cho năm anh chị em bà, tuy nhiên không có di chúc xác định rõ phần di sản mỗi người con được hưởng. Như vậy, căn nhà đó thuộc tài sản chung của năm anh em. Việc định đoạt căn nhà đó phải dựa vào Điều 237 Bộ luật dân sự(1). Điều 237 Bộ luật dân sự quy định như sau:
“1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình, thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua, thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác.
4. Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế, thì phần quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước”.
Theo Điều luật trên thì anh chị em của bà có thể thoả thuận về việc bán căn nhà trên. Nhưng theo dữ kiện bà cung cấp thì hai người đồng sở hữu ở Mỹ không đồng ý bán do đó các chủ sở hữu có thể thoả thuận chia phần quyền sở hữu của các chủ sở hữu theo Điều 238 Bộ luật dân sự(2):
“1. Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia, thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn, thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật, thì được trị giá thành tiền để chia.
2. Khi có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán, thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Trong trường hợp không thể tự thoả thuận được về việc chia nhà thì ba người đồng sở hữu có thể làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân chia thừa kế đối với di sản của bố mẹ (nhà). Đối với hai người thừa kế đang cư trú ở nước ngoài thì sẽ được hưởng giá trị nhà bằng tiền theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 121 Luật đất đai năm 2003, cụ thể: “trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này hoặc cá nhân nước ngoài thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó”.
Khoản 1 Điều 121 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây thì được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam:
a. Người về đầu tư lâu dài có nhu cầu nhà ở trong thời gian đầu tư tại Việt Nam;
b. Người có công đóng góp với đất nước;
c. Những nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước;
d. Người có nhu cầu vể sống ổn định tại Việt Nam;
đ. Các đối tượng khác theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
Như vậy, sau khi thanh toán tiền cho hai người này ba người còn lại sẽ có quyền bán căn nhà một cách hợp pháp.
-------------------------------------------------
(1) Điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005 sửa đổi khoản 4như sau: “Trong trường hợp 1 trong các chủ sở hữu cung từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại”.
(2) Điều 224 Bộ luật dân sự năm 2005 sửa đổi khoản 2 như sau: “Trong trường hợp có người yêu cầu 1 trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
 Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.
Di chúc có điều kiện?
Câu hỏi:

Cha tôi muốn di chúc cho tôi được hưởng căn nhà sở hữu của cha tôi, nhưng ông lại muốn có điều kiện là tôi phải nhường quyền sở hữu căn nhà tôi đang ở cho em trai tôi. Hỏi: cha tôi lập di chúc như vậy có hợp pháp không? Tôi phải làm gì để chuyển nhượng căn nhà tôi đang ở cho em tôi?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 649 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Như vậy, nếu căn nhà thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bố bà thì ông có quyền di chúc để lại cho bà.
Tuy nhiên, căn cứ Điều 651 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Người lập di chúc có các quyền sau đây:
- Quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản”.
Đối chiếu vào trong trường hợp này thì người cha có ý định chia di sản (căn nhà) cho người em, nhưng vì bà có sở hữu một tài sản khác (nhà ở) nên người cha ra điều kiện nếu bà cho người em sở hữu căn nhà này thì sẽ được toàn quyền sở hữu căn nhà của người cha (mà không phải phân chia cho người em nữa). Yêu cầu này của người cha là phù hợp với thực tế và không trái luật.
- Còn quan hệ chuyển nhượng giữa hai chị em (cụ thể người chị cho người em sở hữu căn nhà của mình) là quan hệ tặng cho theo quy định của Bộ luật dân sự cụ thể:
Căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(3) quy định chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình theo hình thức tặng cho.
Điều 201 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.
Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”.
Căn cứ Điều 463 Bộ luật dân sự(4) việc tặng cho bất động sản phải lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc có chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền và phải đăng ký sở hữu theo quy định pháp luật và hợp đồng tặng cho nhà sẽ có hiệu lực từ thời điểm đăng ký.
Điều 463 Bộ luật dân sự quy định:
“1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc có chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm nhận tài sản”. 
Để chuyển nhượng căn nhà thuộc sở hữu của bà cho người em trai, bà phải làm các thủ tục tặng cho theo quy định của pháp luật.
------------------------------------------------------
(1) Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(4) Điều 467 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản".
Khi người quản lý di sản thờ cúng không thực hiện đúng di chúc?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có năm người con: bốn con gái và một con trai. Bố tôi mất năm 2000 và mẹ tôi mất năm 2002, có để lại một chúc thư lập năm 1993 với nội dung sau: bố mẹ tôi để lại tài sản là căn nhà với điều kiện ngôi nhà này chỉ để trưởng nam ở và thờ cúng gia tiên. Cấm tất cả các con không được cầm cố, nhượng bán, đổi chác và cho người khác đến ở nhờ. Người con nào làm trái thì người con khác có quyền ngăn cấm. Chúc thư được lập thành năm bản, mỗi người con giữ một bản. Sau khi bố mẹ mất đi, em trai chúng tôi không ở ngôi nhà này mà lại cho người khác thuê mà không được sự đồng ý của bốn chị em chúng tôi và thu tiền sử dụng riêng. Hỏi: bốn chị em gái chúng tôi có được hưởng thừa kế đối với ngôi nhà này không vì chúng tôi không đồng ý với di chúc của bố mẹ chúng tôi là chỉ cho con trai được hưởng quyền lợi đối với ngôi nhà?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 634 Bộ luật dân sự(1) quy định về quyền thừa kế của cá nhân như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Căn cứ Điều 666 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Vợ chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Như vậy bố mẹ bà có quyền lập di chúc để định đoạt đối với tài sản chung là ngôi nhà.
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 655 Bộ luật dân sự(3) quy định về di chúc hợp pháp như sau: “Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Khoản 3, 4, 5 Điều 651 Bộ luật dân sự(4) quy định người lập di chúc có các quyền:
“3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản...”. Việc bố mẹ bà lập di chúc như trên là phù hợp với quy định của pháp luật.
Do đó, nội dung của di chúc: để căn nhà của bố mẹ làm nơi thờ cúng tổ tiên, giao cho người con trai được quyền ở để trông nom thờ cúng, nhưng không được sử dụng với các mục đích khác, nếu vi phạm thì những người con khác có quyền ngăn cấm, là hoàn toàn phù hợp pháp luật.
Khoản 1 Điều 673 Bộ luật dân sự(5) quy định: “Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc... thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng”.
Căn cứ dữ kiện bà nêu thì người em trai đã không tuân theo di chúc cụ thể là cho thuê toàn bộ ngôi nhà và thu tiền sử dụng riêng. Như vậy là người em trai đã làm trái di chúc.     Do đó, những người thừa kế khác có quyền thống nhất việc giao ngôi nhà cho người khác quản lý để thờ cúng. Vì trong di chúc không xác định người thừa kế nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(6) thì năm anh chị em bà đều là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ. Còn thuật ngữ “người khác” được hiểu có thể là một trong những người thừa kế  hoặc một người trong họ v.v...
Như vậy, trong trường hợp người em trai làm trái di chúc thì bốn chị em bà có thể họp để cử ra một người quản lý di sản và trông nom việc thờ cúng hoặc tìm một người họ hàng có điều kiện đảm đương được công việc này.
-------------------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điểm b khoản 1 điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Khoản 3, khoản 5 và khoản 4 điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người lập di chúc có các quyền sau đây:
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế”.
(5) Khoản 1 điều 670 Bộ luật dân sự năm 2005.
(6) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thời điểm di chúc có hiệu lực?
Câu hỏi:

Tôi là con trai út trong gia đình có năm anh chị em. Hiện nay tôi đã có gia đình và vẫn ở trong căn nhà của bố mẹ cùng với bố, còn các anh chị khác đều đã có gia đình và chỗ ở riêng. Mẹ tôi đã mất năm 1997 không để lại di chúc. Năm 2003 bố tôi có lập di chúc (được Uỷ ban nhân dân phường xác nhận) cho tôi hưởng một nửa căn nhà hiện tại, còn một nửa chia cho các anh chị khác. Bố tôi bảo nếu tôi muốn sở hữu toàn bộ nhà thì phải trả cho các anh chị em khác bằng tiền, nhưng tôi không có tiền. Hỏi: tôi có được chuyển quyền sở hữu đối với phần nhà của bố tôi theo di chúc không vì hiện nay căn nhà đã xuống cấp nghiêm trọng nên tôi muốn xây dựng lại trên diện tích tôi được hưởng theo di chúc?

Trả lời:
Căn cứ khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế” (tức là thời điểm người lập di chúc chết). Do đó, di chúc của bố ông lập năm 2003 chưa phát sinh hiệu lực vì bố ông đang còn sống nên ông chưa được sở hữu phần nhà đất của bố ông.
Mặt khác vì căn nhà là tài sản chung của bố mẹ nên khi mẹ mất thì một nửa là tài sản của bố còn một nửa là di sản thừa kế của mẹ. Do đó, bố ông không có quyền định đoạt toàn bộ khối tài sản này. Vì mẹ của ông chết không để lại di chúc nên một nửa căn nhà là di sản thừa kế của mẹ và được chia theo pháp luật. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì năm anh chị em của ông và bố là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng kỷ phần thừa kế bằng nhau (tức là một nửa căn nhà sẽ chia làm sáu phần).
Trong trường hợp bố ông và năm anh chị em ông thoả thuận được về việc phân chia ngôi nhà, cụ thể: một nửa của ông còn một nửa chia cho năm anh em và ông có trách nhiệm trả bằng tiền cho những người còn lại thì thoả thuận này có hiệu lực theo quy định tại Điều 684 Bộ luật dân sự(3) cụ thể: những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận “... cách thức phân chia di sản”. Nhưng việc thoả thuận này phải tuân theo quy định tại khoản 2 Điều này là: “... phải được lập thành văn bản”.
Trong trường hợp không đạt được sự thoả thuận này thì ông chưa thể tiến hành xây dựng được dù là trên phần diện tích của ông được bố cho theo di chúc vì trong khối tài sản này là có phần di sản thừa kế chưa chia (là phần của mẹ) và cũng không được sự nhất trí của những đồng thừa kế. Do đó, ông có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Nếu bố ông vẫn giữ ý kiến cho ông phần tài sản của bố thì ông có quyền yêu cầu Toà án chia phần của ông và bố ông thành một khối. Còn phần còn lại sẽ là của các anh chị em của ông.
Căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Chủ sở hữu tài sản có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản của mình”. Sau khi Toà án đã giải quyết yêu cầu về chia thừa kế, bố ông phải lập lại di chúc cho ông hưởng phần của bố được Toà án chia hoặc lập giấy tặng cho ông phần tài sản thuộc sở hữu của bố. Khi đó ông có quyền tiến hành xây dựng trên phần diện tích được chia.
----------------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
Di chúc không hợp pháp vì định đoạt quá kỷ phần?
Câu hỏi:

Trong quá trình chung sống bố mẹ của tôi tạo dựng được khối tài sản là hai ngôi nhà. Bố mẹ sinh được bảy anh em chúng tôi (năm con gái và hai con trai). Trước khi mất, vào năm 1996 bố tôi có lập một di chúc với nội dung như sau: giao một ngôi nhà cho người con trưởng, còn ngôi nhà thứ hai giao cho ba người là: mẹ tôi và hai người con trong số bảy người con. Những người được giao nhà chỉ được để ở chứ không được bán. Nếu bán phải được sự đồng ý của tất cả bảy người con và mẹ tôi. Và khi bán sẽ phải chia đều cho tất cả bảy người con và mẹ. Hỏi: di chúc của bố có phù hợp với quy định của pháp luật không vì việc này gây rắc rối do anh em chúng tôi không nhất trí với nhau?

Trả lời:
Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc cho chung”. Do vậy, hai ngôi nhà phát sinh trong thời kỳ hôn nhân nên là tài sản chung vợ chồng của bố và mẹ của bà.
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 233 Bộ luật dân sự(1) về sở hữu chung của vợ chồng quy định như sau:
“1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất.
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người, có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”.
Do đó, bố của bà không có quyền định đoạt toàn bộ khối tài sản này. Theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự(2): “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình...” thì bố bà chỉ có quyền lập di chúc định đoạt một nửa khối tài sản đó, còn một nửa thuộc quyền định đoạt của mẹ bà nên di chúc của bố là không hợp pháp vì định đoạt quá phần tài sản của mình. Mặt khác vì khối tài sản này là tài sản chung hợp nhất chưa phân chia nên cũng chưa xác định được phần tài sản thuộc sở hữu của bố trong khối tài sản chung với mẹ. Do đó có thể coi trường hợp này là di chúc của bố ông không hợp pháp theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự(3) nên việc chia thừa kế sẽ theo pháp luật chứ không theo di chúc. Khối tài sản này sẽ phân chia như sau: một nửa khối tài sản là của mẹ ông, còn một nửa là di sản thừa kế của bố và được chia theo pháp luật.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(4) quy định những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Như vậy, bảy anh em của ông và mẹ ông là những người được hưởng thừa kế di sản của bố.
----------------------------------------------------------
(1) Khoản 1, 2 điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điểm b khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điểm b khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Di chúc hợp pháp có hợp pháp không?
Câu hỏi:

Em của ông nội tôi là ông K lấy hai người vợ đều không có con. Sau khi người vợ cả mất năm 1960, ông K lấy người vợ hai là bà H (bà H có một con riêng). Năm 1998 ông K mất, để lại hai di chúc định đoạt tài sản có trước khi lấy bà H (là một ngôi nhà ngói năm gian xây trên thửa đất 271m2 do tổ tiên để lại): một di chúc lập năm 1992 có nội dung giao diện tích nhà đất của ông cho bố tôi để lo hương khói, một di chúc lập năm 1997 thì lại giao diện tích nhà đất này cho con trai út của tôi để lo cúng giỗ tổ tiên không được bán cho người ngoài. Nhưng nay bà H (83 tuổi) định bán đất của tổ tiên đi. Do gia đình tôi ngăn cản không cho bán, nên bà H đã khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu đối với khối tài sản này để hợp pháp việc bán. Theo quy định của pháp luật thì quyền lợi của bà H như thế nào? Bản di chúc nào là bản di chúc có hiệu lực pháp luật?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Do đó, nhà đất của ông K là tài sản chung của ông K và bà cả. Năm 1960 khi bà vợ này mất thì một nửa tài sản là của ông K còn một nửa là di sản thừa kế của bà vợ cả. Vì ông K không có con với bà vợ cả nên căn cứ Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau” nên ông K được hưởng phần tài sản của bà vợ cả.
Năm 1998 ông K mất (khi đó đã lấy bà H và bà H có một người con riêng), nên theo Điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Đối với tài sản mà vợ chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thì người có tài sản đó có quyền nhập hoặc không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng”. Vì giữa ông K và bà H không có thoả thuận về việc nhập khối tài sản mà ông K có trước khi lấy bà H, mặt khác trong cả hai di chúc của mình, ông K đều có nguyện vọng không bán mà giao cho người trong họ để thờ cúng tổ tiên và hương khói cho mình. Do đó, bà H không có quyền định đoạt đối với nhà đất của ông K mà chỉ được sử dụng (ở tại đó).
Vì diện tích nhà đất này là tài sản của ông K nên theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(1) về quyền định đoạt của chủ sở hữu, nên ông K có quyền lập di chúc để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo chỉ định.
Điều 201 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”.
Về hiệu lực của di chúc: Khi còn sống ông K đã lập hai bản di chúc vào hai thời điểm khác nhau để định đoạt tài sản của mình cho hai người thừa kế được chỉ định khác nhau (thực ra đều là bố và con của ông) để lo hương khói. Căn cứ khoản 5 Điều 670 Bộ luật dân sự(2) quy định hiệu lực của di chúc như sau: “Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật”.
Như vậy, chỉ có bản di chúc mà ông K lập năm 1997 mới có hiệu lực pháp luật.
------------------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Khoản 5 điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật?
Câu hỏi:

Cha ông tôi để lại cho chú ruột tôi một ngôi nhà trên mảnh đất thổ cư tại xã Nguyên Khê, Đông Anh, Hà Nội. Vợ chồng chú tôi sống tại mảnh đất này đến năm 1973 thì chú tôi bị tai nạn chết. Thím tôi cùng con (là em tôi) công tác tại một cơ quan ở Hà Nội và ở luôn ngoài đó. Mảnh đất ở quê, một phần làm đường dân sinh, phần còn lại cùng ngôi nhà thím tôi giao cho bố mẹ tôi trông nom quản lý. Đến năm 1991 Hợp tác xã tự ý lấy một phần giao cho một hộ ở tạm (hộ đó không có giấy tờ gì về đất). Còn lại hơn 100m2 và ngôi nhà bố mẹ tôi vẫn sử dụng cho đến nay. Thím tôi đã mất, nay em tôi (con chú) đã trưởng thành ở Hà Nội tìm về quê đề nghị xin đất giãn dân nhưng vì không có hộ khẩu ở quê nên không xin được. Tôi định làm lại nhà cho em tôi ở trên mảnh đất còn lại để tiện nhập khẩu. Hỏi theo luật thừa kế em họ của tôi có được quyền sử dụng mảnh đất đó không? Làm thế nào để người này được nhập hộ khẩu ở quê?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện ông cung cấp chúng tôi xác định diện tích nhà đất trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của chú thím ông (tức là bố mẹ của người em đang xin đất). Khi chú ông chết, thím của ông đã giao nhà đất đó cho bố mẹ ông quản lý và trông nom (hiện chỉ còn 100m2). Nhà đất này thím của ông chỉ giao cho bố mẹ ông quản lý chứ không phải là cho bố mẹ của ông nên khi chú thím ông chết thì tài sản đó là di sản thừa kế của chú thím của ông. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì người em này thuộc hàng thừa kế thứ nhất của chú thím ông (vì là con đẻ) và có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế nếu còn thời hiệu theo quy định của pháp luật về thừa kế..
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. 
Cụ thể, căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”. Thời điểm mở thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(3) là: “thời điểm người có tài sản chết”. Do đó, nếu thím của ông mất trước ngày 01/7/1991 thì thời hiệu đã hết vào ngày 10/3/2003. Còn nếu mất sau ngày 01/7/1991 và quá thời hạn mười năm thì thời hiệu khởi kiện cũng đã hết. Nếu từ thời điểm thím của ông mất cho đến nay vẫn trong thời hạn mười năm thì người con của thím vẫn có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với di sản thừa kế mà mẹ của họ để lại (là nhà đất hiện bố mẹ ông đang quản lý).
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì người em này không có ý định tranh chấp nhà đất với bố mẹ của ông mà chỉ có mục đích xin được cấp đất giãn dân. Nếu bố mẹ ông muốn tạo điều kiện giúp cho người này làm nhà ở trên diện tích đất mà bố mẹ ông đang sử dụng (có nguồn gốc của chú thím) thì bố mẹ có thể làm thủ tục chuyển nhượng cho người em quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật đất đai cụ thể: Căn cứ Điều 463 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc có chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền và phải đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền...”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Giấy tờ về tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất” cũng là căn cứ được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người em này.
Căn cứ Điều 10 Nghị định số 51/CP ngày 10/5/1997 của Chính phủ về việc đăng ký và quản lý hộ khẩu thì “Giấy xác nhận nhà ở hợp pháp” là điều kiện để người em này làm thủ tục đăng ký hộ khẩu thường trú ở quê.
Điều 10 Nghị định số 51/CP ngày 10/5/1997 của Chính phủ về việc đăng ký và quản lý hộ khẩu quy định: “Khi chuyển nơi cư trú, người chuyển đi hoặc chủ hộ gia đình, người phụ trách nhà ở tập thể có người chuyển đi phải đến cơ quan công an nơi đang cư trú để làm thủ tục chuyển đi.
Đến nơi cư trú mới trong vòng không quá bảy ngày nếu ở thành phố, thị xã và không quá 10 ngày nếu ở nông thôn, người mới chuyển đến hoặc chủ hộ gia đình mới chuyển đến phải làm thủ tục đăng ký hộ khẩu thường trú với cơ quan công an nơi đến.
Thủ tục đăng ký gồm các giấy tờ sau đây:
- Giấy chứng minh nhân dân (người từ 15 tuổi trở lên).
- Giấy chứng nhận chuyển đi.
- Phiếu báo thay đổi nơi thường trú.
- Giấy xác nhận nhà ở hợp pháp.
- Các giấy tờ khác liên quan trực tiếp đến việc thay đổi nơi cư trú (nếu có).
Kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định, cơ quan công an phải giải quyết xong trong thời hạn mười ngày đối với trường hợp chuyển về nông thôn, hai mươi ngày đối với trường hợp chuyển vào thành phố, thị xã”.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 467 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.
2. Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản".
Điều kiện không áp dụng quy định pháp luật thời hiệu về quyền thừa kế?
Câu hỏi:

Trước đây ông tôi có rất nhiều ruộng đất, trong đó có 1.500m2 hiện tôi đang sử dụng, đây là đất thừa kế từ 100 năm nay. Mảnh đất này hiện nay đứng tên của tôi. Còn anh ruột tôi đang sử dụng 450m2 và em ruột tôi sử dụng 499m2. Bố mẹ chúng tôi có bốn người con: anh cả, chị hai, tôi và em út (tôi hiện nay 75 tuổi). Chỉ có một người thì không được sử dụng đất của cha ông để lại. Việc sử dụng đất như thế chỉ là do phân chia tự nhiên cụ thể là do khi lập bản đồ thì chúng tôi đang sử dụng chứ không do bố mẹ tôi phân chia hay di chúc lại. Hỏi: về mặt pháp luật anh chị em của tôi có quyền đòi phân chia lại đất đai mà tôi đang sử dụng không vì việc sử dụng đất như vậy là chênh lệch quá lớn ?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo dữ kiện bà cung cấp thì diện tích đất mà các anh chị em của bà đang sử dụng là đất của bố mẹ có nguồn gốc do ông để lại, không phải do bố mẹ tặng cho bà (cũng như người anh và người em của bà) khi bố mẹ còn sống (mà chỉ là sự sử dụng một cách tự nhiên và không có tranh chấp). Như vậy, những diện tích đất mà ba anh chị em của bà đang sử dụng được xác định là di sản thừa kế của bố mẹ nhưng chưa chia. Vì bố mẹ mất đi không để lại di chúc nên việc phân chia lại đất đai phải theo quy định của pháp luật hoặc theo sự thoả thuận của những người thừa kế cùng hàng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) (bao gồm bốn người anh chị em của bà kể cả một người em út không được sử dụng đất của bố mẹ). Nếu có yêu cầu để phân chia lại cho đồng đều vì có sự chênh lệch quá lớn thì các anh chị em của bà có thể họp để cùng thoả thuận phân chia. Trong trường hợp không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết. Có hai trường hợp xảy ra:
- Trường hợp 1: Khi có yêu cầu chia thừa kế đất của bố mẹ để lại thì Toà án sẽ thụ lý giải quyết nếu còn trong thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế. Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(2) quy định về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là “mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế” (theo quy định tại khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(3) thì “thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại tài sản mất”).
- Trường hợp 2: Nếu thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đã hết thì Toà án vẫn có thể thụ lý giải quyết yêu cầu chia đất mà không áp dụng quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế. Đó là khi di sản thừa kế của bố mẹ chuyển thành tài sản thuộc sở hữu chung của các anh chị em của bà theo quy định tại Điều 230 Bộ luật dân sự(4) quy định về xác lập quyền sở hữu chung như sau: “Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán”.
Căn cứ điểm a tiểu mục 2.4 khoản 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “...sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
Như vậy, điều kiện để không áp dụng quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế phải là: giữa các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận các diện tích đất hiện đang sử dụng một cách tự nhiên là di sản thừa kế của bố mẹ. Khi có yêu cầu thì Toà án sẽ thụ lý để giải quyết việc chia đất theo quy định pháp luật về chia tài sản thuộc sở hữu chung (vì khi đó đất của bố mẹ để lại trở thành tài sản thuộc sở hữu chung chứ không còn là di sản thừa kế nữa và các anh chị em của bà được xác định là những đồng sở hữu chung chứ không phải là đồng thừa kế).
--------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 215 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền sử dụng đất đã đứng tên người khác không còn là di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Ông bà ngoại tôi có mảnh đất 1300m2 ở làng Phù Xá Đoài, Phú Minh, Sóc Sơn, Hà Nội. Ông tôi mất năm 1945, bà mất năm 1984 không để lại di chúc. Ông bà tôi có bảy người con và đều đã đi thoát ly ở tại nơi khác. Năm 1969, mẹ tôi (khi đó làm giáo viên) chuyển về ở tại khu đất này. Từ năm 1969 đến nay mẹ tôi sử dụng ổn định đã xây dựng nhà cửa trên đó và đứng tên trong sổ địa chính của xã, đóng thuế đất liên tục đã 34 năm. Đến tháng 8/2003 các bác tôi ở nơi khác về yêu cầu mẹ tôi chia mảnh đất trên thành năm phần, mẹ tôi chỉ được một phần. Hỏi: Quyền sử dụng đất này có phải là di sản thừa kế của ông bà ngoại không?Mẹ tôi phải chia đất theo yêu cầu của các bác?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì cả ông ngoại và bà ngoại chị đã mất từ rất lâu và không để lại di chúc nên việc giải quyết yêu cầu chia thừa kế đối với di sản là diện tích 1.300m2 đất nêu trên sẽ theo quy định của pháp luật cụ thể:
Căn cứ Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định quyền sử dụng đất chỉ là di sản thừa kế nếu người chết có một trong những loại giấy tờ theo quy định tại Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 (cụ thể là có giấy chứng nhận quyền sử dụng) hoặc theo quy định tại khoản 1, 2 và 5 Luật đất đai năm 2003 (cụ thể là có tên trong sổ địa chính).
Tiểu mục 1.1 và 1.2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định:
“1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Nhưng vào thời điểm ông mất (năm 1945) bà mất (năm 1984) là thời điểm mà pháp luật không quy định quyền sử dụng đất là di sản thừa kế mà chỉ quy định tài sản là nhà mà người chết để lại mới là di sản thừa kế nên quyền sử dụng diện tích đất 1.300m2 không được coi là di sản của ông bà. Căn cứ dữ kiện chị nêu thì mẹ chị là người sử dụng diên tích này và được đứng tên trong sổ địa chính từ năm 1969 cho đến nay, trên đất có ngôi nhà do mẹ chị xây dựng nên nhà, đất này là tài sản của mẹ chị. Do vậy, các bác của chị không có quyền yêu cầu mẹ chị chia thừa kế đối với diện tích đất đó. 
Chia tài sản chung có nguồn gốc từ thừa kế?
Câu hỏi:

Bố mẹ chúng tôi sinh được tám người con (hai con trai và sáu con gái), mẹ mất năm 1984 và bố mất năm 1989. Bố mẹ chúng tôi có một căn nhà cấp bốn trên diện tích đất 70m2 (chưa được cấp sổ đỏ) tại phố Đại La, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Năm chị em gái đi lấy chồng, chỉ còn hai anh trai và một em gái ở lại căn nhà của bố mẹ. Năm 1991 tất cả anh chị em chúng tôi đã họp và thống nhất tạm giao cho anh cả là L 45m2 diện tích căn nhà bên phía tay phải phần còn lại là của anh T trông nom, quản lý hộ. Hiện tại căn nhà bố mẹ chúng tôi để lại vẫn còn nguyên, khi các anh ở mới chỉ xây thêm công trình phụ. Năm 2004 anh T có ý định bán phần căn nhà gia đình anh đang sử dụng mà không hỏi ý kiến của chúng tôi. Việc làm của anh T như vậy có đúng không? Chị em chúng tôi muốn chia tài sản này thì phải làm như thế nào? Nếu không tự thoả thuận được thì cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết việc này?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện chị nêu chúng tôi xác định khối tài sản là căn nhà cấp bốn trên diện tích đất 70m2 tại phố Đại La, quận Hai Bà Trưng là di sản thừa kế của bố mẹ chị để lại nhưng chưa chia. Tại đây chỉ còn ba người ở lại, còn những người khác đi lấy chồng và ở chỗ khác.
Căn cứ Điều 638 Bộ luật dân sự(1) quy định về người thừa kế: “là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế...”. Do vậy nếu vào thời điểm bố mẹ mất mà cả tám anh chị em chị đang còn sống thì cả tám người đều được thừa kế khối di sản của bố mẹ để lại.
Căn cứ Điều 635 Bộ luật dân sự(2) quy định về quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân như sau: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Do vậy, tất cả tám người con đều có quyền hưởng thừa kế của bố mẹ không phân biệt con trai hay con gái, còn ở tại căn nhà của bố mẹ hay đang ở chỗ khác. Vì bố mẹ chị khi qua đời không để lại di chúc nên khối tài sản này sẽ được chia theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự(3) về chia thừa kế theo pháp luật (hay còn gọi là chia theo hàng thừa kế). Do đó, anh T chỉ là một trong những người thừa kế, không có quyền định đoạt một mình đối với phần di sản chưa chia đó.
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(4) quy định hàng thừa kế thứ nhất gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, con nuôi của người chết”. Căn cứ vào Điều luật này thì tám chị em nhà chị là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và mỗi người được hưởng một phần bằng nhau.
Căn cứ Điều 639 Bộ luật dân sự(5) quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Vì các chị em chị đã đi lấy chồng hơn nữa cũng chưa có nhu cầu sử dụng nên vào năm 1991 các đồng thừa kế có họp và thống nhất tạm thời giao khối tài sản này cho hai người con trai quản lý, trông nom và sử dụng, cụ thể là giao cho anh trai cả là L quản lý và sử dụng phần diện tích nhà và đất khoảng 45m2 (có hai em gái ở cùng) về bên phía tay phải, còn người anh trai thứ ba sử dụng khoảng 25m2 phần còn lại (việc họp này không được lập thành văn bản). Như vậy, tuy có tám anh chị em nhưng tại ngôi nhà của bố mẹ chỉ còn lại hai người con trai cùng gia đình và có một cô chưa lấy chồng ở trên nhà đất của bố mẹ để lại. Việc các thừa kế họp và thống nhất định đoạt di sản của bố mẹ như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật và từ thời điểm này căn nhà của bố mẹ là tài sản thuộc sở hữu chung của các đồng sở hữu là tám anh chị em của chị.
Do đó, anh T cũng không có quyền định đoạt một mình đối với tài sản thuộc sở hữu chung cụ thể là đối với diện tích 25m2 trong tổng khối tài sản chung mà người anh này đang ở vì chỉ được các đồng sở hữu giao sử dụng tạm thời chứ không cho quyền sở hữu. Việc người anh này có ý định bán phần diện tích này đi là không đúng với quy định của pháp luật cũng như sự thoả thuận của các đồng sở hữu.
Hiện nay, các anh chị em của chị muốn chia khối tài sản của bố mẹ thì có thể vận dụng Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình để giải quyết cụ thể:
Căn cứ điểm a.3 tiểu mục 2.4 phần I của Nghị quyết quy định như sau: “Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản thuộc sở hữu chung”.
--------------------------------------------
(1) Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.
(2) Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Điều 636 Bộ luật dân sự năm 2005.
Điều kiện để yêu cầu Toà án chia di sản thừa kế khi không còn thời hiệu?
Câu hỏi:

Tôi là cháu trưởng của ông bà nội của tôi. Bố tôi là liệt sỹ hy sinh năm 1947, khi còn sống ông bà tôi vẫn được hưởng chế độ của bố tôi. Năm 1990 ông bà tôi mất đi có để lại tài sản là thửa đất ở diện tích 1600m2 và không có di chúc. Hiện nay toàn bộ diện tích này do chú ruột tôi quản lý sử dụng. Chú tôi vẫn thường nói đây là di sản thừa kế của ông bà để lại cho hai anh em ( tức bố tôi và chú) nếu bố tôi không hy sinh thì cũng được thừa kế của ông bà. Nay tôi muốn xin chú tôi một phần trong diện tích trên để xây nhà ở. Nếu chú tôi không đồng ý thì liệu tôi có thể khởi kiện đòi chia tài sản này không vì đây là di sản thừa kế của ông bà nội tôi?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện ông nêu chúng tôi xác định diện tích đất thổ cư 1.600m2 là di sản thừa kế chưa chia. Vì bố ông chết trước ông bà nên theo Điều 680 Bộ luật dân sự(1) quy định về người thừa kế thế vị như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống...”.
Theo quy định nêu trên ông cũng được hưởng thừa kế một phần trong khối di sản bằng với phần của người thuộc hàng thừa kế thứ nhất (là chú ông). Do đó, ông có thể đề nghị người chú chia cho phần của bố ông.
Trong trường hợp người chú không tự nguyện cho đất thì ông cần phải khởi kiện yêu cầu Toà án chia thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, vì theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(2) thì: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Vì ông bà nội của ông mất năm 1990 nên tính đến nay đã hết thời hiệu yêu cầu Toà án chia thừa kế. Ông chỉ có thể yêu cầu toà án giải quyết chia tài sản chung nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm a.3 tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình: “Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.
Đối chiếu quy định nêu trên thì cần có điều kiện là " không có tranh chấp về hàng thừa kế", nhưng theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (3)(điều luật quy định về hàng thừa kế theo pháp luật), thì ông không được xác định là cùng hàng thừa kế với người chú, nên không có quyền yêu cầu toà án chia tài sản chung đối với trường hợp không áp dụng quy định pháp luật về thời hiệu thừa kế.
Điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1005: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết".
---------------------------------------
(1) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Điểm a khoản 1điều 676 bộ luật dân sự năm 2005
Quyền đòi tài sản thuộc sở hữu chung có nguồn gốc là di sản thừa kế
Câu hỏi:

Ông nội tôi (mất đã lâu) có rất nhiều ruộng đất, ao vườn, do em trai của bố tôi (ông Q) sử dụng. Ông Q khi còn sống chỉ sinh được ba con gái không có con trai nên đã cho tôi là cháu trưởng dòng họ ba mảnh đất trong đó có hai mảnh cho khi ông Q còn sống và tôi đã xây nhà cho hai người con trai của tôi ở. Mảnh thứ ba ông Q nói cho khi còn sống nhưng khi ông Q mất năm 1986 thì con gái lớn của ông là bà T mới đứng ra đo đất cho tôi. Đến năm 1991 thì tôi xây nhà và hiện đang ở tại đây. Cả ba mảnh đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1992. Năm 2003 bà T lại kiện đòi đất của tôi và phủ nhận việc cho đất. Hỏi: theo quy định của pháp luật hiện hành thì diện tích đất của ông Q có nguồn gốc là di sản thừa kế của ông nội tôi vậy tôi có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích đất mà bà T đang quản lý sử dụng không? Bà T có quyền đòi lại chỗ đất mà ông Q đã cho tôi hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(1) thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế (tức là thời điểm người để lại di sản thừa kế chết). Nếu hết thời hạn mười năm mà mới có yêu cầu về chia tài sản có nguồn gốc là di sản thừa kế thì phải thuộc trường hợp được quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân, gia đình cụ thể:
Căn cứ điểm a.3 tiểu mục 2.4 phần 1 quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong trường hợp: “...sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
Vì ông nội của ông đã mất từ lâu, không có di chúc, để lại tài sản là nhà đất cho ông Q là em của bố ông quản lý sử dụng, sau khi ông Q mất thì do con gái lớn là bà T tiếp tục sử dụng. Nay nếu ông yêu cầu chia thừa kế tài sản của ông nội mà bà T đang quản lý sử dụng thì ông có quyền yêu cầu Toà án giải quyết mà không phụ thuộc vào thời hiệu theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự nếu có các điều kiện sau:
Một là: vì bố ông và ông Q đều đã chết nên nếu giữa các con của ông Q và anh em của ông (nếu có) đều là những người thừa kế cùng hàng đối với di sản thừa kế của bố mình, không có sự tranh chấp về hàng thừa kế.
Hai là: bà T, ông và những người thừa kế khác đều thừa nhận diện tích đất mà bà T đang quản lý là di sản thừa kế của ông nội cho bố ông và ông Q nhưng chưa chia.
Nếu đáp ứng các điều kiện này thì di sản thừa kế của ông nội sẽ chuyển thành tài sản thuộc sở hữu chung của những người thừa kế. Do đó, ông có quyền yêu cầu Toà án nhân dân giải quyết theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
Vào năm 2003 (là thời điểm chưa ban hành Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004), bà T cũng không có quyền đòi lại ba diện tích đất mà ông Q đã cho ông vì các lý do sau:
- Cả ba diện tích này đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông vào năm 1992 mà bà T không có ý kiến gì.
- Có hai diện tích đất cho khi ông Q còn sống nên theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(2) về quyền định đoạt của chủ sở hữu nên sau khi ông Q mất bà T (là con gái) không có quyền đòi.
- Còn diện tích đất cho trước khi ông Q mất thì chính bà T đứng ra đo đất cho ông nên sau này bà T cũng không có quyền đòi lại.
---------------------------------------------------
(1) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(2) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
Đòi lại quyền sử dụng đất là di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Bà tôi có một mảnh vườn. Năm 1993 bà tôi bán cho anh B một phần đất vườn chỉ có giấy tờ viết tay và có người làm chứng. Bà tôi và anh B thoả thuận: anh B sẽ đổ đất san nền, khi nào xong sẽ tiến hành đo đạc chia đất. Nhưng anh B đã không gọi bà tôi ra để đo đạc chia đất mà ngầm bán hết đi mảnh vườn của bà tôi. Cho đến khi phường gọi mẹ tôi ra để làm giấy tờ đất thì mới biết anh B đã tự ý bán đi số đất còn lại của nhà tôi cho anh C. Nay bà tôi đã mất, mẹ tôi đã làm đơn ra phường đề nghị giải quyết việc đòi đất nhưng không được giải quyết vì bà tôi đứng tên trong sổ địa chính nhưng đã mất. Hỏi: Trường hợp này có phải là tranh chấp đất đai theo quy định của Luật đất đai không? Gia đình tôi có quyền đòi lại số đất vuờn còn lại của bà tôi không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Đối với trường hợp của ông thì không phải là tranh chấp đất đai mà là tranh chấp liên quan đến quyền thừa kế vì quyền sử dụng mảnh vườn là di sản của bà ông để lại cho những người thừa kế. Do đó việc giải quyết tranh chấp sẽ căn cứ vào các quy định pháp luật về thừa kế để giải quyết.
Thứ nhất: Xác định quyền sử dụng mảnh vườn là di sản.
Vì bà ông vẫn đứng tên trong sổ địa chính nên  thuộc trường hợp người sử dụng đất có 1 trong các loại giấy tờ theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 (cụ thể là" có tên trong sổ địa chính").
Điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003: "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban Nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất: a. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất , sổ địa chính".
Căn cứ tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02 quy định: " Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà có người đó có 1 trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1,2 và 5 điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 1/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế". Do đó quyền sử dụng mảnh vườn này là di sản của bà ông để lại cho những người thừa kế sau khi đã trừ đi số đất mà bà ông đã chuyển nhượng cho anh B khi bà còn sống.
  Thứ hai: Xác định những người thừa kế của bà ông.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Do đó mẹ của ông và những người con khác của bà (nếu có) được xác định là người thừa kế di sản của bà.
Thứ ba: Xác định quyền thừa kế của người thừa kế.
Căn cứ khoản 1 điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995 thì quyền thừa kế bao gồm các quyền sau: Quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Do đó mẹ của ông có quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế đối với quyền sử dụng mảnh vườn để buộc anh C phải trả lại số đất còn lại thuộc di sản của bà mà anh B đã tự ý bán cho anh C.
Thứ tư: Xác định anh C đang chiếm hữu di sản là trái pháp luật.
Vì trong diện tích mảnh vườn mà anh B chuyển nhượng cho anh C có 1 phần đất là di sản của bà ông (tức là không bán cho anh B vào năm 1993) nên căn cứ điểm b tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”. Do đó  mẹ ông  cần căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà ông và anh B vào năm 1993 để chứng minh số đất còn lại đang bị anh C chiếm hữu trái pháp luật để yêu cầu người này phải trả lại di sản.
-------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu toà án giải quyết tranh chấp về tài sản thừa kế?
Câu hỏi:

Tôi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất của bố mẹ. Nhưng sau đó có một người em của tôi muốn chia một phần đất vì bây giờ họ mới có nhu cầu. Nếu phát sinh tranh chấp thừa kế liên quan đến nhà đất này thì Toà án có thụ lý giải quyết yêu cầu chia thừa kế hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại khoản 5 điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì toà án Nhân dân có thẩm quyền giải quyết "các tranh chấp về tài sản thừa kế".
Tình huống ông nêu có hai trường hợp xảy ra:
- Trường hợp 1: Ông được thừa kế nhà đất theo di chúc. Theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự(1) thì: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Điều 635 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Như vậy, nếu trong di chúc xác định ông là người được hưởng di sản thì những người khác không có quyền tranh chấp với ông vì tài sản này đã thuộc quyền sở hữu của ông.
- Trường hợp 2: Người chết không để lại di chúc. Trong trường hợp này vì ông là người sử dụng quản lý nhà đất và khi kê khai cấp giấy chứng nhận không có tranh chấp nên ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tranh chấp xảy ra khi một người em của ông đòi ông chia một phần đất. Căn cứ Điều 677 Bộ luật dân sự(3) quy định về thừa kế theo pháp luật như sau: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”. Như vậy, người em của ông thuộc hàng thừa kế theo quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự(4) nên có quyền được hưởng thừa kế theo pháp luật. Nếu ông không đồng ý chia một phần diện tích đất thì người em này có quyền khởi kiện tại Toà án để yêu cầu chia thừa kế.
Tuy nhiên, đơn khởi kiện của người em có được Toà án chấp nhận hay không còn phụ thuộc vào thời hiệu. Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(5) quy định về thời hiệu khởi kiện như sau: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, nếu đơn yêu cầu của người em về chia thừa kế gửi Toà án trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm người để lại di sản mất thì Toà án mới thụ lý giải quyết yêu cầu chia thừa kế.
Trong một số trường hợp Toà án không xem xét về thời hạn cụ thể: điểm a tiểu mục 2.4 phần 1 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết…”.
Như vậy, nếu có biên bản của những người thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều xác nhận tài sản mà người chết để lại là di sản thừa kế chưa chia thì đây là tài sản chung và người em vẫn có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án chia tài sản chung. Còn nếu không có thoả thuận gì thì người này không có quyền yêu cầu Toà án chia nữa. Trong trường hợp này thì không phải là tranh chấp về thừa kế nữa mà là tranh chấp về tài sản thuộc sở hữu chung có nguồn gốc từ thừa kế.
------------------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 674 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản".
(5) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có bảy người con. Bố chúng tôi mất năm 1958, còn mẹ mất năm 1952. Khi bố mẹ qua đời có để lại cho anh em chúng tôi khối di sản là hai thửa đất số 243 và 244 ở thôn Kiêu Kỵ, xã Kiêu Kỵ, Gia Lâm và không có di chúc. Thửa 243 có diện tích 1193m2 trên có nhà tranh mái lá, dùng làm nhà thờ và ở, có bếp, sân phơi, bể nước. Thửa 244 có diện tích là 1.819m2 gồm ao và luỹ tre. Tổng diện tích là 3.041m2. Sau khi bố tôi mất năm 1958 các anh chị em tôi đều đi thoát ly giao cho anh trưởng quản lý trông coi tài sản chung này. Sau đó anh trưởng mất, bà Đ là vợ lẽ của anh trai trưởng trực tiếp quản lý sử dụng toàn bộ diện tích này, tiến hành kê khai và đóng thuế. Năm 1973 bà Đ tự ý phá bỏ nhà thờ, nhà ở, bếp, sân phơi để trồng cây ăn quả thu lợi. Đến tháng 4/2002 bà Đ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 244 cho anh T là con rể của bà. Khi biết được việc này (tháng 5/2002) chúng tôi đã liên tục gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã và Phòng Địa chính huyện khiếu nại bà Đ có hành vi chiếm đoạt di sản thờ cúng của anh em chúng tôi trên hai thửa đất 243 và 244. Ngày 15/9/2003 Hội đồng gia tộc đã họp lập biên bản thống nhất xác định rõ 2 thửa đất nói trên cùng tài sản thuộc sở hữu của các đồng thừa kế là bảy anh em chúng tôi. Vậy việc bà Đ tự ý đăng ký sử dụng hai thửa đất trên mà không hỏi ý kiến của các anh em chúng tôi có đúng không? Việc chính quyền cho bà Đ đăng ký sử dụng hai thửa đất trên có trái pháp luật thừa kế không? Bà Đ tự ý chuyển quyền sử dụng thửa 244 cho con rể có đúng không? Trường hợp này thời hiệu chia thừa kế có còn không? Chúng tôi có đòi được phần tài sản của chúng tôi trong khối tài sản chung này không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Quyền yêu cầu chia thừa kế là một trong những nội dung của quyền thừa kế theo quy định tại khoản 1 điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995. Vì bố mẹ ông mất không có di chúc nên việc chia thừa kế theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì bảy anh chị em ông thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản bằng nhau. Còn bà Đ không thuộc hàng thừa kế nào của bố mẹ ông (vì là con dâu).
Điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết".
Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(2) thì "thời hiệu yêu cầu chia thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế". Nhưng vì bố mẹ ông đều mất trước ngày 01/7/1991 nên việc yêu cầu chia thừa kế phải căn cứ vào các văn bản sau: Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Pháp lệnh thừa kế (khoản 1, 4 Điều 36); Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10. Căn cứ vào các văn bản pháp luật đó thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế sẽ hết vào ngày 10/3/2003.
Vì sáu anh em đi thoát ly chỉ có anh trưởng ở lại nên anh trưởng là người quản lý tài sản chung. Sau khi anh trưởng mất thì vợ anh trưởng (là bà Đ) tiếp tục quản lý nên bà Đ đứng ra kê khai đất với tư cách người đang sử dụng đất là đúng thực tế. Tuy nhiên, đáng ra bà Đ phải ghi rõ chỉ là quản lý hộ khối tài sản chung của bảy anh em. Năm 1973 bà Đ đã tự ý phá nhà thờ và sân, bếp để trồng cây thu lợi và năm 2002 tự ý chuyển nhượng thửa 244 cho con rể và không hỏi ý kiến của các anh em ông là không đúng vì bà Đ không phải là chủ sở hữu nên không có quyền định đoạt. Việc bà Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên là không có căn cứ vì bà Đ không có các giấy tờ về thừa kế, tặng cho nhà đất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003: “1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất...”.
Do bà Đ đã tự ý chuyển nhượng một phần diện tích nhà đất thừa kế của anh em ông nên các ông đã có đơn khiếu nại gửi Uỷ ban nhân dân xã giải quyết và ngày 15/9/2003 các anh em ông đã họp gia tộc và cùng thoả thuận xác định đó là tài sản chung của các đồng thừa kế.
Căn cứ Điều 230 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu...”. Do đó tuy bố mẹ mất đi không để lại di chúc nhưng nếu bảy anh em của ông thống nhất đó là tài sản thuộc sở hữu chung và giao cho một người thay mặt quản lý thì bảy anh em ông được coi là những đồng sở hữu đối với khối tài sản chung này. Việc thoả thuận này là phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể ở đây là Điều 684 Bộ luật dân sự(4).
Điều 684 Bộ luật dân sự: “1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa  kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”.
Tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm  mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
Như vậy, kể từ thời điểm năm 2003 tài sản đó là tài sản chung của các sở hữu chung là sáu anh em ông. Hiện nay, nếu bà Đ cố tình chiếm giữ diện tích nhà đất đó không chịu giao lại cho sáu anh em ông thì các anh em có thể khởi kiện ra Toà yêu cầu Toà án giải quyết chia tài sản chung.
(Đăng trên Báo Kinh tế & Đô thị số 60 thứ 4 ngày 19/5/2004 dưới nhan đề “Có thể yêu cầu Toà án giải quyết”).
--------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Điều 215 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
Thời hiệu yêu cầu xác nhận quyền thừa kế?
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi đã mất (ông mất trước năm 1945, bà mất năm 1966). Ông bà nội tôi sinh được hai người con trai (bố tôi và bác tôi). Ông bà tôi có tài sản là một số ruộng (năm 1960 ruộng đã góp vào hợp tác xã) và năm gian nhà ngói trên 326m2 đất ở. Sau khi ông nội mất, bà nội giao cho bố tôi quản lý trông nom nhà cửa ruộng vườn, lo thờ cúng giỗ tết và đã được đứng tên trong sổ địa chính. Bác tôi sinh được hai người con gái và mất năm 1946. Hai người này đã đi lấy chồng, một người lấy chồng cùng làng, một người lấy chồng ở nơi khác. Bố tôi mất năm 1982, mẹ tôi nay đã 78 tuổi cùng sống với tôi. Sau khi bố mất, tôi thay bố tiếp tục quản lý ngôi nhà ngói 5 gian và diện tích đất nói trên và đã được đứng tên trong sổ địa chính của xã. Hiện nay ngôi nhà đã xuống cấp, tôi muốn sửa chữa lại nhưng khi vừa dỡ nhà thì hai con gái của bác tôi ngăn cản không cho sửa chữa và đòi chia nhà đất của ông nội. Hỏi: hai người con của bác tôi không sống ở đây nay đến đòi nhà đất là đúng hay sai? Tôi tiếp tục xây dựng ngôi nhà đó có gì sai không? Tôi làm thế nào để được công nhận quyền thừa kế của mình?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện nêu trên thì năm gian nhà ngói trên diện tích 326m2 đất nói trên là di sản thừa kế của ông bà nội của ông nhưng chưa được chia. Theo quy định tại khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(1) thì có hai thời điểm mở thừa kế đối với di sản của ông bà nội: thời điểm ông nội mất (trước năm 1945) và thời điểm bà nội mất (năm 1966).
Khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này(2)”. 
Tại thời điểm mở thừa kế thứ nhất những người thừa kế cùng hàng được xác định là: bà nội, hai con trai. Theo quy định của pháp luật thì một nửa tài sản là của bà còn một nửa là di sản thừa kế của ông nội. Nhưng tại thời điểm đó không có ai yêu cầu chia thừa kế nên vẫn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà nội. Giả sử vào thời điểm này hai người con của bác ông yêu cầu chia thừa kế phần tài sản của ông nội thì cũng không có quyền vì cháu không thuộc hàng thừa kế của ông. Hơn nữa, vì bác ông mất sau ông nội và mất trước bà nội nên hai chị con bác không được hưởng thừa kế của ông mà chỉ được hưởng thừa kế của bà theo quy định của pháp luật về thừa kế thế vị (Điều 680 Bộ luật dân sự(3)).
Điều 680 Bộ luật dân sự quy định: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.
Đến năm 1966 bà nội ông mất, có hai tình huống xảy ra:
- Một là: nếu nhà đất này vẫn là tài sản của bà nội: Theo quy định của pháp luật đối với trường hợp thừa kế theo pháp luật (có nghĩa là người để lại di sản không có di chúc) thì những thừa kế cùng hàng bao gồm: bố ông và hai người con gái của bác ông - là những người thừa kế thế vị (vì bác cả mất vào năm 1946 trước khi bà nội mất). Nhưng lúc đó cũng không có ai yêu cầu chia thừa kế vì các con của bác cả đã đi lấy chồng không ở đó mà chỉ có bố ông là người ở lại trên diện tích đó. Bố ông lại được bà nội giao quyền trông nom quản lý từ trước khi bà mất và đã được đăng ký đứng tên trong bản đồ địa chính.
Mặt khác, xét về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế cũng không còn vì: bà nội đã mất trước thời điểm 01/7/1991 nên theo Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH 10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì thời hiệu yêu cầu chia thừa kế đã hết vào ngày 10/3/2003.
Vì đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết nên người nào đang ở thì tiếp tục được quản lý diện tích nhà đất đó. Hơn nữa, giữa những người thừa kế (bố ông và các chị gái con bác ông) không có thoả thuận nào để xác định tài sản mà bà ông để lại là di sản thừa kế chưa chia. Nên theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình do đó họ không có quyền yêu cầu Toà án chia diện tích đất mà bố ông đang sử dụng.
- Hai là: nếu tài sản này không thuộc quyền sở hữu của bà nội: Theo dữ kiện ông cung cấp, khi còn sống bà nội đã giao nhà đất cho bố ông quản lý sử dụng và hai chị con bác cũng không có ý kiến gì. Bố ông đã đứng tên kê khai sử dụng và được đăng ký trong bản đồ địa chính.  Như vậy sau khi bố ông mất đi thì tài sản này không còn là di sản thừa kế của bà nội nữa mà là di sản thừa kế của bố ông và theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(4) thì mẹ ông và ông là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(5) thì hai người con gái của bác ông thuộc hàng thừa kế thứ ba của bố ông: “Hàng thừa kế thứ ba gồm: ...cháu ruột của người chết mà người chết là ...chú ruột”. Tuy nhiên, căn cứ khoản 3 Điều này(6): “Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản” thì họ không được hưởng thừa kế vì vẫn còn ông và mẹ ông là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Có nghĩa rằng họ chỉ được hưởng khi hàng thừa kế thứ nhất và hàng thừa kế thứ hai không còn ai.
Theo quy định tại Điều 230 Bộ luật dân sự(7) quy định về việc xác lập quyền sở hữu chung như sau: “Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán”. Trong trường hợp này bố ông có hai người thừa kế cùng hàng nên chỉ có ông và mẹ ông mới có quyền lợi đối với diện tích nhà đất trên. Cả ông và mẹ ông không ai có yêu cầu chia thừa kế mà cùng sử dụng chung. Mẹ ông và ông cùng thống nhất để ông đứng tên trong bản đồ địa chính của xã. Đây được coi là sự thoả thuận của các đồng thừa kế do đó diện tích nhà đất trên thuộc quyền sở hữu của ông. Kể từ khi được cấp giấy chứng nhận thì diện tích đất này thuộc tài sản hợp pháp của ông. Do đó hai chị gái con bác không có quyền yêu cầu ông chia thừa kế.
Hiện nay hai người con của bác ông đang có yêu cầu về chia thừa kế tức là đang có tranh chấp với ông liên quan đến khối tài sản mà ông đang quản lý, do đó theo quy định của pháp luật ông chưa thể tiếp tục xây dựng được mà phải chờ kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền.
Căn cứ khoản 3 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự, ông có thể khởi kiện ra Toà yêu cầu Toà án xác nhận quyền thừa kế của mình đối với diện tích đất nêu trên. Sau khi có quyết định giải quyết của Toà án ông có thể tiếp tục xây dựng (phải xin giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật) và làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà.
Nếu hai người con của bác ông cố tình đến phá khi ông xây dựng thì ông có thể yêu cầu Toà án giải quyết. Căn cứ Điều 12 Bộ luật dân sự(8) quy định: “Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể có quyền yêu cầu Toà án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác: b. Buộc chấm dứt hành vi vi phạm”. Trong trường hợp hành vi đập phá tài sản của ông có dấu hiệu hình sự thì ông có thể yêu cầu cơ quan công an can thiệp.
------------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 2 điều 81 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Tuỳ từng trường hợp, toà án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này”.
(3) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
(4) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Điểm c khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại".
(6) Khoản 3 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(7) Điều 215 Bộ luật dân sự năm 2005.
(8) Điều 9 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
“1. Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
2. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền:
a. Công nhận quyền dân sự của mình;
b. Buộc chấm dứt hành vi vi phạm;
c. Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
d. Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
đ. Buộc bồi thường thiệt hại” .
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế?
Câu hỏi:

Bố tôi có hai vợ: bà cả cưới năm 1953, có một con gái (là tôi); bà hai cưới năm 1970 và có hai con: một trai, một gái (bà hai có một con riêng là con trai). Năm 1953 bố mẹ tôi (bố và bà cả) mua một thửa đất có diện tích 479m2, trên đó bố mẹ tôi và tôi sinh sống. Đến năm 1991 bố tôi qua đời không để lại di chúc. Năm 1994 nhà đất này đã đăng ký chủ sở hữu tên mẹ tôi (bà cả). Sau đó tôi đi lấy chồng ở chỗ khác. Năm 2003 em tôi (con bà hai) là anh H đòi chia thừa kế diện tích đất mà hiện tại mẹ tôi đang sử dụng. Tháng 11/2003 mẹ tôi họp gia đình có tôi và ba người con của bà hai để chia mảnh đất đứng tên mẹ tôi ra làm hai phần: một phần cho anh H - là con trai duy nhất của bố tôi để thờ cúng bố tôi. Phần còn lại là của mẹ tôi toàn quyền sử dụng riêng biệt. Sau đó mẹ tôi quyết định làm di chúc để lại diện tích đất này cho tôi là con duy nhất của mẹ tôi. Hỏi:
1. Anh H có quyền yêu cầu toà án chia thừa kế hay không? Nếu chia thừa kế thì sẽ chia như thế nào, anh H được bao nhiêu?
2. Mẹ tôi (vợ cả) có quyền để lại thừa kế cho tôi không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện bà cung cấp chúng tôi xác định thửa đất có diện tích 479m2 mà bố mẹ của bà mua năm 1953 là tài sản chung vợ chồng (của bố và mẹ bà) vì lúc này bố bà chưa lấy bà hai theo quy định tại Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 cụ thể: “Vợ chồng có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”. Nghĩa là mẹ của bà có quyền định đoạt một nửa khối tài sản này.
Đến năm 1970 bố bà lấy vợ hai, thời điểm này Luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam không thừa nhận quan hệ vợ chồng giữa bố bà với người vợ thứ hai. Một nửa diện tích đất trên được xác định là tài sản chung của bố bà với người vợ hai nếu có sự đồng ý của bố bà. Đến năm 1991 bố bà qua đời không để lại di chúc nên có hai tình huống xảy ra:
- Trường hợp 1: Một nửa tài sản chung vợ chồng của bố bà với bà vợ hai được coi là di sản thừa kế của bố bà nhưng chưa chia.
- Trường hợp 2: Nếu không có sự thoả thuận về công nhận tài sản chung giữa bố bà và bà vợ hai thì một nửa khối tài sản đó là di sản thừa kế chưa chia của bố bà và nằm trong khối tài sản chung vợ chồng với mẹ của bà.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.  
Nhưng sau khi bố của bà mất thì không có ai yêu cầu chia thừa kế và năm 1994 diện tích nhà đất này đã đăng ký tên mẹ của bà trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không có ai tranh chấp gì.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) quy định hàng thừa kế thứ nhất của bố bà gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Như vậy mẹ con bà và hai con của bà vợ hai là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Tuy nhiên thời điểm mở thừa kế là năm 1991 nhưng không ai yêu cầu chia. Nay anh H (con bà vợ hai muốn chia) thì cần xác định xem còn thời hiệu yêu cầu Toà án chia thừa kế hay không.
Điều 648 Bộ Luật dân sự(2) quy định: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Vì thời điểm bố của bà mất trước khi ban hành Bộ luật dân sự nên căn cứ điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định như sau:
“Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế...”.
Khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế quy định: “Trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác”.
Theo các quy định nêu trên thì thời hiệu khởi kiện để chia thừa kế đối với di sản thừa kế của bố ông đã hết. Vì vậy anh H không còn quyền yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích đất của bố bà nữa.
Căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(3) quy định về quyền định đoạt của chủ sở hữu thì mẹ của bà có quyền định đoạt phần tài sản của mình bằng cách để lại thừa kế cho bà.
Điều 201 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.
Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”.
-------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế?
Câu hỏi:

Khi còn sống bố vợ tôi lấy hai bà vợ là hai chị em gái và sinh được tám người con: Với vợ cả có bốn con gái và một con trai đã hy sinh năm 1970. Với vợ hai thì sinh được hai con gái và một con trai là anh C. Bố vợ tôi mất năm 1983, người vợ cả mất năm 1988, người vợ hai mất năm 1974, không ai để lại di chúc. Bố tôi có hai mảnh vườn trên có nhà cửa, bếp, công trình phụ cho mỗi bà và các con: vợ cả cùng các con sử dụng một mảnh diện tích 187m2 sau này do vợ tôi sử dụng. Còn vợ hai cùng các con sử dụng mảnh còn lại diện tích 387m2 sau này do anh C quản lý sử dụng. Năm 1988 anh C đuổi vợ tôi ra khỏi nhà và chiếm luôn cả nhà cửa trên diện tích đất 187m2 vì cho là chỉ mỗi mình anh là con trai nên mới có quyền. Hỏi: nếu cả sáu chị em gái đều có đơn gửi Toà án đề nghị chia thừa kế nhà đất của bố mẹ mà anh C đang quản lý sử dụng thì có được không? Nay anh C đã xây nhà hết phần đất thì Toà án sẽ chia thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Thời hiệu khởi kiện về thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì đối với diện tích nhà đất mà bà vợ cả đang quản lý thời điểm mở thừa kế là năm 1983 (là thời điểm bố vợ mất) và năm 1988 (là thời điểm mẹ vợ của ông mất). Còn đối với diện tích nhà đất mà bà vợ hai quản lý thì thời điểm mở thừa kế là năm 1983 và năm 1974 (thời điểm bà vợ hai mất). Như vậy là những người con của bố vợ anh với hai bà vợ không có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế đối với nhà đất thuộc di sản thừa kế của bố mẹ nữa.
Tuy nhiên, vì tất cả những người con của hai bà vợ kể cả anh C đều không tranh chấp về hàng thừa kế. Bản thân anh C cũng thừa nhận nhà đất là di sản thừa kế của bố mẹ nhưng tự cho mình quyền sử dụng tài sản này với lý do là chỉ có mình anh là con trai. Nên căn cứ điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự quy định không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế trong trường hợp: “... sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại nhưng chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế". Do đó, nếu cả sáu người con gái cùng có yêu cầu Toà án chia thì Toà án sẽ không áp dụng quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế vì lúc này nhà đất của bố mẹ để lại được xác định là tài sản thuộc sở hữu chung và bảy chị em của vợ ông là những đồng sở hữu chung. Và diện tích nhà đất nêu trên không phải là di sản thừa kế chưa chia nữa mà là tài sản thuộc sở hữu chung của bảy người con (sáu chị em gái của vợ ông và anh C).
Như vậy, điều kiện để không áp dụng quy định của pháp luật về thời hiệu về quyền thừa kế là phải có sự thoả thuận của những người thừa kế cùng hàng về di sản thừa kế và không có tranh chấp về hàng thừa kế. Khi đó di sản thừa kế của bố mẹ trở thành tài sản thuộc sở hữu chung của bảy người con. Căn cứ khoản 1 Điều 238 Bộ luật dân sự(2) quy định về chia tài sản chung như sau: “Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung... Khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia". Căn cứ dữ kiện ông nêu thì bố và hai bà mẹ nhà vợ của ông đều không có di chúc nay chỉ một mình anh C chiếm sử dụng nên những chị em gái của anh C có thể khởi kiện tại Toà án nhân dân để yêu cầu Toà án chia tài sản theo quy định tại điểm a.3 tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP như sau: “trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản". Trong trường hợp anh C đã xây nhà hết đất thì Toà án có thể buộc anh C phải trả bằng tiền cho các chị em gái tương ứng với phần tài sản mỗi người được hưởng.
(Đã đăng trên Báo Kinh tế & Đô thị số 143, ra thứ hai ngày 29/11/2004.)
-------------------------------------------------
(1) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(2) Khoản 1 điều 224 Bộ luật dân sự năm 2005.
 
50. Không áp dụng thời hiệu về quyền thừa kế đối với việc chia tài sản thuộc sở hữu chung có nguồn gốc thừa kế
Trong cải cách ruộng đất năm 1956, mẹ tôi và bốn anh em tôi được chia một căn nhà tranh trên mảnh đất 250m2 ở Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội. Lúc đó bố tôi đi cải tạo. Tại ngôi nhà này chỉ có năm mẹ con tôi và chị dâu tôi (đã có một con) sống. Năm 1958 anh tôi đi thoát ly làm công nhân xây dựng. Năm 1967 tôi đi thanh niên xung phong. Hai em tôi cũng lần lượt đi thoát ly. Năm 1964 bố tôi được trả tự do và mất năm 1970. Năm 1986 mẹ tôi cũng qua đời chỉ còn chị dâu sống tại nhà đất này. Sau đó chị dâu tôi ra ở với anh tôi ở Hà Nội nhưng hộ khẩu vẫn ở quê. Bố mẹ tôi mất đi không để lại di chúc về tài sản này. Hiện nay cả bốn anh em tôi đều có nhà ở riêng tại Hà Nội. Diện tích nhà đất này hiện vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) nhưng nếu cấp thì chắc sẽ cấp cho chị dâu của tôi. Nay tôi và em gái tôi muốn chia thừa kế tài sản này có được không?
Nguyễn Huy Tự
Ngõ 292, đường Nghi Tàm, phường Yên Phụ,
quận Tây Hồ, Hà Nội
Căn cứ vào dữ kiện ông cung cấp chúng tôi xác định căn nhà tranh trên diện tích 250m2 đất ở quê là tài sản của mẹ ông. Tuy mẹ ông được chia đất trong thời kỳ bố ông đã bị đi cải tạo. Nhưng theo quy định của Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì tài sản này vẫn được xác định là tài sản chung vợ chồng.
Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”.  
Năm 1972 bố ông mất và năm 1986 mẹ ông mất không để lại di chúc và chỉ có chị dâu ông ở tại nhà đất này. Theo quy định tại Điều 684 Bộ luật dân sự(1) quy định về họp mặt những người thừa kế thì “Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản”.
Tuy nhiên sau khi mẹ ông mất giữa các anh chị em ông không hề có sự họp mặt để thoả thuận về các vấn đề nêu trên. Vì vậy, tài sản này vẫn là di sản thừa kế của bố mẹ ông để lại và do chị dâu quản lý sử dụng. Theo quy định của pháp luật thì người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải có các điều kiện sau: Có một trong các giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất, phải là người đang sử dụng đất và phải được Uỷ ban nhân dân xã xác nhận là đất không có tranh chấp.
Khoản 1, 2, 4 và 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a. Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d. Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993;
đ. Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e. Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật”.
Vì chị dâu của ông không có bất cứ giấy tờ nào về quyền sử dụng đất, không còn ở tại đó và khi ông và em gái có yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích nhà đất đó thì sẽ không có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích nhà đất nêu trên.
 Theo quy định tại khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì người chị dâu không thuộc hàng thừa kế nào mà chỉ có anh chị em ông là những đồng thừa kế.
Khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, cô ruột, dì ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột”. 
Theo dữ kiện ông nêu thì hiện nay ông và một người em gái muốn chia thừa kế diện tích nhà đất này. Nếu giữa những người đồng thừa kế không tự thoả thuận được thì ông có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế nếu còn thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
Căn cứ điểm a tiểu mục 2.2 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định:
“Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế năm 1990
và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế...”.
Khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 quy định: “Trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác”.
Vì bố mẹ của ông mất năm 1970 và năm 1986 nên ông và em gái của ông không còn quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế nữa.
Tuy nhiên căn cứ dữ kiện ông nêu thì hiện nay nhà đất này không có ai quản lý và những đồng thừa kế cũng không có tranh chấp gì về hàng thừa kế và đều xác nhận đó là di sản thừa kế do bố mẹ để lại nên khối tài sản này được xác định là tài sản thuộc sở hữu chung của bốn anh em ông - là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ ông. Và các anh em ông cần thoả thuận với nhau để thống nhất cách thức chia tài sản. Nếu không thoả thuận được thì có thể yêu cầu Toà án giải quyết. Căn cứ điểm a.3 tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 10/8/2004 quy định: “Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.
------------------------------------------------------
(1) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”.
Không còn quyền thừa kế khi hết thời hiệu khởi kiện?
Câu hỏi:

Trước đây khi ông bà ngoại của tôi còn sống, ở cùng với bố mẹ tôi. ông bà ngoại cho bố mẹ tôi ngôi nhà trên diện tích đất 300m2. Nhưng việc tặng cho này không có giấy tờ gì. Ông ngoại tôi mất từ lâu, bà ngoại mất năm 1977. Sau khi bà ngoại mất, gia đình tôi chuyển đi nơi khác và đã nhờ bác tôi (chị gái của mẹ) trông nom nhà hộ. Một thời gian sau bác tôi xây dựng nhà mới trên nền nhà cũ. Hiện nay bác tôi đang đứng tên trong sổ địa chính xã và đóng thuế đất hàng năm. Bố tôi và tôi đã có ý kiến xin lại nhà nhưng bác tôi không trả lại, không thừa nhận việc tặng cho cũng như không thừa nhận đấy là di sản thừa kế của ông bà. Vì việc tặng cho nhà không có giấy tờ vậy gia đình tôi có còn quyền thừa kế đối với ngôi nhà đó không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huytrả lời:
Theo dữ kiện ông cung cấp thì ngôi nhà hiện nay bác ông đang sử dụng là trên diện tích đất của ông bà ngoại đã cho bố mẹ ông, nhưng ngôi nhà là do bác ông xây dựng mới, còn nhà cũ của ông bà đã bị phá nên chỉ còn quyền sử dụng đất là tài sản của ông bà đã cho. Nếu bác ông không đồng ý trả thì bố ông phải đưa ra cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Nhưng căn cứ dữ kiện ông nêu thì gia đình ông không đòi được nhà đất từ người bác vì các lý do sau:
- Trong trường hợp đòi tài sản được tặng cho: Nếu bố ông muốn đòi lại quyền sử dụng đất từ bác ông thì phải chứng minh các vấn đề sau: Có chứng cứ về việc ông bà ngoại tặng cho bố mẹ ông nhà đất, bố mẹ ông nhờ người bác trông nom nhà hộ. Nhưng vì việc tặng cho không có giấy tờ và việc giao nhà đất để trông nom quản lý hộ cũng không có văn bản nên không có căn cứ pháp luật để đòi tài sản đã giao cho người khác quản lý. Giả sử có giấy tờ về các giao dịch này thì chỉ còn quyền sử dụng đất là tài sản của bố mẹ ông còn ngôi nhà xây trên nền nhà cũ là của người bác nên bố ông vẫn phải có trách nhiệm thanh toán tiền xây dựng và trông nom quản lý tài sản cho người bác.
Mặt khác theo quy định của điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định một trong những loại giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng là “có tên trong sổ địa chính”. Do đó, bác của ông là người sử dụng đất vì có tên trong sổ địa chính của xã, còn gia đình ông chuyển đi nơi khác ở từ năm 1977 nên không có tên trong sổ địa chính.
- Trong trường hợp yêu cầu Toà án chia thừa kế: Vì nguồn gốc đất là của ông bà ngoại. Ông bà ngoại có hai người con là mẹ ông và người bác (chị của mẹ). Ngôi nhà bà ngoại ông tạm coi là di sản thừa kế chưa chia. Vì ông bà mất không để lại di chúc nên việc chia thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật. Theo quy định của điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(1) thì bác ông và mẹ ông thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Kỷ phần thừa kế của mẹ ông sẽ trở thành di sản thừa kế của ông và bố ông - những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của mẹ. Vì ngôi nhà cũ đã bị phá chỉ còn lại quyền sử dụng đất. Căn cứ tiểu mục 1.2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì quyền sử dụng đất vẫn có thể là di sản thừa kế, “đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”. Nhưng diện tích nêu trên do người bác đứng tên trong sổ địa chính chứ không phải là ông bà ngoại nên không phải là di sản thừa kế.
Căn cứ điều 163 Bộ luật dân sự năm 1995 (2)quy định về thời hiệu như sau: " Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện". Do đó quyền thừa kế chỉ được thực hiện trong thời hiệu do pháp luật quy định.
Căn cứ dữ kiện ông cung cấp thì thời điểm ông bà của ông mất cuối cùng vào năm 1977. Căn cứ vào cách tính thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đối với các trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 thì đã hết thời hiệu.
Điều 9 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH 10 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 20/8/1998 quy định nếu có yêu cầu chia di sản thừa kế thì chia theo quy định của pháp luật về thừa kế (tức là Pháp lệnh thừa kế ban hành năm 1990).
Mục IV Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/ 1999 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế tính đến hết ngày 10/3/2003.
Do đó, gia đình ông không còn quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của ông bà ngoại nữa.
- Căn cứ Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP thì trong trường hợp các đồng thừa kế không có tranh chấp về di sản thừa kế, hàng thừa kế thì khi hết thời hiệu mà có tranh chấp thì Toà án sẽ áp dụng các quy định pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết mà không áp dụng quy định pháp luật về thời hiệu thừa kế.
Điểm a, tiểu mục 2.4 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “...sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
 
Tuy nhiên, căn cứ dữ kiện ông nêu thì người bác không thừa nhận diện tích nhà đất này là di sản thừa kế và ông cũng chẳng có giấy tờ nào chứng minh đó là di sản thừa kế nên không thuộc trường hợp để áp dụng Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP.
-----------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 154 Bộ luật dân sự năm 2005: "Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì chủ thể được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc mất quyền khởi kiện vụ án dân sự, quyền yêu cầu giải quyết việc dân sự".
Điều kiện không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có tài sản là quyền sử dụng đất, khi còn sống đã chia thừa kế một phần cho các người con lớn. Còn một mảnh đất (nguyên là ruộng và vườn) bố mẹ ở cùng với hai người con cuối (gọi là A và B). Từ năm 1968, A lên Sài Gòn, B tiếp tục sống với bố mẹ tôi và sử dụng mảnh đất đó. Năm 1972 bố tôi mất và năm 1985 thì mẹ tôi mất. Bố mẹ tôi không để lại chúc thư. Từ năm 1972 đến nay B hưởng toàn bộ ruộng đất và hoa lợi. Nay B bị tâm thần, A xin vợ của B (chị dâu) phần đất thừa kế nhưng chị dâu không đồng ý mà chỉ cho B một công (trong tổng số 1, 2 mẫu công của bố mẹ để lại) và không có đường đi lại. Hỏi: A có được thừa kế đối với diện tích đất đó không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện bà cung cấp chúng tôi xác định bố mẹ bà đã cho đứt một phần tài sản là quyền sử dụng đất cho các anh chị lớn (chứ không phải thừa kế vì lúc đó bố mẹ bà đang còn sống). Vì bà không nói rõ là diện tích còn lại bố mẹ đã cho hai người con là A và B chưa nên chúng tôi chia làm hai trường hợp:
- Nếu đã cho thì diện tích đó là tài sản chung của hai người con là A và B: căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(1) quy định quyền định đoạt của chủ sở hữu như sau: “Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay... hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản của mình”. Như vậy theo quy định nêu trên thì chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình bằng cách chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người khác. Do đó, nếu bố mẹ bà đã chia số đất này cho A và B thì A và B là đồng sở hữu của khối tài sản này.
Vì là tài sản chung nên hiện nay A muốn được hưởng một phần diện tích là hợp pháp. Căn cứ khoản 2 Điều 237 Bộ luật dân sự(2) về định đoạt tài sản chung của các sở hữu chung như sau: “Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”. Như vậy, nếu giữa A và chị dâu - vợ của B (vì B bị tâm thần nên vợ của B sẽ là người giám hộ cho B) không thoả thuận được với nhau về việc phân chia tài sản chung thì A có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Nếu chưa cho thì đó là tài sản của bố mẹ nhưng chưa chia: vì là tài sản chung của bố mẹ chưa chia và khi bố mẹ mất không có di chúc nên việc thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật thừa kế. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(3) thì tất cả những người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ và được hưởng phần di sản bằng nhau. Tuy nhiên, việc yêu cầu chia thừa kế phải căn cứ vào thời hiệu. Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(4) thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Do đó, trong trường hợp này đã hết thời hiệu nên những người thuộc hàng thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu Toà án chia thừa kế mà chỉ có quyền khởi kiện đòi tài sản chung nếu thuộc trường hợp dưới đây:
Theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế khi: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
Như vậy, mặc dù thời hiệu chia thừa kế đã hết nhưng các đồng thừa kế thuộc trường hợp như Điều luật trên quy định thì vẫn có quyền yêu cầu chia tài sản mà vợ chồng B đang quản lý sử dụng.
------------------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Khoản 2 điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điểm a khoản 1 điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Không còn thời hiệu yêu cầu chia thừa kế phần di sản thừa kế của bà nội nhưng còn thời hiệu yêu cầu chia thừa kế phần di sản của ông nội?
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi có một mảnh đất rộng 341m2 trên có 1 ngôi nhà, ông bà tôi sinh được 8 người con nhưng chỉ có mình bố tôi là ở cùng với ông bà. Vì bà tôi mất sớm khi bố tôi còn nhỏ nên năm 1995 ông làm di chúc cho bố tôi toàn bộ diện tích đất này có chứng nhận của UBND phường. Bố tôi đã được ông nội cho đứng tên trong sổ đỏ từ năm 1990. Bố mẹ tôi đã phá căn nhà của ông bà trước đây và hai lần xây dựng nhà ở mới cùng các công trình trên đất. Đến năm 2003 ông tôi qua đời có để lại một khoản tiền là 100 triệu đồng gửi tiết kiệm do ông được đền bù khi Nhà nước thu hồi đất. Sau khi ông mất, 7 chị em khác của bố tôi đã họp và có biên bản về phân chia 341m2 đất và 100 triệu đồng nhưng bố tôi không tham dự và không ký vào biên bản đó. Hỏi: Nay 7 chị em khác của bố tôi đòi hưởng thừa kế của ông bà nội thì có được không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
 
-Thứ nhất, về mảnh đất 341m2:
Vì tài sản này có nguồn gốc do ông bà nội của chị mua được khi còn sống nên về nguyên tắc con cái có quyền được hưởng di sản của bố mẹ. Trường hợp có di chúc thì việc thừa kế sẽ chia theo nội dung của di chúc.
Có hai thời điểm mở thừa kế: Khi bà nội của chị mất thì một nửa mảnh đất 341m2 là phần tài sản của bà nội trong khối tài sản chung với ông nội sẽ được chia thừa kế. Vì bà nội mất không để lại di chúc nên việc chia thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (1)quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Như vậy ông nội và 8 anh chị em của bố chị có quyền được hưởng phần di sản của bà nội. Nhưng vào thời điểm bà mất không có ai yêu cầu chia thừa kế nên phần di sản của bà được ông nội quản lý. Theo dữ kiện chị cung cấp thì bà nội chị mất sớm (trước 01/07/1991) nên theo quy định việc tính thời hiệu đã hết vào ngày 10/3/2003 (vì căn cứ vào các văn bản sau: Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Pháp lệnh thừa kế năm 1990; Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10). Vì vậy cho tới thời điểm hiện nay 7 chị em khác của bố chị không có quyền yêu cầu chia thừa kế phần di sản của bà nội theo quy định của pháp luật vì đã hết thời hiệu.
Thời điểm ông nội mất vào năm 2003: Năm 1990 ông nội đã để cho bố chị đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó năm 1995 ông nội làm di chúc cho bố chị toàn bộ diện tích đất này. Như vậy chứng tỏ ông nội đã có ý muốn chuyển quyền sở hữu tài sản cho bố chị sau khi chết. Cho đến khi ông nội mất vào năm 2003 thì di chúc phát sinh hiệu lực. Việc chia thừa kế sẽ theo sự định đoạt trong di chúc.
Trong quá trình sử dụng đất bố mẹ chị đã phá ngôi nhà cũ của ông bà và xây dựng nhà mới cùng công trình trên đất do đó tài sản trên đất là sở hữu của bố mẹ chị và chỉ có quyền sử dụng đất là có nguồn gốc của ông bà nội.
Theo dữ kiện chị nêu thì sau khi ông nội mất thì 7 người chị của bố mới họp lại để phân chia diện tích 341m2 và 100 triệu tiền tiết kiệm của ông nhưng bố chị không ký. Căn cứ mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định về hướng dẫn giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, lao động, hành chính quy định như sau: “Trong thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế ........thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thưà kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”. Vì bố chị không ký biên bản nên coi như là không thừa nhận diện tích 341m2 là tài sản chung của 8 chị em do đó không thuộc trường hợp áp dụng Nghị quyết 02 như trên. Hơn nữa vì diện tích nhà đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bố chị từ năm 1990 nên không còn là di sản thừa kế của ông nữa. Có nghĩa là 7 chị em khác của bố không có quyền yêu cầu bố chị chia diện tích đất 341m2.
2. Thứ hai, về khoản tiền 100 triệu:
Theo dữ kiện chị cung cấp thì nguồn gốc của khoản tiền là do ông nội được nhận từ tiền đền bù khi Nhà nước thu hồi đất cho nên đây là tài sản riêng của ông nội. Căn cứ khoản 1 điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995(2) quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết...". Vì trước khi mất ông nội chị không có di chúc để định đoạt số tiền trên nên việc chia thừa kế đối với khoản tiền này sẽ theo quy định của pháp luật về thừa kế. Cụ thể: Căn cứ khoản 2 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (3)quy định: “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”, do đó khoản tiền 100 triệu sẽ được chia đều cho 8 người con của ông nội sau khi đã trừ đi các khoản tiền chi phí cho việc mai táng và thực hiện các nghĩa vụ do người chết để lại.
------------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005
(2) Điều 643 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền yêu cầu chia tài sản chung có nguồn gốc là di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi có 400m2 đất trên có ba gian nhà ngói để lại cho bố mẹ tôi sử dụng. Bố mẹ tôi có năm người con (một người đã chết). Toàn bộ diện tích nhà đất đó bố mẹ để cho anh cả ở nhưng không nói là cho anh mà nói là của các con. Mẹ tôi mất năm 1968, bố tôi mất năm 1970. Sau đó anh cả bán 200m2 và không cho các anh em còn lại. Nay chúng tôi muốn được hưởng quyền lợi từ tài sản của bố mẹ để lại. Hỏi anh em chúng tôi có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với nhà đất cha mẹ tôi để lại hay không?Nếu hết thời hiệu thì làm sao được hưởng quyền lợi đối với tài sản có nguồn gốc thừa kế này?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo dữ kiện mà bà cung cấp thì bố mẹ mất năm 1968 và năm 1970. Như vậy, thời điểm mở thừa kế từ năm 1968 (đối với phần di sản của mẹ) và năm 1970 (đối với phần di sản của bố).
Căn cứ Điều 9 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH 10 ngày 20/8/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 quy định về thừa kế nhà ở giữa cá nhân với cá nhân như sau: “Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1991 mà di sản thừa kế chưa được chia, nếu có yêu cầu chia, thì giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế”.
Tại khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau: “Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác”.
Căn cứ Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/ 1999 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH 10 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế sẽ hết vào ngày 10/3/2003. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
Điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
Đối chiếu vào trường hợp của ông đã hết thời hiệu và trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế lần thứ 2 (khi bố mất vào năm 1970) các anh em của ông không có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế, trường hợp này sẽ không áp dụng thời hiệu nếu:
- Bốn anh em của ông không có tranh chấp về hàng thừa kế và cả bốn người (kể cả người anh cả) đều thừa nhận diện tích nhà đất mà bố mẹ để lại là di sản thừa kế chưa chia thì ba người em còn lại có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
- Trong trường hợp giữa bốn anh em của ông không có tranh chấp về hàng thừa kế và không có bất cứ sự thoả thuận nào xác định đó là tài sản chung thì ba người em còn lại không có quyền yêu cầu người anh cả phải chia diện tích nhà đất đó nữa. 
Những trường hợp không áp dụng thời hiệu về quyền thừa kế?
Câu hỏi:

Ông nội tôi có một ngôi nhà hai tầng trên diện tích 40m2 ở trong phố cổ Hà Nội. Ông có hai con: một con trai là bố chúng tôi đã hy sinh năm 1947, một con gái là bà T. Năm 1950 trước khi mất ông đã di chúc để lại cho bốn anh em tôi ngôi nhà và di chúc cho bà T 1/4 giá trị nhà nếu bán. Từ năm 1965 nhà nước quản lý ngôi nhà này. Từ năm 2001 chúng tôi đã đòi lại quyền quản lý nhưng cho đến nay vẫn chưa lấy được nhà vì có anh V là con bà T tự ý chiếm ngôi nhà. Anh V cho rằng thời hiệu khởi kiện để đòi ngôi nhà theo di chúc của ông nội đã hết nên ai ở tại ngôi nhà thì sẽ được hợp thức quyền sở hữu. Trong trường hợp này thì chúng tôi có thể yêu cầu Toà án giải quyết đòi ngôi nhà để thực hiện di chúc của ông nội được không ?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(1): “Chủ sở hữu có quyền tự mình... để thừa kế... đối với tài sản”. Vì ngôi nhà là tài sản của ông nội nên ông nội có quyền lập di chúc cho bốn anh em của ông (là cháu nội) còn bà T là con gái chỉ được hưởng 1/4 tiền nếu bán nhà. Căn cứ khoản 1 và 4 Điều 651 Bộ luật dân sự(2) quy định người lập di chúc có quyền:
“1. Chỉ định người thừa kế.
 4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản”.            
Như vậy, bốn anh em ông được xác định là người thừa kế theo di chúc còn bà T là người có quyền lợi liên quan theo nghĩa vụ mà ông nội đã giao cho người thừa kế trong di chúc. Còn ông V là con của bà T chỉ là người thừa kế của bà T và chỉ có quyền lợi đối với giá trị của 1/4 ngôi nhà nếu bán nhà. Do đó việc ông V tự ý chiếm ngôi nhà sử dụng là trái pháp luật.
Khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết”. Do đó từ năm 1950 anh em ông đã có quyền hưởng di sản thừa kế là ngôi nhà nhưng vì hoàn cảnh các thừa kế của ông nội không có điều kiện thực hiện quyền thừa kế của mình.
Điều 648 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế” do đó đến nay bốn anh em của ông không có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế đối với ngôi nhà của ông nội cho nhưng có quyền yêu cầu Toà án buộc ông V phải trả lại ngôi nhà vì 4 anh em của ông đều thừa nhận là những người cùng hàng thừa kế và không có tranh chấp về di sản thừa kế nên thuộc trường hợp quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Cụ thể: “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”.
Do vậy, bốn anh em của ông có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc đòi tài sản thuộc sở hữu chung mà không phụ thuộc vào thời hiệu thừa kế.
------------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1; khoản 4 điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người lập di chúc có các quyền sau đây:
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế”.
(3) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đối với di sản là quyền sử dụng đất?
Câu hỏi:

Gia đình tôi hiện nay đang vô cùng mâu thuẫn về chuyện chia nhà, đất do các cụ để lại. Đó là việc ông chú tôi có ý định kiện đòi chia thừa kế. Ông nội tôi sinh được sáu người con: hai con trai (là bố tôi và chú tôi) và bốn con gái. Năm 1950 bố tôi mất vì chiến tranh, năm 1951 ông tôi mất và không viết di chúc để lại đất cho ai. Bà nội tôi mất năm 1996 và cũng không có di chúc. Sau khi bà mất thì mẹ tôi đứng tên trong sổ địa chính. Từ năm 1963 chú tôi lấy vợ sau đó về ở luôn nhà vợ. Còn lại tôi và chị gái sống cùng mẹ trên mảnh đất của ông nội (các cô tôi đã lấy chồng hết). Nhà đất hiện nay đã được cấp sổ đỏ cho mẹ tôi. Hiện chú tôi muốn xin đất của gia đình tôi đang sử dụng để sống cùng vợ hai (vợ cả của chú đã mất). Nhưng gia đình tôi không cho và chú doạ sẽ đi kiện ra Toà. Hỏi: chú tôi có quyền kiện đòi gia đình tôi chia đất cho chú không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huytrả lời:
Vì nhà trên diện tích đất thổ cư là tài sản chung vợ chồng của ông bà nội anh. Theo quy định tại khoản 1 Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì một nửa thuộc tài sản của bà nội và một nửa là tài sản của ông nội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 637 Bộ luật dân sự(1), khi ông nội mất thì phần tài sản của ông trong khối tài sản chung với bà nội là di sản thừa kế chưa chia của những người thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì bà nội và các người con của ông bà thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông nội. Vì bố ông mất trước ông nội (1950) nên căn cứ Điều 680 Bộ luật dân sự(3) quy định “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống...", nên những người con của bố ông (giả sử lúc đó các chị em ông đã sinh ra) được hưởng thừa kế thế vị.
Theo quy định tại Điều 636 Bộ luật dân sự(4) thì thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Như vậy khi ông nội anh mất những người đồng thừa kế có thể tự thoả thuận để phân chia di sản. Trong trường hợp không thống nhất giữa các đồng thừa kế hoặc có tranh chấp thì ông có thể yêu cầu Toà án giải quyết.
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì vào thời điểm ông nội mất không có ai yêu cầu chia (vì chú anh và bốn người cô đã đi ở chỗ khác). Hiện nay có người chú thứ năm muốn đòi chia một phần đất của ông nội mà gia đình ông đang quản lý sử dụng nên cần xác định có còn thời hiệu khởi kiện chia thừa kế hay không.
Theo quy định tại Điều 9 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì: “Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1991 mà di sản thừa kế chưa chia, nếu có yêu cầu chia, thì giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Căn cứ Điều 36 Pháp lệnh thừa kế quy định “thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế” và “đối với các việc thừa kế mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn được tính từ ngày công bố Pháp lệnh” (ngày công bố Pháp lệnh là ngày 10/9/1990). Vì thời điểm mở thừa kế đối với ông nội anh trước ngày 01/7/1991 nên căn cứ Thông tư liên tịch số 01/1999/TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế sẽ hết vào ngày 10/3/2003.
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì bà nội mất năm 1996 nên căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(5) quy định về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế như sau: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”. Như vậy, đến năm 2006 sẽ hết quyền khởi kiện yêu cầu chia thừa kế đối với phần tài sản của bà.
Tuy nhiên theo dữ kiện ông nêu thì sau khi bà nội mất năm 1996 thì mẹ ông đứng tên trong bản đồ địa chính và là người trực tiếp sử dụng đất còn người chú thì đi ở chỗ khác từ năm 1963. Do vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mẹ ông là phù hợp với khoản 1 Điều 48 Luật đất đai năm 2003 và việc mẹ ông được đăng ký trong sổ địa chính cũng được coi là có giấy tờ hợp lệ về đất ở để được cấp giấy chứng nhận theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003.
--------------------------------------
(1) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
(4) Điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp toà án tuyên bố 1 người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 điều 81 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản".
(5) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đã hết nhưng có quyền yêu cầu chia tài sản chung có nguồn gốc từ thừa kế?
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi có để lại ngôi nhà hai tầng cùng gian nhà thờ trên diện tích đất 974m2 ở quận 5 với bằng khoán thời Pháp chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì thuộc diện giải toả. Số đất này đã chia cho các con ở Việt Nam. Bà cô của tôi sống độc thân, đến khi chết thì ngôi nhà và 300m2 đất đã bị phường lấy cấp cho người khác và người này đã cất lên nhà hai tầng. Có ông chú ở nước ngoài đã lâu, nghe tin về đòi tiếp thu các phần đất còn lại kể cả ngôi nhà thờ hiện nay do cô út đang trông nom. Hiện nay những người lớn tuổi đã chết gần hết, và cha tôi vừa mới mất. Hỏi chúng tôi có quyền gì đối với nhà đất này không? Chúng tôi có khiếu nại được không về việc phường lấy đất của cô tôi cho người khác không? Chú tôi ở nước ngoài có quyền đối với đất của cô út không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì ông bà nội của ông đã chia nhà đất cho các con đang ở Việt Nam gồm: bố anh, bà cô độc thân được chia 300m2, cô út được chia một phần trên có nhà thờ, còn ông chú đi nước ngoài đã lâu nên không chia. Sau khi chia vẫn còn một phần đất chưa chia cho ai (gần với phần đất trên có nhà thờ mà cô út được chia) thì do cô út quản lý sử dụng. Hiện nay tất cả chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bằng khoán điền thổ của thửa đất vẫn đứng tên ông nội.
Như vậy, những phần đã chia cho các thừa kế thì thuộc quyền sở hữu của từng thừa kế.
Đối với diện tích mà bố ông được chia, sau khi bố ông mất thì là di sản thừa kế của ông và các anh chị em ông (nếu có). Ông và các chị em ông được quyền sở hữu diện tích đất này theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự(1): “Cá nhân có quyền... hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Đối với diện tích đất của bà cô độc thân. Khi bà cô mất, vì bà cô không có con cái, và không có di chúc nên diện tích đất của bà cô sẽ là di sản thừa kế của những người thuộc hàng thừa kế thứ hai gồm: các anh chị em ruột của bà cô theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2). Có nghĩa là ông chú ở nước ngoài, bà cô út và bố của ông (nếu bố ông mất sau bà cô độc thân). Trong trường hợp bố ông mất sau bà cô thì các anh chị em ông được xác định là những thừa kế đối với một phần di sản của bà cô (là phần của bố ông). Nay phường đã lấy chỗ đất này cấp cho người khác thì những người thừa kế có quyền làm đơn khiếu nại Uỷ ban nhân dân phường lấy đất này cấp cho người khác hoặc có thể khởi kiện tại Toà án nhân dân buộc người đang sử dụng đất phải trả lại đất và yêu cầu chia thừa kế (vì ông chú ở nước ngoài cũng đang có yêu cầu chia đất thừa kế).
Đối với diện tích chưa chia cho ai: Đây là di sản thừa kế chưa chia của ông nội cho những người thừa kế cùng hàng. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(3) quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Do đó, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều luật này thì những người con của ông bà nội (bao gồm cả người chú ở nước ngoài) là hàng thừa kế thứ nhất đối với phần đất chưa chia. Theo quy định tại Điều 636 Bộ luật dân sự(4) thì thời điểm ông nội chết là thời điểm mở thừa kế.
Nếu thời điểm ông nội mất trước ngày 01/7/1991: căn cứ Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/01/1999 của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế sẽ hết vào ngày 10/3/2003. Như vậy, chỉ có cô út đang quản lý phần nhà đất này thì được tiếp tục quản lý sử dụng.
Nếu thời điểm mở thừa kế từ ngày 01/7/1991 đến trước ngày 01/7/1996 thì theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế.
Khoản 1 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế quy định: “Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác”.
Nếu thời điểm mở thừa kế từ 01/7/1996 trở đi sẽ áp dụng quy định của Điều 648 Bộ luật dân sự, cụ thể: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Trong trường hợp không còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế mà giữa các đồng thừa kế không có tranh chấp thì theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế nếu: “trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
-----------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm b khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại".
(3) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp toà án tuyên bố 1 người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 điều 81 của Bộ luật này.
2. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản".
. Di sản thừa kế của bố mẹ trong trường hợp nhà của bố mẹ bị Nhà nước thu hồi và được đền bù thiệt hại bằng tiêu chuẩn mua 1 nhà khác trả dần trong 10 năm?
Câu hỏi:

Bố mẹ chúng tôi đã mất (bố mất năm 1980, mẹ mất năm 1995), để lại cho bốn anh em tôi sử dụng chung một căn nhà. Năm 2000 căn nhà này bị Nhà nước thu để làm đường và được bồi thường cụ thể: được tiêu chuẩn mua một căn nhà khác trị giá 103 triệu đồng trả dần trong mười năm. Sau khi trả xong tiền thì được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu. Nhưng chỉ có tôi và người em thứ hai đồng ý bỏ tiền mua, còn hai người khác không mua. Tôi đã trả được 50 triệu, số còn lại (53 triệu) thì người em có trách nhiệm trả dần. Hiện nay toàn bộ giấy tờ nhà: quyết định bán nhà, hợp đồng mua nhà, biên lai thu tiền nhà đều mang tên tôi. Nhưng tôi không ở căn nhà này mà là vợ chồng người em ruột tôi đang trực tiếp sử dụng. Hỏi: Di sản thừa kế của bố mẹ tôi trong trường hợp này được xác định như thế nào? Tôi muốn cho người em này được đứng tên sở hữu căn nhà (sau khi thanh toán hết tiền) thì có được không? Thủ tục thế nào? Có cần phải được hai người em khác và vợ tôi đồng ý không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
- Xác định di sản thừa kế: Theo dữ kiện ông cung cấp, nguồn gốc căn nhà bị thu hồi là của bố mẹ ông nên khi bố mẹ ông mất đi thì căn nhà đó là di sản thừa kế của bốn anh em ông và đã được chuyển thành tài sản thuộc sở hữu chung. Ngôi nhà là tài sản chung này chưa được các anh em của ông phân chia thì đã bị Nhà nước thu hồi và những người thừa kế được Nhà nước đền bù thiệt hại bằng hình thức: cho người có nhà bị thu hồi được tiêu chuẩn mua một căn nhà khác và được trả dần trong thời hạn mười năm, sau khi trả tiền xong thì được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Căn cứ điều 172 Bộ luật dân sự năm 1995 (1) quy định: " Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản". Do vậy tiêu chuẩn được mua 1 căn nhà với phưong thức thanh toán tiền mua nhà trong 10 năm cũng là quyền tài sản và là di sản thừa kế của bố mẹ ông (vì  căn nhà được mua trả dần trong 10 năm là mức đền bù khi Nhà nước thu hồi căn nhà của bố mẹ ông).
- Xác định quyền lợi đối với căn nhà được mua do Nhà nước đền bù: căn cứ khoản 1 Điều 3 Nghị định số 22/1998/NĐ-CP quy định về đối tượng được đền bù thiệt hại như sau: “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước có đất bị thu hồi được đền bù thiệt hại về đất khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích... lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng”. Vì căn nhà (có nguồn gốc của bố mẹ) nên là tài sản thuộc sở hữu chung của bốn anh em nên bốn anh em ông là những người được đền bù khi thu hồi đất và có quyền được sử dụng chung căn nhà. Còn sau khi thanh toán hết tiền nhà thì bốn anh em ông được đứng tên sở hữu căn nhà, căn nhà này cũng sẽ được coi là tài sản thuộc sở hữu chung và việc định đoạt đối với tài sản phải được sự thoả thuận của bốn anh em ông.
- Đối với khoản tiền nhà 103 triệu đồng mua căn nhà và số tiền 50 triệu ông đã trả: vì số tiền mua nhà là 103 triệu đồng do đó từng người phải có trách nhiệm trả 25 triệu đồng tương ứng kỷ phần của họ được hưởng. Tuy nhiên, theo dữ kiện của ông cung cấp thì nảy sinh tình huống: trong bốn người em thì ba người đã đi ở chỗ ở khác, chỉ còn một người ở tại căn nhà mới. Và chỉ có hai người đứng ra bỏ tiền mua nhà, còn hai nguời khác không mua. Trong số hai người mua thì ông là người đã trả một nửa tiền nhà (là 50 triệu đồng) và đứng tên làm thủ tục mua nhà, còn người em (đang ở đó) chưa trả tiền nhưng sẽ có trách nhiệm trả nốt số tiền còn lại là 53 triệu.
Tuy nhiên, vì hai người không bỏ tiền mua và cũng không ở tại đây chưa có văn bản từ bỏ quyền lợi đối với căn nhà. Do đó, họ vẫn có quyền nhưng đồng thời họ cũng có trách nhiệm thanh toán lại số tiền tương đương phần của họ được hưởng cho người đã trả tiền mua nhà. Nếu hai người em không tham gia mua nhà mà có văn bản từ chối việc mua nhà được đền bù thì chỉ ông và người em đang ở có quyền đối với căn nhà.
Nay ông không ở căn nhà này và muốn cho người em được đứng tên sở hữu căn nhà (sau khi trả hết tiền nhà) thì có thể căn cứ điều 684 Bộ luật dân sự năm 1995(2) quy định về sự thoả thuận của những người thừa kế về phân chia di sản để thực hiện các những thủ tục sau:
- Hai người em không có ở đó phải có văn bản đồng ý cho người ở lại trả tiền và đứng tên sở hữu.
- Ông với tư cách là người đứng tên làm thủ tục mua nhà phải làm giấy chuyển quyền cho người em để tiếp tục hoàn tất thủ tục mua nhà và phải được xác nhận của bên bán nhà.
- Trường hợp ông muốn người em này phải thanh toán cho ông số tiền mua nhà đã trả (50 triệu) thì hai bên tự thoả thuận về giá như: trả đúng số tiền 50 triệu đồng theo biên lai thu tiền nhà, hoặc trả tiền có tính trượt giá, hoặc trả tiền tương đương phần nhà được hưởng.
- Bốn anh em ông cần có biên bản thoả thuận đồng ý cho một người em ở lại trả nốt tiền mua nhà và đứng tên sở hữu. Giấy tờ này để làm căn cứ cho người em đứng tên sở hữu nhà sau khi trả hết tiền mua nhà.
Điều 684 Bộ luật dân sự năm 1995:
"1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản".
Vì tài sản bị thu hồi có nguồn gốc là di sản của bố mẹ để lại nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(3) thì những người hưởng thừa kế gồm “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Theo quy định trên thì con dâu không được hưởng thừa kế của bố mẹ nên không có quyền đối với di sản thừa kế. Do đó, vợ ông không cần ký vào biên bản thoả thuận cho người em đứng tên sở hữu nhà.
---------------------------------------------------
(1) Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Tài sản bao gồm, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản".
(2) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền yêu cầu Toà án xác nhận quyền thừa kế đối với di sản là quyền sử dụng đất.?
Câu hỏi:

Gia đình tôi có mảnh vườn của tổ tiên để lại cho ông bà tôi sử dụng, xung quanh vườn trồng tre (hiện vẫn còn 2 bụi ở phía Tây). Có 1 thời gian ông nội tôi cho hợp tác xã mượn để thả bèo hoa dâu (từ 1963-1965), làm lớp học sơ tán cho trường cấp III B huyện Đông Anh (từ 1965-1971). Từ năm 1971 đến 1986 gia đình tôi lấy đất vườn để đóng gạch lâu dần thành ao. Ông bà tôi chia cho bố tôi cái ao này để thả bèo, nuôi cá. Năm 1982 ông tôi mất, bà tôi mất năm 1986. Cũng năm 1986 khi ông V- cán bộ địa chính xã đi đo đất thổ cư để lập bản đồ 299 không biết cái ao này của nhà ai đã tạm ghi là của "tập thể". Năm 1990 ông Q chiếm cái ao của gia đình tôi. Năm 1996 ông Q đã được đứng tên trong bản đồ địa chính đối với diện tích cái ao của nhà tôi và cái ao liền kề mặc dù UBND xã cũng thừa nhận cái vườn có nguồn gốc là của ông nội tôi và ông Q không hề có giấy tờ hợp pháp về việc sử dụng đất. Đến cuối năm 2004 ông Q đã xây tường bao quanh hai cái ao để đổ đất san lấp ao chỉ chừa lại hai bụi tre trên đất ở phía Tây thửa vườn. Hiện nay chúng tôi có các xác nhận về việc hợp tác xã mượn đất của ông tôi cho tập thể sử dụng, có cả xác nhận của người cán bộ địa chính đã ghi nhầm cái ao của gia đình tôi là ao tập thể. Hỏi: Căn cứ pháp luật nào để toà án giải quyết việc đòi lại cái vườn của ông nội tôi vì đất này chưa được cấp sổ đỏ, chúng tôi không có bất cứ 1 giấy tờ gì về việc sử dụng đất, nếu tính về thời hiệu thừa kế thì ông bà tôi đã mất được 20 năm rồi?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện anh nêu ông bà anh mất không để lại di chúc nên theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 678 Bộ luật dân sự năm 1995(1) di sản thừa kế của ông bà anh sẽ được chia theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự quy định năm 1995(2): "Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết". Do đó các con của người chết (tức là bố và các cô chú của anh) sẽ là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bà nội anh và được hưởng di sản.
Căn cứ tiểu mục 2.1 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: "Quyền thừa kế quy định tại khoản 1 điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990, điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995 bao gồm quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc quyền yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác". Nên những người con của ông nội anh có quyền yêu cầu toà án xác nhận quyền thừa kế của họ đối với quyền sử dụng  mảnh vườn để có cơ sở đòi lại di sản này. Yêu cầu này là cần thiết vì trên bản đồ 299 lập năm 1986 thì mảnh vườn của ông nội anh (lúc đó đã thành ao) lại được ghi là "tập thể", còn theo bản đồ 364 lập năm 1996 thì mảnh vườn này không còn nữa vì đã bị nhập chung vào thửa 80 (cùng với diện tích cái ao liền kề do ông Q người cùng thôn chiếm năm 1990) và do ông Q đứng tên.
 Cũng theo quy định tại điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995 (3)thì "Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế". Vì ông bà nội anh đã mất cách đây 20 năm nên những người thừa kế chỉ có thể khởi kiện tại toà án nếu thuộc trường hợp không cần áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02 như sau: "Trường hợp trong thời hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung…".
Căn cứ dữ kiện anh nêu vì những người con của ông nội anh không có tranh chấp với nhau liên quan đến việc sử dụng mảnh vườn này mà chỉ có tranh chấp với ông Q là người ngoài, nên mảnh vườn này trở thành tài sản chung của những đồng thừa kế và họ có quyền khởi kiện ông Q để đòi lại theo quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02 như sau:"Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữụ bất hợp pháp…thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".
Căn cứ điều 161 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định về quyền khởi kiện vụ án dân sự như sau: " Cá nhân… có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình".
Căn cứ khoản 5 điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự như "Tranh chấp về thừa kế tài sản".
Khi khởi kiện tại toà án những vấn đề mà những đồng thừa kế cần chứng minh trước toà bao gồm:
- Thứ nhất: Chứng minh cái vườn này không bị tập thể quản lý (tức là chưa vào hợp tác xã) thời kỳ trước khi lập hệ thống bản đồ 299 năm 1986.
Vì điều 634 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định(4): "Cá nhân có quyền …để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật …" nên các đồng thừa kế cần phải chứng minh mảnh vườn là tài sản của ông bà nội anh và không bị tập thể quản lý căn cứ vào các xác nhận của những nhân chứng lịch sử về việc hợp tác xã mượn đất của ông nội anh cho tập thể sử dụng và xác nhận của ông V nguyên là cán bộ địa chính người đã ghi nhầm cái ao của gia đình anh là ao tập thể. Các xác nhận này được coi là chứng cứ để chứng minh việc tập thể mượn đất của ông nội anh vì theo quy định tại điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì " Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho toà án ….. mà toà án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu …của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không…". Nếu cần thiết toà án có thể triệu tập những người xác nhận này tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng.
Thứ hai: Chứng minh quyền sử dụng đất vườn là di sản để được áp dụng quy định của pháp luật về chia tài sản chung (tức là không áp dụng quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện về chia thừa kế).
Vấn đề tiếp theo mà các đồng thừa kế cần phải chứng minh quyền sử dụng mảnh vườn là di sản do ông bà nội anh để lại để được áp dụng điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02 - là quy định về không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế bởi vì kể từ thời điểm ông bà nội của anh mất đến nay thì đã hết thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế.
Căn cứ tiểu mục 1.3 mục 1 phần II Nghị quyết số 02 quy định: "Trong trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có 1 trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu 1.1 và 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác hoặc trên đất có tài sản khác (như: cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác)" thì quyền sử dụng đất cũng được xác định là di sản. Vì trên phần đất ở phía Tây mảnh vườn trước kia (ngoài bức tuờng mà ông Q xây) vẫn còn hai bụi tre do ông bà nội anh trồng (là cây lâụ năm) nên quyền sử dụng thửa vườn được xác định là "di sản thừa kế". Nhưng trong trường hợp này các đồng thừa kế không yêu cầu chia di sản thừa kế mà chỉ yêu cầu đòi lại di sản thừa kế này do ông Q đang chiếm hữu theo quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02 nêu trên.
Tiểu mục 1.1 và 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định:
"1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1,2 và 5 điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế".
Thứ ba: Chứng minh việc sử dụng đất của ông Q là không hợp pháp tức là chứng minh ông Q không được Nhà nước giao đất để sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai thời điểm năm 1990.
Theo dữ kiện anh nêu thì từ năm 1990 ông Q đã chiếm sử dụng cái ao và năm 1996 đã được đứng tên trong bản đồ địa chính. Do vậy các đồng thừa kế cần phải chứng minh ông Q chiếm hữu sử dụng trái phép đối với diện tích vườn có nguồn gốc của ông bà nội anh vì căn cứ khoản 2 điều 10 Luật đất đai năm 2003 quy định: "Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước…".
Căn cứ điều 1 Luật đất đai năm 1987 (5)quy định: "Nhà nước giao đất cho …cá nhân -dưới đây gọi là người sử dụng đất -để sử dụng ổn định lâụ dài.
Người đang sử dụng đất hợp pháp được tiếp tục sử dụng theo quy định của Luật này".
Vì Uỷ ban Nhân dân xã nơi có đất tranh chấp cũng thừa nhận cái vườn có nguồn gốc là của ông nội anh và ông Q không hề có giấy tờ hợp pháp về việc sử dụng đất nên thuộc trường hợp quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết là quyền sử dụng mảnh vườn này là di sản "do người khác chiếm hữu bất hợp pháp". Do đó việc ông Q được đứng tên trong hệ thống bản đồ 364 của xã Vân Nội lập năm 1996 là không đúng quy định tại khoản 1 điều 33 Luật đất đai năm 1993(6) vì không phải là "người đang sử dụng đất" theo quy định tại điều này (tức là không được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất cho sử dụng).
Khoản 1 điều 33 Luật đất đai năm 1993 quy định: "Khi được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho phép thay đổi mục đích sử dụng đất hoặc đang sử dụng đất mà chưa đăng ký thì người sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan Nhà nước có quy định tại khoản 2 điều này.
Người đang sử dụng đất tại xã, phường, thị trấn nào thì phải đăng ký tại xã, phường, thị trấn đó".
            Tóm lại: Sau khi được Toà án công nhận quyền sử dụng mảnh đất vườn của ông nội là di sản thì những người con của ông nội có quyền yêu cầu ông Q là người đang chiếm hữu trái phép diện tích này trả lại di sản.
----------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 674 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(4) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 4 điều 5 Luật đất đai năm 2003.
(6) Điều 46 Luật đất đai năm 2003.
Quyền sử dụng đất ao cũng là di sản thừa kế ?
Câu hỏi:

Năm 1980 bố tôi cùng với người anh trai của mình chung nhau mua một sào ao tổng giá trị là 1.100.000 đồng (phần của bố tôi là 800.000 đồng và của người anh là 300.000 đồng). Mua xong bố tôi không có điều kiện trực tiếp quản lý, sử dụng nên để cho người bác trông nom hộ. Đến năm 1993 khi có nhu cầu sử dụng thì bố tôi đã lấy lại phần diện tích đất ao mà bố tôi đã mua. Đầu năm 2004 bố tôi đột ngột qua đời, khi bố tôi mới qua đời thì bị con của người bác đã chiếm dụng phần đất ao của bố tôi. Trước việc làm của người anh này mẹ tôi đã nhờ Uỷ ban nhân dân xã giải quyết nhưng không đạt kết quả. Hỏi: diện tích phần ao của bố tôi có được coi là di sản thừa kế không? Hiện nay bố tôi đã mất thì ai là người có tư cách giải quyết việc này?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ khoản 2 Điều 637 Bộ luật dân sự(1) quy định về di sản thừa kế như sau: “Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này” và Điều 738 Bộ luật dân sự(2) quy định về thừa kế quyền sử dụng đất “từ người chết sang người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.
Việc xác định quyền sử dụng phần đất ao của bố chị là di sản thừa kế phải căn cứ vào Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 10/8/2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình cụ thể tại tiểu mục 1.1 và 1.2 mục 1 phần II như sau:
“1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
1.2. Đối với đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định như sau:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a. Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà Miền nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất, giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d. Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993;
đ. Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e. Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan, nhưng đến trước ngày luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp...
5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành...".
Như vậy nếu diện tích ao phần của bố chị có một trong các loại giấy tờ như quy định nêu trên thì được coi là di sản thừa kế và được để lại cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật.
Hiện nay bố của chị đã mất nên những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất có tư cách để đòi lại di sản này. Cụ thể là mẹ của chị và các anh chị em của chị là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(3).
Căn cứ khoản 2 Điều 637 Bộ luật dân sự quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Theo dữ kiện bà nêu thì cái ao này do bố của chị và người bác chung tiền mua vào năm 1980. Do đó, cái ao này là tài sản thuộc sở hữu chung của bố và bác theo quy định tại Điều 229 Bộ luật dân sự(4).
Điều 229 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.
Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Tài sản thuộc sở hữu chung là tài sản chung”.
Vì bố của chị góp 800.000 đồng và người bác chỉ góp có 300.000 đồng trong tổng trị giá ao là 1.100.000 đồng, nên đây là tài sản chung theo phần theo quy định tại khoản 1 Điều 231 Bộ luật dân sự(5).
Khoản 1 Điều 231 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”.
Vì hiện nay phần di sản này đang bị các con của bác chị chiếm dụng mà không được sự đồng ý của những người thừa kế là trái pháp luật, nên chị và các đồng thừa kế khác có quyền kiện đòi tài sản thừa kế.
----------------------------------------------------
(1) Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ quy định này mà quyền để thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật của cá nhân được quy định tại khoản 5 điều 113 Luật đất đai năm 2003.
(2) Điều 733 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai".
(3) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 214 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.
Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung".
(5) Khoản 1 điều 216 Bộ luật dân sự năm 2005.
Phần tài sản chung của bố trong khối tài sản chung với vợ hai cũng là di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Bố tôi có 2 vợ và có 10 người con. Mẹ tôi là vợ cả mất năm 1955. Bố mẹ tôi có 1 mảnh đất 467m2 trên có căn nhà cấp 4 của tổ tiển để lại (do bố tôi đứng tên trong bản đồ địa chính). Còn bà vợ kế thì bố tôi lấy năm 1957. Năm 1964 bố tôi tậu thêm 1 căn nhà cấp 4 trên diện tích 620m2 hiện do bà vợ kế đứng tên trong bản đồ địa chính. Năm 1991 bố tôi mất thì bà vợ kế quản lý cả hai diện tích đất này. Đến nay các con có yêu cầu chia thừa kế nhưng bà vợ kế chỉ định chia mảnh đất 467m2 (đứng tên bố tôi) cho 6 người con trai (không chia cho 4 người con gái). Còn mảnh đất 620m2 mà bà đứng tên thì bà chỉ muốn chia cho 5 người con riêng của mình chứ không cho các con của bà cả. Hỏi: Bà vợ hai của bố tôi có quyền gì đối với mảnh đất 467m2 đứng tên bố tôi không? Giả sử những người con của bà cả muốn được chia di sản thừa kế theo pháp luật đối với cả hai thửa đất thì được không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
- Đối với mảnh đất 467m2: Theo quy định tại điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì : "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập hợp pháp do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân... ". Vì diện tích đất này là tài sản của bố mẹ ông (tức là bà vợ cả) do tổ tiên để lại có từ trước khi lấy bà vợ kế nên không phải là tài sản chung giữa  bố ông và bà vợ kế. Hơn nữa trong bản đồ địa chính của xã thì chỉ có bố ông đứng tên. Do đó bà vợ kế không có quyền định đoạt đối với diện tích đất này. Căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm1995 (1)quy định về hàng thừa kế thứ nhất gồm:"vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết". Do đó 10 người con của bố ông với hai  bà vợ là những đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với khối di sản thừa kế chưa phân chia của bố mẹ ông (là diện tích 467m2). Căn cứ điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995 (2) thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 10 năm  kể từ thời điểm mở thừa kế (tức là thời điểm người để lại di sản chết). Do đó đối với diện tích đất này thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đã hết vào năm 2001. Tuy nhiên căn cứ tiểu mục a mục 2.4 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: "Sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và có yêu cầu toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định về chia tài sản chung". Do đó nếu phù hợp với các điều kiện nêu trên thì những người con này có quyền tự phân chia tài sản thuộc sở hữu chung là diện tích 467m2 này mà không cần sự can thiệp của người vợ kế.
-  Đối với mảnh đất 620m2: Theo quy định của khoản 1 điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (3)thì diện tích đất này là "Tài sản chung vợ chồng" của bố ông và bà vợ kế (vì phát sinh sau khi bố ông kết hôn với bà này). Do đó một nửa khối tài sản này là phần tài sản của bố ông còn một nửa là của bà vợ hai. Bố ông mất năm 1991 không để lại di chúc do đó căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 thì bà vợ hai và 10 người con của bố ông là những người đồng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với phần di sản thừa kế của bố ông (là một nửa diện tích 620m2).Tuy nhiên vì đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế nên việc phân chia một nửa diện tích này sẽ theo quy định tại tiểu mục a mục 2.4 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP - TANDTC nếu đủ điều kiện để xác định đấy là tài sản chung của những người này.
Tóm lại: Những người con của bà vợ cả đều có quyền được yêu cầu chia cả hai diện tích đất nêu trên theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung chứ không phải theo quy định pháp luật về phân chia di sản thừa kế vì đã hết thời hiệu khởi kiện.
------------------------------------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3) Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”.  
Đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng không còn là di sản thừa kế ?
Câu hỏi:

Cha mẹ tôi trước đây có một số đất ruộng ở vùng Cần Giuộc (Long An). Từ năm 1970 do chiến tranh cha mẹ tôi không canh tác được nên giao cho một số người láng giềng canh tác. Những người này đã hoàn toàn chiếm đoạt đất đai của cha mẹ tôi, sự việc đã được trình bày với nhà chức trách địa phương từ những năm đầu 1975 để xin giải quyết nhưng không có kết quả. Năm 1999 cha tôi mất, năm 2002 mẹ tôi mất. Chúng tôi phải mua lại một miếng đất của cha mẹ chúng tôi từ những người chiếm đoạt để chôn cất và xây mồ mả cho cha mẹ. Tháng 7/2002 tôi có dịp về quê để yêu cầu địa phương cứu xét việc các hộ dân lấn chiếm lấy đất ruộng của cha mẹ tôi từ năm 1970. Khi tiếp xúc với Uỷ ban nhân dân huyện Cần Giuộc tỉnh Long An, tôi được trả lời là vì bỏ chạy lên Sài Gòn nên Nhà nước hợp thức hoá bằng một luật lệ nào đó cho những người chiếm đất của gia đình tôi. Hỏi: chúng tôi có được xác định là những người thừa kế đối với di sản thừa kế của cha mẹ để lại và liệu chúng tôi có thể khiếu nại lấy lại toàn bộ hoặc một phần nào đó các mảnh đất này không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện của ông cung cấp có thể xảy ra các trường hợp  sau:
- Trường hợp 1: Nhà nước đã có quyết định thu hồi đất đó và quyết định giao cho người khác quản lý sử dụng (là những người mà gia đình ông phải trả tiền cho họ để mua đất làm nơi chôn cất mồ mả).
- Trường hợp 2: Nhà nước không có quyết định thu hồi đất nhưng lại có quyết định giao đất đó cho người khác (vì lý do chiến tranh nên gia đình ông không canh tác nữa mà cho những người láng giềng mượn đất để canh tác. Căn cứ dữ kiện ông nêu thì từ năm 1975 gia đình ông đã tiến hành đòi lại đất này nhưng chưa có kết quả, mặt khác gia đình ông đã chuyển lên Sài Gòn sinh sống).
- Trường hợp 3: Nhà nước không có quyết định thu hồi cũng như giao đất cho người khác và do đất bỏ hoang nên bị người khác chiếm dụng.
Đối với trường hợp 1 và 2: Căn cứ khoản 2 Điều 10 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Do đó nếu thuộc hai trường hợp đầu thì không còn là di sản thừa kế của cha mẹ ông nữa và ông không thể lấy lại diện tích đất này.
Đối với trường hợp 3: Nếu ruộng đất của cha mẹ ông chưa bị Nhà nước thu hồi, quản lý hoặc giao cho người khác quản lý mà do những người mượn đất để canh tác xưa kia tự ý chiếm sử dụng mặc dù gia đình ông đã đòi lại đất thì gia đình ông có thể đòi lại đất nếu có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Cụ thể phải có giấy tờ và đất đó được coi là di sản thừa kế.
Căn cứ tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 10/8/2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì “giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất” cũng được coi là giấy tờ hợp lệ. Như vậy, nếu có giấy tờ của chế độ cũ cấp cho bố mẹ ông thì đất đó trở thành di sản thừa kế của bố mẹ ông để lại cho ông và các anh em (nếu có) là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) đối với trường hợp thừa kế theo pháp luật khi người chết không để lại di chúc.
Căn cứ Điều 136 Luật đất đai năm 2003 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai được xác định như sau:
- Trường hợp đất canh tác đó chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc người đang sử dụng đất có các giấy tờ hợp lệ khác theo quy định của Luật đất đai năm 2003 về quyền sử dụng đất thì thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân nơi có đất để yêu cầu giải quyết. Trình tự thủ tục giải quyết tại Uỷ ban nhân dân theo quy định tại khoản 2 Điều này.
- Trường hợp đất đó đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có các giấy tờ hợp lệ theo quy định của Luật đất đai năm 2003 thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân nơi có đất theo quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 136 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết.
2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:
a. Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;
b. Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng”.
Trong cả hai trường hợp thì trước khi gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc Toà án nhân dân, gia đình ông cần phải gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi có đất để được hoà giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2003.
Điều 135 Luật đất đai năm 2003 quy định:
“1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai.
Thời hạn hoà giải là ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn.
Kết quả hoà giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất. Trường hợp kết quả hoà giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chuyển kết quả hoà giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định về quản lý đất đai”.
-----------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền sở hữu tài sản được xác lập theo bản án của Toà án về chia thừa kế
Câu hỏi:

Gia đình tôi có một mảnh đất 100m2 của ông cha để lại. Ông bà tôi có bốn người con: hai trai (bố tôi và chú ruột tôi) và hai gái (đã đi lấy chồng). Ông nội tôi mất sớm. Bố tôi sinh ra có một mình tôi thì nhập ngũ đi bộ đội vào Nam năm 1965 và hy sinh năm 1966. Mẹ tôi ở vậy nuôi tôi và trông nom bà nội. Năm 1972 mẹ tôi xây được một ngôi nhà bốn gian mái ngói. Năm 1973 mẹ tôi đi bước nữa và bà nội đã đuổi mẹ tôi. Năm 1975 mẹ tôi làm đơn kiện đòi bồi thường công sức. Năm 1979, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã giải quyết. Tại án hộ số 334/PTDS đã chia phần cho mẹ tôi được hai gian nhà, bà tôi được hai gian, sân gạch chỗ nào liền nhà chỗ ấy. Bếp và bể sử dụng chung và ghi nhận sự thỏa thuận của mẹ tôi, bà tôi và chú tôi là thống nhất dành cho tôi khối tài sản này. Nhưng do cán bộ địa phương không biết được quyết định của Tòa án nên đến năm 1998 đã cấp sổ đỏ cho chú tôi mà tôi không biết gì. Năm 2000 bà tôi chết không để lại di chúc. Chú tôi vẫn thường nói tôi không có quyền gì đối với nhà đất này. Vậy nhà đất mà chú tôi đang đứng tên có còn là di sản thừa kế của bà nội không? Tôi phải làm gì để đòi lại phần của tôi?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 254 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Quyền sở hữu có thể được xác lập căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác”.
Căn cứ quyết định tại án hộ số 334/PTDS ngày 29/8/1975 của Toà án thành phố Hà Nội (không có kháng cáo, kháng nghị) thì những người có quyền lợi là bà nội, mẹ bà cùng thống nhất để cho bà hưởng toàn bộ diện tích nhà đất. Do đó bà có quyền sở hữu khối tài sản này theo quyết định của Toà án. Năm 2000 bà nội mất, chú của bà không có quyền được yêu cầu chia nhà đất này vì không phải là di sản thừa kế của bà nội.
Căn cứ khoản 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án... thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật”. Như vậy, quyết định tại án hộ số 334/PTDS của Toà án thành phố Hà Nội là một trong các loại giấy tờ để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì trong án hộ của Toà án đã quyết định bà là người được hưởng toàn bộ khối tài sản chứ không phải là người chú. Do đó, việc cấp giấy chứng nhận cho người chú là không đúng.
Căn cứ khoản 2 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực từ 01/01/2005 quy định những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong đó có: “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản”. Do đó, bà có thể gửi đơn ra Toà án nhân dân nơi có nhà đất để yêu cầu người chú phải trả lại tài sản thuộc quyền sở hữu của bà.
---------------------------------------
(1) Điều 246 Bộ luật dân sự năm 2005.
Đất là nhà thờ họ không được chia thừa kế?
Câu hỏi:

Tôi đang quản lý sử dụng 1700m2 đất tại Văn Hội, Văn Bình, Thường Tín, Hà Tây. Nguồn gốc đất là của bố mẹ chồng tôi được ông nội chia cho. Trên mảnh đất này xưa kia đã từng có nhà thờ của họ Nguyễn - một dòng họ có từ hơn 300 năm nay, nhưng các ngôi nhà thờ họ đã bị chiến tranh tàn phá và đã bị dỡ bỏ từ lâu chỉ có ngôi nhà ở do mẹ chồng tôi xây lại vào năm 1983 trên nền ngôi nhà ở cũ của bố mẹ chồng. Cuối năm 1983 khi mẹ chồng tôi mất thì giao lại cho tôi tiếp tục quản lý trông nom nhà cửa. Trong bản đồ địa chính xã Văn Bình năm 1986 và 1993 tôi là người đứng ra kê khai diện tích đất này. Hiện nay trên diện tích đất này ngoài ngôi nhà của mẹ chồng xây năm 1983 còn có ngôi nhà tôi xây cho các con tôi ở, sân gạch và cây cối. Năm 2001 tôi đã đồng ý cho một số người trong dòng họ Nguyễn góp tiền để sửa sang lại ngôi nhà (25 triệu đồng) để dùng làm nơi thờ cúng dòng họ và cho những người thuộc dòng họ Nguyễn đến thắp hương vào ngày cúng giỗ. Nhưng lợi dụng việc này mà năm 2003 có một người cháu của tôi đã đứng lên thu thập chữ ký của một số trưởng chi họ khởi kiện đòi nhà thờ họ và đòi chia thừa kế đất đai của tổ tiên. Vậy như thế nào thì coi là đất của dòng họ? Nếu là đất thờ cúng của dòng họ thì có thể yêu cầu chia thừa kế hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ khoản 1 phần IV Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước quy định: “Để thực hiện thống nhất quản lý ruộng đất, tất cả các tổ chức và cá nhân sử dụng đất đều phải khai báo chính xác và đăng ký các loại ruộng đất mình sử dụng vào sổ địa chính của Nhà nước. Uỷ ban nhân dân xã phải kiểm tra việc khai báo này”. Theo dữ kiện bà nêu thì diện tích đất này có nguồn gốc từ ông nội của chồng chứ không phải là đất của dòng họ Nguyễn. Sau khi mẹ chồng mất năm 1983 thì do bà quản lý sử dụng. Trong bản đồ địa chính của xã Văn Bình năm 1986 thể hiện bà là người đứng ra kê khai đăng ký việc sử dụng đất. Trong bản đồ địa chính năm 1993 thì bà cũng đứng ra kê khai và đóng tiền sử dụng đất. Do đó bà được xác định là người sử dụng đất chứ không phải dòng họ Nguyễn và dòng họ Nguyễn không uỷ quyền cho bà thay mặt dòng họ kê khai.
Theo dữ kiện bà nêu thì trước kia trên diện tích đất này đã từng có nhà thờ họ Nguyễn nhưng đã không còn hiện nay chỉ có ngôi nhà ở do mẹ chồng xây năm 1983, sau khi mẹ chồng chết thì giao lại cho bà tiếp tục quản lý nên tài sản này thuộc quyền sử dụng của bà. Điều 199 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Trong trường hợp chủ sở hữu trực tiếp thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình, thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình, nhưng không được gây thiệt hại và làm ảnh hưởng đến lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác”.
Việc bà dành hai gian của ngôi nhà bà đang ở làm nơi thờ cúng dòng họ Nguyễn là thuộc quyền của chủ sở hữu trong việc sử dụng tài sản của mình.
Căn cứ khoản 1 Điều 234 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ... đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, được tặng, quyên góp, cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng”. Theo dữ kiện của bà nêu thì không có căn cứ xác định ngôi nhà mà bà hiện nay đang sử dụng hai gian làm nhà thờ dòng họ Nguyễn mà của mẹ chồng xây dựng từ năm 1983 trên diện tích đất được ông nội của chồng chia cho. Năm 2001 bà có đồng ý cho một số người trong họ Nguyễn đóng góp tiền (với số tiền 25 triệu đồng) để tu sửa nhằm mục đích cho họ đến đây cúng giỗ chứ không phải là bà tặng cho ngôi nhà này làm nhà thờ họ Nguyễn. Việc đóng góp tiền tu sửa ngôi nhà của một số người trong họ được coi là đồng sở hữu chung theo phần theo quy định tại khoản 1 Điều 231 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Sở hữu chung theo phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu được xác định đối với tài sản chung”. Căn cứ khoản 2 Điều này(4) quy định: “Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền, nghĩa vụ đối với tài sản thuộc sở hữu chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Như vậy việc đóng góp để tu sửa ngôi nhà mà bà dành để thờ cúng họ Nguyễn không phải là điều kiện để xác lập quyền sở hữu của dòng họ đối với ngôi nhà này. Những người đóng góp chỉ có quyền sở hữu đối với phần tài sản trị giá 25 triệu đồng mà mình đã đóng góp. Nếu có tranh chấp và có yêu cầu chia tài sản chung theo phần thì sẽ được trả bằng tiền đã đóng góp.
Giả sử diện tích đất bà đang sử dụng là của dòng họ Nguyễn hoặc ngôi nhà thờ là của dòng họ Nguyễn thì căn cứ khoản 2 Điều 234 Bộ luật dân sự(5) quy định: “Các thành viên của cộng đồng cùng quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản chung theo thoả thuận hoặc theo tập quán, vì lợi ích của cộng đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Nên tài sản này thuộc quyền định đoạt và sử dụng của tất cả các thành viên trong dòng họ. Vì vậy người cháu được một số người trong dòng họ uỷ quyền khởi kiện đòi nhà đất của dòng họ là chưa đầy đủ tư cách đại diện của dòng họ.
Căn cứ khoản 3 Điều 234 Bộ luật dân sự(6) quy định: “Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất không phân chia”. Do đó giả sử diện tích đất và nhà thờ của dòng họ thì cũng không thể chia thừa kế được.
Do vậy, trong vụ kiện này người cháu phải chứng minh tư cách đại diện dòng họ của mình trong việc kiện đòi nhà thờ họ (nếu là nhà thờ của dòng họ) và phải chứng minh diện tích nhà đất mà bà đang sử dụng là tài sản của dòng họ theo quy định tại khoản 1 Điều 234 Bộ luật dân sự.
---------------------------------------------------------
(1) Điều 193 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình thì chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản theo ý chí của mình nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác".
(2) Khoản 1 điều 220 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Sở hữu chung của cộng đồng là sở hữu của dòng họ, thôn, ấp, làng, bản, buôn, sóc, cộng đồng tôn giáo và các cộng đồng dân cư khác đối với tài sản được hình thành theo tập quán, tài sản do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm mục đích thoả mãn lợi ích chung hợp pháp của cả cộng đồng".
(3) Khoản 1 điều 216 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Khoản 2 điều 216 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 2 điều 220 Bộ luật dân sự năm 2005.
(6) Khoản 3 điều 220 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Tài sản chung của cộng đồng là tài sản chung hợp nhất".
Diện tích nhà thuê của Nhà nước không phải là di sản thừa kế theo di chúc?
Câu hỏi:

Vợ chồng ông A có căn nhà nhưng sau đó đã bị Nhà nước quản lý. A có năm người con nhưng chỉ có một người con là B sống cùng trong căn nhà đó trên cơ sở hợp đồng thuê nhà với Nhà nước. A có làm di chúc cho vợ chồng B một phòng, hai phòng còn lại thì bán chia cho bốn người con khác. Sau đó A đã sang tên cho B đứng tên trong hợp đồng thuê nhà. Một thời gian sau căn nhà được Nhà nước bán hoá giá cho người đang ở, đó là gia đình B và A. Gia đình B trả toàn bộ tiền hoá giá. Nay vợ chồng A đã chết vậy những người con khác của A có quyền đòi B bán hai phòng để chia cho họ theo di chúc của A hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Về quyền sở hữu đối với căn nhà: căn nhà thuộc quyền quản lý của Nhà nước nên không còn là tài sản thuộc sở hữu của A. Theo quy định của pháp luật, Nhà nước cho phép những người đang ở tiếp tục ở dưới hình thức thuê có hợp đồng với Nhà nước. Khi B đứng tên chủ hợp đồng thuê nhà có nghĩa là B có quyền và nghĩa vụ của người thuê nhà vì thuộc sở hữu nhà nước. Bốn người con khác của A không có quyền sử dụng căn nhà vì không ở đó, không đứng tên chủ hợp đồng thuê nhà.
Căn cứ Điều 3 Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở: “Mua bán nhà ở là việc chuyển quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở từ bên bán sang bên mua thông qua hợp đồng ký kết bằng văn bản giữa bên mua và bên bán theo quy định của pháp luật...”. Điều 5 Nghị định số 61/CP cũng quy định: “Nhà nước thực hiện việc bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê phần diện tích đang được thuê để người mua nhà có điều kiện cải tạo chỗ ở...”.
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 61/CP thì “Người mua nhà sau khi trả hết tiền và hoàn tất thủ tục nộp lệ phí trước bạ thì được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở...”. Như vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, ông B đã trả toàn bộ tiền hoá giá căn nhà và vợ chồng ông A không có đóng góp gì vào việc mua nhà thì căn nhà đó thuộc sở hữu của ông B. Tuy nhiên, bản thân ông B phải chứng minh được tiền mua nhà là của mình.
- Về di chúc của A: căn cứ Điều 649 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Đồng thời theo quy định tại khoản 1 Điều 637 Bộ luật dân sự(2): “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Song, di chúc này được lập khi căn nhà không phải là tài sản thuộc sở hữu của A mà thuộc sở hữu nhà nước (vì A ở tại đây trên cơ sở hợp đồng thuê với Nhà nước). Sau đó, Nhà nước bán lại cho B và thuộc sở hữu của B nên căn nhà trên không phải là di sản thừa kế.
Do đó, bản di chúc nói trên là không hợp pháp vì nội dung của di chúc là định đoạt phần tài sản không thuộc sở hữu của A nên các con của A không có quyền yêu cầu chia căn nhà trên theo di chúc.
-------------------------------------------
(1) Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005
Đất nghĩa trang gia đình cũng là di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Gia đình tôi có một mảnh vườn diện tích 1ha do ông cha để lại tại thôn An Đôn, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1960 gia đình tôi về thị xã ở. Năm 1975 tôi cho mượn trồng bạch đàn 1 nửa diện tích (phần còn lại là nghĩa trang gia đình). Mảnh vườn của tôi có ranh giới rõ ràng và không có tranh chấp với ai. Nay mẹ tôi đã mất còn các con thì đã cắt hộ khẩu đi nơi khác ở. Vừa qua tôi về quê làm thủ tục xin cấp sổ đỏ và được biết: Tôi chỉ được cấp sổ đỏ phần diện tích làm nghĩa trang gia đình, phần còn lại thì bị thu hồi để giao cho Hội cựu chiến binh trồng cây lâu năm vì cho đó là đất công. Tôi có hỏi các cán bộ lãnh đạo thì được biết trong bản đồ địa chính diện tích đất này không đứng tên ai. Tôi làm gì để được cấp sổ đỏ cho toàn bộ diện tích này?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để được xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho toàn bộ diện tích này ông cần phải chứng minh ông là người sử dụng đất có một trong các  loại giấy tờ về nguồn gốc đất theo quy định tại khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003(1). Tuy nhiên theo dữ kiện ông cung cấp chúng tôi xác định ông không có bất kỳ một loại giấy tờ nào theo quy định tại khoản 1 điều 50 nêu trên, hiện nay trong bản đồ địa chính của xã thì diện tích này cũng không có ai đứng tên. Có nghĩa là qua các đợt kê khai sử dụng đất tại địa phương thì gia đình ông không có ai về để kê khai và thực tế là các anh em của ông đã cắt hộ khẩu đi ở nơi khác do đó không được xác định là người sử dụng đất.
Căn cứ  khoản 4 điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định như sau: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đã được sử dụng đất ổn định từ trước ngày 15/10/1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất."
Như vậy đối với những trường hợp không có giấy tờ về sử dụng đất thì cũng vẫn được xem xét để được cấp giấy chứng nhận nhưng phải có điều kiện phù hợp với điều luật nêu trên.
Đối với một nửa diện tích làm nghĩa trang gia đình ông từ trước đến nay: Theo quy định điểm h khoản 2 điều 13 Luật đất đai năm 2003 về phân loại đất thì "đất nghĩa trang,nghĩa địa" cũng là một loại đất thuộc "nhóm đất phi nông nghiệp".  Tuy ông cũng không trực tiếp ở tại địa phương, không có giấy tờ về sử dụng đất, nhưng thuộc trường hợp đã được sử dụng ổn định từ trước đến nay (để chôn cất cho những người trong gia đình ông) và được Uỷ ban Nhân dân xã Triệu Thượng xác nhận không tranh chấp, phù hợp quy hoạch thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Còn đối với một nửa diện tích đất cho mượn để trồng bạch đàn từ 1975 đến nay: Do ông không ở đây, không kê khai đăng ký với Uỷ ban Nhân dân địa phương theo quy định của Luật đất đai, nên đã bị thu hồi để giao cho Hội cựu chiến binh sử dụng vào mục đích trồng cây.
--------------------------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a. Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà, chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d. Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993 nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15/10/1993;
đ. Giấy tờ về thanh lý hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e. Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất".
Diện tích nhà thuê của nhà nước không phải là di sản thừa kế
Câu hỏi:

Gia đình chúng tôi sống tại tầng hai (gồm hai phòng diện tích 56,3m2) ở số 70 phố Hàng Cót từ năm 1960. Đây là nhà thuê của Nhà nước do chồng tôi đứng tên chủ hợp đồng thuê nhà. Năm 1979 chồng tôi chết và năm 2000 tôi được Công ty kinh doanh nhà số 2 ký lại hợp đồng thuê nhà do tôi đứng tên là chủ hợp đồng. Tại thời điểm hiện nay (2004) trong hợp đồng thuê nhà tuy có tên mười thành viên của gia đình nhưng thực tế chỉ có ba người là ở tại đây, còn những thành viên khác đã đi ở chỗ khác từ lâu trong đó có một người đã chết năm 2001. Tất cả các thành viên trong gia đình cũng đều có hộ khẩu tại đây. Hiện nay người con gái thứ của tôi tên là C, đã đi lấy chồng ở chỗ khác từ năm 1985 đang tranh chấp với mẹ để đòi chia một phòng. Hỏi: chị C có quyền đòi tôi chia một phòng theo pháp luật về thừa kế không? Những người đã chết hoặc không còn ở đó có còn quyền lợi đối với nhà thuê của Nhà nước không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 500 Bộ luật dân sự(1) quy định quyền tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê nhà khi bên thuê chết như sau: “Trong trường hợp bên thuê nhà chết mà vẫn còn thời hạn thuê, thì người cùng chung sống với bên thuê có quyền tiếp tục thực hiện hợp đồng thuê cho đến khi hết hạn”.
Theo dữ kiện bà nêu thì gia đình bà ở tại hai phòng tại tầng hai số 70 phố Hàng Cót từ năm 1960 trên cơ sở hợp đồng thuê nhà với Nhà nước do chồng bà đứng tên chủ hợp đồng thuê. Do đó, sau khi chồng bà mất, bà và những thành viên còn lại vẫn có quyền được tiếp tục ở tại nhà thuê của nhà nước và khi Nhà nước ký lại hợp đồng thuê nhà thì bà là vợ của bên thuê nhà (là chồng bà) có quyền đứng tên trong hợp đồng đó.
Căn cứ hợp đồng thuê nhà năm 2000 giữa một bên là Công ty kinh doanh nhà số 2 và một bên là bà, theo quy định của Bộ luật dân sự (tại phần II Hợp đồng thuê nhà) thì bà có tư cách là bên thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước đối với hai phòng 56,3m2 tại tầng hai số 70 phố Hàng Cót.
Căn cứ Điều 5 Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở quy định: “Nhà nước thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê phần diện tích đang được thuê để người mua nhà có điều kiện cải thiện chỗ ở...”. Vì hai phòng này là nhà thuộc sở hữu nhà nước, hiện nay chưa được thanh lý hoá giá theo quy định tại Nghị định số 61/CP nên chưa thuộc quyền sở hữu của gia đình bà. Vì vậy khi chồng bà mất vào năm 1979 thì hai phòng này không phải là di sản thừa kế của chồng bà, những người đang ở đó sẽ có quyền được tiếp tục ở.
Căn cứ Điều 446 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Trong trường hợp bán nhà ở đang cho thuê, thì bên thuê được ưu tiên mua, nếu chưa có chỗ ở khác và đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người thuê nhà”. Như vậy khi Nhà nước có chủ trương hóa giá bán thanh lý nhà cho người thuê nhà thì bà có quyền được đứng tên mua nhà của Nhà nước theo quy định của Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở.
Căn cứ Điều 5 Quyết định số 4565/QĐ-UB ngày 27/10/1987 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội quy định về quyền ký tiếp hợp đồng thuê nhà như sau: “Người có chỗ ở khác ổn định dù chưa cắt chuyển hộ khẩu, người ở nhờ dù đã được đăng ký hộ khẩu không có quyền ký tiếp hợp đồng thuê nhà”. Theo dữ kiện bà nêu thì hiện nay có một số người không còn ở tại hai căn phòng này cụ thể: có một người đã chết và một số người khác đã đi ở chỗ khác. Do vậy theo quy định của pháp luật thì họ không có quyền lợi gì đối với diện tích thuê này.
------------------------------------------------------
(1) Bộ luật dân sự năm 2005đã bỏ quy định này.
(2) Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ quy định này.
. Điều kiện được để thừa kế quyền sử dụng đất
Câu hỏi:

Cha tôi có một mảnh đất và vợ thứ nhất của tôi sống trên đó cùng với cha tôi. Hiện nay tôi sống với người vợ thứ hai nhưng vẫn giữ hộ khẩu tại mảnh đất người vợ thứ nhất sử dụng. Năm 1966 cha tôi chết người vợ thứ nhất tiếp tục sử dụng và đóng thuế. Đến năm 1996 Uỷ ban nhân dân xã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người vợ thứ nhất và một người con đầu của tôi mà tôi không được biết. Hỏi diện tích đất mà vợ thứ nhất của tôi đang sử dụng có phải là di sản thừa kế của cha tôi hay của vợ cả? Nay tôi muốn đòi chỗ đất này để chia đều cho hai vợ và các con có được không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ khoản 2 Điều 637 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế”. Điều 738 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo di chúc và theo pháp luật phù hợp với Bộ luật này và pháp luật về đất đai”.
Tiểu mục 1.1 và 1.2 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định:
“1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản. 
1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy vì diện tích đất nêu trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người vợ cả và một người con của ông từ năm 1996 nên không phải là di sản thừa kế của cha ông vì không có các giấy tờ theo quy định.
Tuy diện tích đất nêu trên được cấp giấy chứng nhận cho vợ cả và một người con của ông nhưng được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông và người con này. Vì:
Theo quy định tại Điều 23 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định về quyền có tài sản riêng của con như sau: “Con có quyền có tài sản riêng...”.
Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung”. Do đó tuy chỉ có vợ cả được cấp giấy chứng nhận nhưng phần tài sản của vợ cả trong khối nhà đất đó vẫn được xác định là tài sản chung vợ chồng của vợ cả với ông.
Còn quan hệ giữa ông với bà vợ hai (nếu kết hôn sau năm 1959) thì không được coi là hôn nhân hợp pháp. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác”. Mặt khác người vợ thứ hai cũng không có đóng góp vào khối tài sản này nên cũng không có quyền lợi trong đó.
Do đó nếu ông đồng ý nhập phần tài sản của mình trong khối tài sản chung với người vợ cả vào khối tài sản với người vợ hai thì đó sẽ là tài sản chung giữa ông và bà vợ hai theo quy định tại Điều 229 Bộ luật dân sự(3).
Điều 229 Bộ luật dân sự quy định: “Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.
Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Tài sản thuộc sở hữu chung là tài sản chung chung”.
Hiện nay ông muốn đòi lại diện tích đất này để chia cho hai người vợ và các con thì do đây là tài sản chung của ông và người vợ cả nên ông chỉ có quyền định đoạt phần tài sản của mình theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(4).
Điều 201 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền định đoạt của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”.
Trong trường hợp người vợ cả không đồng ý thì căn cứ khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 ông có quyền yêu cầu Toà án nhân dân chia tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thoả thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thoả thuận được thì có quyền yêu cầu Toà án giải quyết”.
---------------------------------------------------
(1) Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ quy định này. Vấn đề này được quy định tại khoản 5 điều 113 Luật đất đai năm 2003: "Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật".
(2) Điều 733 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai".
(3) Điều 214 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.
Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung".
(4) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
Xác định di sản thừa kế của bố trong khối tài sản chung với con?
Câu hỏi:

Theo sổ đỏ hiện nay tôi đang giữ thì diện tích đất 655m2 tại phường Thanh Trì, Hoàng Mai, Hà Nội đứng tên bố tôi. Hiện nay chỉ có tôi và chị dâu tôi sử dụng diện tích này mặc dù bố mẹ tôi có sáu người con (chồng của chị dâu tôi mất năm 2000). Nguồn gốc của diện tích 655m2 đất này như sau: 360m2 của cụ H (là chị gái bà nội tôi) và cụ H đã có giấy di chúc cho tôi; 257m2 thì năm 1990 bố tôi bán cho người khác (có giấy viết tay) nhưng đến năm 1991 tôi đã bỏ tiền ra chuộc lại ngay (nhưng vẫn để chung trong giấy chứng nhận của bố mà không yêu cầu địa phương làm thủ tục tách thửa). Hỏi: Nay bố tôi đã mất tôi phải làm thế nào để được công nhận quyền sở hữu đối với diện tích 257m2 đã bỏ tiền ra chuộc và diện tích đất mà cụ H đã di chúc cho tôi vì hiện nay giữa tôi và người chị dâu chưa phân định ranh giới sử dụng đất? Di sản thừa kế của bố tôi được xác định như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì toàn bộ diện tích đất 655m2 đã được cấp giấy chứng nhận mang tên bố của chị nên là tài sản của bố chị. Khi bố chị chết và không để lại di chúc thì diện tích này là di sản thừa kế của bố chị để lại cho những người thừa kế theo pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định về hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Như vậy sáu người con của bố chị là hàng thừa kế thứ nhất. Còn người chị dâu hiện đang trực tiếp sử dụng diện tích đất nêu trên không thuộc hàng thừa kế của bố chị mà chị dâu và các con chỉ được hưởng kỷ phần thừa kế của anh trai chị trong khối tài sản thừa kế của bố chị được hưởng nếu anh trai còn sống. (Vì chồng của người chị dâu này đã mất vào năm 2000 có nghĩa là sau thời điểm mở thừa kế của bố chị nên người này vẫn được hưởng thừa kế theo quy định tại khoản 1 Điều 638 Bộ luật dân sự(2)).
Khoản 1 Điều 638 Bộ luật dân sự quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết”.
Nếu những người anh em khác của chị khước từ quyền thừa kế thì chỉ có chị và người chị dâu đang ở đó phải giải quyết về vấn đề phân chia di sản.
Căn cứ Điều 637 Bộ luật dân sự(3) quy định di sản thừa kế gồm: “Tài sản riêng của người chết, phần tài sản riêng của người chết trong tài sản chung với người khác". Vì trong diện tích đất này có 360m2 là đất của cụ H và đã để lại cho chị theo di chúc và 257m2 là đất của chị chuộc lại từ năm 1991 nên di sản thừa kế của bố chị chỉ còn lại 38m2.
Để bảo vệ quyền lợi chị cần phải thực hiện các thủ tục sau:
- Một là: Yêu cầu Toà án xác nhận quyền thừa kế đối với 360m2 đất của cụ H để lại cho chị theo di chúc. Căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự(4) thì chị chỉ có quyền yêu cầu Toà án giải quyết vấn đề này trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm cụ H mất. Trường hợp hết thời hiệu mười năm thì chị vẫn có quyền yêu cầu Toà án cho hưởng diện tích này nếu phù hợp với quy định của điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/ NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.
Điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...".
Cụ thể là Toà án sẽ xác định 360m2 này là tài sản thuộc sở hữu chung theo di chúc của cụ H nếu các đồng thừa kế của cụ H đồng ý không có tranh chấp về hàng thừa kế và cùng đồng ý cho chị hưởng di sản theo di chúc của cụ H.
- Hai là: Yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu đối với diện tích đất 257m2 mà chị chuộc lại năm 1991. Vì diện tích này đã bị bố chị bán đứt cho người khác vào năm 1990 do đó không còn thuộc sở hữu của bố chị nữa. Sau đó chị lại bỏ tiền mua diện tích đất này nên nó là tài sản của chị. Trường hợp này thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân vì đất này đã được cấp giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003.
Khoản 1 Điều 136 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí được thì giải quyết như sau:
1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”.
Trên cơ sở quyết định của Tòa án, chị mới có căn cứ để xác định ranh giới sử dụng diện tích đất với chị dâu. Nếu chị dâu sử dụng quá phần của mình thì phải trả lại cho chị. Trong trường hợp đã xây nhà không thể trả lại thì chị dâu phải có trách nhiệm thanh toán lại bằng tiền theo giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm hiện nay.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 635 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất của ông bà để lại là di sản ?
Câu hỏi:

Bà nội tôi có ba người con, khi bà nội tôi chết để lại một ngôi nhà cấp 4 gắn liền với quyền sử dụng đất (không có giấy tờ về nhà đất) và không có di chúc. Hiện nay bác tôi lấy tư cách là con trưởng nên muốn hưởng tất cả di sản của ông bà. Bác tôi đã tự ý xây dựng trên nền đất chung đó và không có ý định chia cho cha tôi. Cha tôi không khoẻ mạnh như người bình thường nên không ngăn việc xây dựng của bác tôi. Hỏi: Theo pháp luật thì cha tôi có quyền yêu cầu được chia một phần đất đó không vì cũng là con trai của bà tôi?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì bà nội mất không có di chúc nên việc thừa kế di sản của bà nội của anh sẽ theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định về hàng thừa kế thứ nhất gồm: “Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Như vậy, ba người con của bà nội là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Theo quy định tại khoản 2 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì ba người con này sẽ được hưởng kỷ phần bằng nhau.
- Trường hợp thứ 1: ba người con này đã thống nhất di sản thừa kế thuộc tài sản thuộc sở hữu chung. Căn cứ điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết”.
Như vậy, nếu giữa các thừa kế cùng thống nhất đó là tài sản chung thì việc định đoạt tài sản chung phải tuân theo quy định của pháp luật. Tại khoản 2 Điều 237 Bộ luật dân sự(3) quy định về định đoạt tài sản chung như sau: “Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”. Do đó, việc bác của anh tự ý xây dựng trên nền đất chung không có sự đồng ý của đồng sở hữu chung khác (ví dụ là bố anh) là không được. Bố anh có thể khởi kiện tại Toà án nhân dân yêu cầu chấm dứt hành vi xâm hại đến tài sản thuộc sở hữu chung hoặc có thể yêu cầu Toà án phân chia tài sản thuộc sở hữu chung cho từng người để tiện định đoạt.
- Trường hợp thứ 2: Đã có sự phân chia di sản thừa kế hoặc chưa có sự phân chia. Theo quy định của pháp luật thì một trong những người thừa kế có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế. Muốn được Toà án thụ lý giải quyết thì phải còn trong thời hạn yêu cầu chia thừa kế. Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(4) thì "thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế".
Tuy nhiên nếu hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế thì các thừa kế vẫn có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung nếu có thoả thuận như quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP nêu trên.
Trong khi chờ đợi Toà án giải quyết bố anh có thể làm đơn gửi Uỷ ban nhân dân phường nơi có tài sản yêu cầu bác của anh tạm đình chỉ xây dựng để chờ Toà án giải quyết.
-------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 2 điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Căn cứ xác định quyền sử dụng đất là di sản
Câu hỏi:

Mẹ tôi mất năm 1974, còn bố mất năm 1987. Trước khi mất bố tôi đã chia đất cho ba con trai (không cho con gái vì đã lấy chồng đi ở nơi khác). Tuy nhiên, chỉ phân chia miệng chứ không làm giấy tờ gì nhưng các con cái đều chấp nhận không có ý kiến gì. Tôi là con cả được chia ở phần trong diện tích 144m2 đã có một căn nhà cấp bốn, nay đã xây thành nhà ngói. Tôi ở cùng với bố mẹ từ năm 1950 tại nhà này. Năm 2001 tôi đã được cấp sổ đỏ vì có tên trong sổ địa chính từ trước đến nay. Hiện nhà đã dột nát tôi muốn bán một phần đất đã được bố chia cho tôi để lấy tiền xây nhà thì các chị của tôi về đòi chia thừa kế đối với phần đất của bố mẹ đã cho tôi. Hỏi: diện tích đất mà tôi đã xây căn nhà trên đất là di sản thừa kế của bố mẹ tôi hay là tài sản thuộc sở hữu của tôi?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện ông nêu thì bố mẹ của ông đã chia đất cho các con trong đó có ông và các chị gái không có ý kiến gì. Tuy nhiên, việc chia đất không có giấy tờ và nay các chị gái lại đòi quyền lợi đối với đất đó do đó các chị của ông cần phải chứng minh đó là di sản thừa kế của bố mẹ. Nếu xác định là di sản thừa kế thì các chị của ông có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế diện tích đất này theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Căn cứ mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định về các căn cứ xác định quyền sử dụng đất là di sản thừa kế như sau:
“1.1. Đối với đất do người chết để lại không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.
1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc và thời điểm mở thừa kế.
1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và 1.2 mục 1 này, nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sản xuất kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế...”.
Như vậy đối chiếu vào trong trường hợp của ông thì diện tích đất mà các chị của ông có yêu cầu chia thừa kế đã được cấp giấy chứng nhận cho ông chứ không phải là bố mẹ ông do đó không thuộc quy định tại trường hợp 1.1 nêu trên. Mặt khác ông lại là người đứng tên trong sổ địa chính chứ không phải bố mẹ ông nên cũng không thuộc trường hợp 1.2. Và vì trên đất đó không còn tài sản của bố mẹ (mà là tài sản do ông tạo dựng) do đó cũng không thuộc trường hợp 1.3).
Mặt khác giả sử diện tích đó là di sản thừa kế hoặc trên đất có tài sản của người chết gắn liền với quyền sử dụng đất thì Toà án chỉ giải quyết yêu cầu chia thừa kế trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(1).
Điều 648 Bộ luật dân sự quy định: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Vì đất đó đã được bố mẹ cho và ông đã sử dụng lâu dài ổn định từ trước khi bố mất (tức là trước năm 1987). Trong quá trình sử dụng ông đã xây dựng nhà trên đó và đã được cấp giấy chứng nhận. Do đó diện tích đất này là tài sản thuộc sở hữu của ông và ông có toàn quyền định đoạt theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(2).
Điều 201 Bộ luật dân sự quy định: “…Chủ sở hữu có quyền tự định mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc tự mình thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản”.
------------------------------------------------
(1) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(2) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
Điều kiện để xác định quyền sử dụng đất là di sản thừa kế
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi mất đi (bà mất năm 1998, ông mất năm 2000) có để lại hơn 1000m2 đất, hiện nay cô chú ruột tôi đang sử dụng và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông bà vẫn đứng tên trong sổ địa chính. Trên đất không có nhà cửa cây cối gì vì cô chú đã phá hết chỉ còn đất không. Còn bố tôi (là con cả) đã mất từ năm 1989, mẹ con chúng tôi hiện nay ở chỗ khác và không có hộ khẩu tại mảnh đất đó. Nay cô chú tôi muốn bán hết chỗ đất này để dùng cho việc riêng. Hỏi gia đình tôi có quyền được hưởng một phần trong số đất nói trên không? Mẹ tôi và tôi thì ai là người được xác định là người thừa kế của ông bà nội vì bố tôi đã mất trước ông bà?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huytrả lời:
Vì mảnh đất nêu trên là tài sản của ông bà nội của ông nên khi ông bà mất đi thì mảnh đất này là di sản thừa kế của ông bà nếu phù hợp với quy định của pháp luật cụ thể: tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự hôn nhân và gia đình ban hành ngày 10/8/2004 quy định như sau: “Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Căn cứ dữ kiện ông nêu (cụ thể mảnh đất hiện nay vẫn mang tên ông bà nội trong sổ địa chính) nên phù hợp với điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 (có hiệu lực từ 01/7/2004) do đó thuộc trường hợp quy định của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP như nêu ở trên.
Vì ông bà nội mất không có di chúc nên những người thừa kế của ông bà sẽ được xác định theo quy định của pháp luật (tức là theo hàng thừa kế theo quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự). Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định về hàng thừa kế theo pháp luật thì con dâu và cháu không thuộc hàng thuộc hàng thừa kế nào của ông bà nội. Có nghĩa là chỉ có cô và chú ruột của ông mới là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông bà.
Vì bố của ông mất trước khi ông bà nội mất nên ông vẫn được xác định là thừa kế thế vị của bố ông theo quy định tại Điều 680 Bộ luật dân sự(2) cụ thể như sau: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống”.
Căn cứ Điều luật nêu trên ông là người thừa kế thế vị của bố và được hưởng kỷ phần của bố ông tương ứng với kỷ phần mà cô và chú của ông được hưởng. Theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(3) thì “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”. Vì ông bà mất từ năm 1998 và năm 2000 nên vẫn còn trong thời hiệu thừa kế do đó trong trường hợp cô và chú của ông không đồng ý chia cho ông một phần đất thì ông có quyền yêu cầu Toà án chia thừa kế đối với di sản của ông bà nội để lại.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
(3) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Đòi lại di sản là quyền sử dụng đất đang do người khác chiếm giữ trái pháp luật
Câu hỏi:

Bố mẹ chồng tôi sinh được ba người con trai. Khi bố mẹ chồng tôi còn sống đã chia đất cho các con (từ năm 1950). Chồng tôi là con thứ hai nên được thửa đất nằm ở giữa liền với cái ao có diện tích 436m2 rộng hơn hai thửa đất còn lại. Phía bên trái là phần đất của anh cả, phía bên phải là của chú út. Còn phần dưới thửa đất thì không giáp nhà ai mà giáp đường làng. Hiện nay diện tích đất này chưa được cấp sổ đỏ, năm 1986 chồng tôi được đứng tên trong sổ địa chính. Từ năm 1994 khi chồng tôi chết thì do tôi đứng tên. Chúng tôi có sáu người con. Năm 2003 Nhà nước mở đường quốc lộ 1A lấy vào phần đất nhà tôi. Do kê khai không rõ ràng nên chú út cũng được Nhà nước bồi thường ở chỗ này. Nhân thể việc này hai người con của chú út đã chiếm luôn 40m2 đất của nhà tôi. Tôi muốn khởi kiện chú út để đòi đất (trên đất không có tài sản gì của vợ chồng tôi mà chỉ có 2 cái quán do con của chú út xây dựng) thì phải làm những thủ tục gì để được Toà án thụ lý giải quyết?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “nếu trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, diện tích đất (40m2) mà chú út chiếm thuộc thửa đất mà chồng bà được bố mẹ chia cho, tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có tên trong sổ địa chính thuộc di sản thừa kế của chồng bà. Diện tích nhà đất này là tài sản chung vợ chồng của chồng bà và bà. Năm 1994 khi chồng bà chết thì một nửa khối tài sản là của bà, còn một nửa khối tài sản là di sản thừa kế chưa chia của bà và sáu người con là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với phần di sản của chồng bà theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1). Vì diện tích nhà đất hiện nay do bà quản lý và đứng tên trong bản đồ địa chính do đó là tài sản thuộc sở hữu chung của bà cùng các con. Theo dữ kiện bà nêu thì các con của chú út đã tự ý chiếm 40m2 đất trong khối tài sản chung này sử dụng trái phép lợi dụng việc kê khai để được bồi thường khi nhà nước mở đường tại khu vực này. Nếu bà khẳng định 40m2 đất này thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình bà thì bà có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân để đòi lại theo quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 1 phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Cụ thể: không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm giữ bất hợp pháp thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”. Do đó, bà cùng sáu người con có quyền khởi kiện đòi lại tài sản sở hữu chung.
Theo dữ kiện bà nêu từ năm 1994 bà đã được đứng tên trong sổ địa chính của xã nên cũng được coi là người sử dụng đất có giấy tờ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai quy định việc hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định được Uỷ ban nhân dân xã phường thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ là: “có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính” thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Do đó bà cũng có quyền đứng đơn khởi kiện đòi tài sản là quyền sử dụng 40m2 đất đối với hai người con của chú út.
--------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Căn cứ tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “nếu trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật đất đai năm 2003 thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, diện tích đất (40m2) mà chú út chiếm thuộc thửa đất mà chồng bà được bố mẹ chia cho, tuy chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng có tên trong sổ địa chính thuộc di sản thừa kế của chồng bà. Diện tích nhà đất này là tài sản chung vợ chồng của chồng bà và bà. Năm 1994 khi chồng bà chết thì một nửa khối tài sản là của bà, còn một nửa khối tài sản là di sản thừa kế chưa chia của bà và sáu người con là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất đối với phần di sản của chồng bà theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1). Vì diện tích nhà đất hiện nay do bà quản lý và đứng tên trong bản đồ địa chính do đó là tài sản thuộc sở hữu chung của bà cùng các con. Theo dữ kiện bà nêu thì các con của chú út đã tự ý chiếm 40m2 đất trong khối tài sản chung này sử dụng trái phép lợi dụng việc kê khai để được bồi thường khi nhà nước mở đường tại khu vực này. Nếu bà khẳng định 40m2 đất này thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình bà thì bà có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân để đòi lại theo quy định tại điểm b tiểu mục 2.4 mục 1 phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. Cụ thể: không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong “Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm giữ bất hợp pháp thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản”. Do đó, bà cùng sáu người con có quyền khởi kiện đòi lại tài sản sở hữu chung.
Theo dữ kiện bà nêu từ năm 1994 bà đã được đứng tên trong sổ địa chính của xã nên cũng được coi là người sử dụng đất có giấy tờ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 50 Luật đất đai quy định việc hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định được Uỷ ban nhân dân xã phường thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ là: “có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính” thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
Do đó bà cũng có quyền đứng đơn khởi kiện đòi tài sản là quyền sử dụng 40m2 đất đối với hai người con của chú út.
--------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
. Tài sản chung vợ chồng không phải là di sản thừa kế của bố mẹ
Câu hỏi:

Bố tôi trước đây là cán bộ ngành đường sắt. Năm 1955 bố tôi được cơ quan phân một căn nhà cấp bốn lợp Fibro xi măng. Bố mẹ tôi có tám người con, khi lớn lên lần lượt các em tôi đi ở nơi khác chỉ còn bố mẹ và vợ chồng tôi là con trưởng ở lại căn nhà thuê của nhà nước. Vợ chồng tôi đã bỏ tiền xây dựng nhà thành ba tầng một tum vào năm 1999. Năm 2000 mẹ tôi mất, bố tôi vì già cả nên đã giao cho tôi quyền chủ hộ gia đình. Năm 2001 khi Nhà nước có chủ trương hóa giá căn nhà, bố tôi không có tiền đã cho phép vợ chồng tôi đứng ra làm thủ tục mua nhà của nhà nước. Các em tôi cũng đồng ý với quyết định của bố tôi với điều kiện hai vợ chồng phải xây dựng nhà và nuôi dưỡng bố. Sau khi nộp tiền mua nhà vợ chồng tôi được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ngôi nhà đứng tên cả hai vợ chồng. Hỏi ngôi nhà này có phải là tài sản của bố tôi nữa hay không? Các em tôi có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với nhà, đất này không?

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo tài liệu mà ông cung cấp cụ thể là Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 6598/2001/QĐ-UB cấp ngày 05/11/2001 chúng tôi thấy có ghi tên chủ sở hữu nhà ở và chủ sử dụng đất ở là ông và vợ ông đối với căn nhà ba tầng một tum diện tích 27,60m2 trên diện tích đất 46,1m2 tại phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, Hà Nội.
Để xác định những người em của ông có quyền hưởng thừa kế với nhà đất mà vợ chồng ông đang sử dụng và được cấp giấy chứng nhận, cần phải xác định xem ngôi nhà này có phải là tài sản của bố mẹ ông hay không vì theo quy định tại khoản 1 điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 (1)thì: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
Căn cứ dữ kiện ông nêu nguồn gốc căn nhà cấp bốn trước kia nguyên là căn hộ mà bố ông được Cơ quan bố ông (là Tổng cục đường sắt) phân cho sử dụng từ năm 1955 và đã được Cơ quan chính thức bàn giao nhà ở này cho bố ông theo quyết định vào năm 1990.
Căn cứ điều 2 Nghị định số 60/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất ở tại đô thị thì căn hộ mà bố ông được phân là "nhà ở thuộc sở hữu nhà nước" theo quy định tại khoản 2 điều này. Năm 1999 vợ chồng ông đã được bố ông cho phép phá toàn bộ căn nhà cấp 4 cũ và xây dựng thành ngôi nhà 3 tầng. Tuy nhiên quyền sử dụng đất vẫn thuộc sở hữu nhà nước chỉ có giá trị xây dựng trên đất là của vợ chồng ông. Do vậy chỉ khi nhà nước cho phép chuyển quyền sử dụng đất thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê theo quy định của pháp luật thì người sử dụng nhà đất  mới được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.
Căn cứ điều 5 Nghị định số 61/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán, kinh doanh nhà ở quy định: " Nhà nước thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê phần diện tích đang được thuê...". Điều 3 Nghị định số 61/CP quy định: "Mua bán nhà ở là việc chuyển quyền sở hữu nhà ở và chuyển quyền sử dụng đất ở từ bên bán sang bên mua thông qua hợp đồng được ký kết bằng văn bản giữa bên mua và bên bán theo đúng quy định của pháp luật". Vì bố ông là người được nhà nước phân nhà nên được xác định là người thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước. Chính vì vậy đến năm 2001 Nhà nước hoá giá bán thanh lý nhà cho bố ông là phù hợp với quy định nêu trên.
Căn cứ điều 7 Nghị định 61 quy định về giá bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước như sau: " Gía nhà ở và giá đất ở khi chuyển quyền sử dụng" thì gia đình ông phải trả tiền sử dụng đất.
1. Giá nhà ở được xác định căn cứ vào giá trị còn lại của nhà ở...
2. Giá đất ở khi chuyển quyền sử dụng do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ vào khung giá đất do Nhà nước quy định và căn cứ vào vị trí của đất ở và tầng ở..."
Tuy nhiên vì bố ông đã già và không có tiền mua nhà thanh lý nên đã giao cho ông làm chủ hộ gia đình (năm 2000) và cho phép ông được đứng ra làm thủ tục mua nhà thuộc sở hữu nhà nước. Vợ chồng đã bỏ tiền để mua nhà của nhà nước với sự nhất trí thoả thuận của các anh em ông.
Vì căn nhà cấp 4 nguyên thủy của nhà nước phân đã không còn do đó gia đình ông chỉ phải trả tiền sử dụng đất cho Nhà nước để được chuyển quyền sử dụng đất thông qua hợp đồng mua bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định nêu trên.
Căn cứ điều 10 Nghị định 61 quy định: " Người mua nhà sau khi trả hết tiền và hoàn tất thủ tục nộp lệ phí trước bạ thì được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở". Căn cứ dữ kiện ông nêu thì vợ chồng ông đã được cấp giấy chứng nhận năm 2001 với sự đồng ý của bố và sự nhất trí của các anh em.
Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: " tài sản chung vợ chồng là tài sản gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra...trong thời kỳ hôn nhân.... Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung vợ chồng..." nên ngôi nhà ba tầng một tum trên diện tích 46,1m2 đất có nguồn gốc của nhà nước trước kia là tài sản chung của hai vợ chồng ông. Căn cứ khoản 1 điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 thì nhà và quyền sử dụng đất này không phải là tài sản riêng của bố ông và bố ông cũng không phải là đồng sở hữu với vợ chồng ông. Do đó các em của ông không có quyền hưởng thừa kế đối với nhà đất này.
------------------------------------------------
(1) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác". 
Tài sản đã tặng cho không còn là di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Năm 1954 khi anh của mẹ tôi đi Nam có nhờ mẹ tôi quản lý hộ một ngôi nhà. Năm 1961 Nhà nước thu một phần nhà, mẹ tôi chỉ được công nhận quản lý một phần. Năm 1983 bố tôi mất để lại di chúc chung với mẹ tôi về chia nhà cho các con trong đó có tôi. Năm 1986 mẹ tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu diện tích mà được giao quản lý trước đây. Nhưng lúc này có một số diện tích mà bố mẹ chúng tôi bán khi bố còn sống. Năm 1989 mẹ tôi viết giấy khước từ quyền sở hữu để cho tôi toàn bộ diện tích nhà theo giấy cho phép quản lý của Nhà nước bao gồm cả phần đã bán và phần diện tích tôi xây dựng thêm (được mẹ đồng ý và có giấy phép xây dựng). Giấy này có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bông. Năm 1997 mẹ tôi mất có để lại di chúc về chia tài sản là ngôi nhà cho các con (gồm bảy anh chị em) lập vào năm 1991. Nay các anh chị em của tôi căn cứ vào di chúc này đòi chia thừa kế ngôi nhà tôi đang ở. Hỏi ngôi nhà này có còn là di sản thừa kế của bố mẹ tôi nữa không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì ngôi nhà là của người bác đi Nam và giao cho mẹ bà quản lý nên đó không phải là tài sản riêng của mẹ bà. Theo chính sách cải tạo nhà đất đối với những người đi Nam thời đó thì mẹ bà chỉ được công nhận là người quản lý hợp pháp theo giấy chứng nhận quyền quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trong đó ghi rõ phần diện tích nhà được phép quản lý.
Theo giấy chứng nhận năm 1961 thì mẹ của bà chỉ có quyền quản lý một phần ngôi nhà còn một phần thì nhà nước đã thu và giao cho người khác quản lý. Cũng theo giấy chứng nhận này thì mẹ của bà chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền định đoạt đối với phần nhà đó. Năm 1983 khi bố của bà mất thì ngôi nhà này cũng không coi là di sản thừa kế vì không phải là tài sản chung của bố mẹ bà theo quy định của Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959.
Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”.
Đến năm 1989 mẹ của bà mới được Nhà nước cấp giấy công nhận quyền sở hữu đối với phần nhà được giao quyền quản lý năm 1961. Thực ra lúc đó bố mẹ của bà đã chuyển nhượng một số diện tích trước khi được công nhận quyền sở hữu. Lúc này vì bố bà mất nên toàn bộ diện tích này là tài sản của mẹ bà. Năm 1989 mẹ bà đã làm giấy khước từ quyền sở hữu đối với diện tích nhà này cho bà có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bông. Căn cứ Điều 15 Pháp lệnh nhà ở năm 1991 quy định: “Cá nhân có quyền sở hữu nhà ở được tạo dựng hợp pháp thông qua việc xây dựng, cải tạo, tặng cho”. Như vậy vào thời điểm này mẹ bà có quyền định đoạt phần diện tích còn lại theo giấy công nhận quyền sở hữu của Nhà nước bằng việc cho bà có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường Hàng Bông. Căn cứ dữ kiện bà nêu tại thời điểm này, có một phần nhà do bà tự xây dựng được sự đồng ý của mẹ bà và được phép xây dựng. Nên căn cứ Điều luật nêu trên thì phần xây dựng thêm này là tài sản của bà.
Căn cứ Điều 634 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Theo bà trình bày thì năm 1991 mẹ bà lại làm di chúc chia cho bảy anh chị em của bà phần diện tích nhà theo giấy công nhận sở hữu cấp năm 1986. Vì lúc này tài sản đã là của bà chứ không còn là của mẹ bà nên phần di chúc định đoạt tài sản này là không hợp pháp. Nay các anh chị em bà khởi kiện đòi chia thừa kế đối với ngôi nhà này là không có căn cứ.
------------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền sử dụng đất đã chuyển đổi không còn là di sản thừa kế?
Câu hỏi:

Ông bà nội của tôi có một diện tích đất do cụ nội để lại. Ông bà sinh được sáu người con trai và hai người con gái. Bố tôi là con trưởng, năm 1978 bố lập gia đình nên được cơ quan cấp cho một mảnh đất và bố tôi đã làm nhà trên đó để ở. Đến năm 1987 ông bà tôi và bố tôi đã thỏa thuận: vì bố tôi là con trai trưởng nên về ở tại mảnh đất của ông bà nội tôi còn ông bà nội cùng các cô chú chuyển đến ở tại nhà đất của bố tôi được cơ quan cấp. Sau đó các cô chú của tôi đã lần lượt ra ở riêng và đều được Cơ quan cấp cho chỗ ở. Hiện chỉ còn bà nội cùng chú út ở lại chỗ đất đổi cho bố tôi trước đây (ông nội đã mất năm 1996). Năm 2000 diện tích nhà đất bố tôi ở đã được cấp sổ đỏ đứng tên bố tôi. Còn mảnh đất ông bà ở cũng được cấp sổ đỏ mang tên ông bà của tôi. Nay thấy giá đất lên, các chú của tôi bắt ông bà phải chia thừa kế chỗ đất mà bố tôi đang ở vì lý do đất đó là của ông để lại. Hỏi diện tích đất của bố tôi có phải là di sản thừa kế của ông nội không?
Các chú của tôi có quyền thừa kế đối với mảnh đất bố tôi đang ở hay không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Do đó các chú của ông là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông nội. Căn cứ Điều 637 Bộ luật dân sự(2) quy định về di sản thừa kế như sau: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản riêng của người chết trong phần tài sản chung với người khác” nên các chú chỉ có quyền yêu cầu chia thừa kế nếu diện tích đất đó là tài sản thuộc quyền sở hữu của ông nội hoặc là tài sản thuộc sở hữu chung của ông nội với bố của ông.
Nhưng căn cứ dữ kiện ông nêu thì năm 1987 ông bà nội và bố mẹ ông đã thoả thuận đổi đất và bố mẹ ông đã sử dụng ổn định diện tích đất có nguồn gốc của ông bà nội còn ông bà nội sử dụng diện tích đất của bố mẹ ông được cơ quan cấp. Đối với diện tích đất của ông bà nội thì ông bà có quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình theo quy định tại Điều 201 Bộ luật dân sự(3): “Chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối với tài sản" bằng cách đổi đất cho bố mẹ ông.
Căn cứ Điều 242 Bộ luật dân sự(4) quy định về xác lập quyền sở hữu theo thoả thuận như sau: “Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay có quyền sở hữu kể từ thời điểm nhận tài sản nếu không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác”. Do đó diện tích mà bố mẹ ông hiện đang ở không phải là di sản thừa kế của ông nội mà thuộc quyền sở hữu của bố mẹ ông và cũng không phải là tài sản chung của ông bà nội với bố mẹ ông.
Căn cứ khoản 1 Điều 106 Luật đất đai năm 2003 quy định thì người sử dụng đất được chuyển đổi quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Như vậy, ông bà có quyền đổi đất cho bố mẹ ông để thuận tiện sinh hoạt. Việc chuyển đổi này không có ai tranh chấp và đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở theo quy định của pháp luật. Nay các chú của ông muốn chia thừa kế diện tích đất bố mẹ ông đang sử dụng là không có căn cứ.
-------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
(3) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(4) Điều 234 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay có quyền sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm chuyển giao tài sản nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác".
Nhà thuê thuộc sở hữu nhà nước có phải là di sản thừa kế ?
Câu hỏi:

Ông bà nội tôi sinh được tám người con (hai trai và sáu gái). Ông bà tôi có hai căn hộ thuê của Nhà nước: một căn hộ do bà nội tôi đứng tên, bà tôi ở với một thành viên trong gia đình. Còn ông tôi là chủ hợp đồng thuê căn hộ 26m2 tại phố Yên Phụ. Trước đây trong hợp đồng này có sáu người (trong đó có tôi). Hiện nay chỉ có hai người có tên trong hợp đồng thuê nhà là tôi (cháu nội) và ông nội, còn các cô và bác tôi đều đi lấy chồng, có chỗ ở khác, không còn có tên trong hợp đồng thuê căn hộ này nữa. Nhưng trong lúc tôi đi vắng ông nội tôi đã bán căn hộ này không có ý kiến của tôi. Hiện nay người mua căn hộ này vẫn chưa được sang tên do tôi đang khiếu nại vì tôi muốn ở tại căn hộ này không muốn chuyển đi ở chỗ khác. Hỏi số tiền bán căn hộ này (270 cây vàng) có phải là di sản thừa kế không? Các cô và bác tôi có quyền thừa kế đối với căn hộ này - là nhà thuộc sở hữu của Nhà nước không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự(1) thì “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Di sản thừa kế mà người chết để lại cho những người thừa kế theo quy định tại Điều 637 Bộ luật dân sự(2) bao gồm: “Tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Tài sản ở đây được hiểu là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người chết. Theo định nghĩa tại Điều 172 Bộ luật dân sự(3) thì “Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Như vậy quyền thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước trong trường hợp này cũng được coi là quyền tài sản.
Theo dữ kiện anh nêu thì căn hộ 26m2 tại phố Yên Phụ tuy trước kia có sáu người thuê nhà do ông nội đứng tên chủ hợp đồng thuê, nhưng nay chỉ còn hai người thuê là anh (cháu nội) và ông nội.
Căn cứ Điều 496 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Những người thuộc bên thuê có tên trong hợp đồng thuê nhà có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với bên cho thuê”. Theo quy định nêu trên chỉ có những người có tên trong hợp đồng thuê nhà của Nhà nước mới có quyền lợi đối với nhà thuê. Vì hiện nay chỉ có anh và ông nội có tên trong hợp đồng thuê nhà, nên anh cũng được xác định là người thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước, tức là có quyền lợi ngang với ông nội. Do đó, các cô, các bác của anh vì không ở đây và cũng không có tên trong hợp đồng thuê nhà nên không có quyền lợi gì đối với căn hộ này.
Vì căn hộ này chưa được bán thanh lý theo Nghị định 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở nên không phải là tài sản được để lại thừa kế. Do đó tiền bán căn hộ này cũng không phải là di sản thừa kế.
Mặt khác vì căn hộ vẫn là nhà thuộc sở hữu nhà nước mà ông nội chỉ là người thuê nhà nên căn cứ khoản 1 Điều 493 Bộ luật dân sự(5) ông nội có nghĩa vụ sử dụng nhà đúng mục đích (có nghĩa là để ở chứ không được bán). Do đó việc ông nội anh tự ý bán nhà đang thuê của nhà nước là trái quy định của pháp luật hơn nữa ông nội anh lại không bàn bạc với anh.
Nếu anh không muốn chuyển đi nơi khác sống mà vẫn muốn tiếp tục ở tại căn hộ này thì có hai cách giải quyết như sau:
- Một là, căn cứ Điều 21 Quyết định số 4546/QĐ-UB ngày 27/10/1987 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc xử lý vi phạm, tranh chấp trong sử dụng nhà cửa quy định: “Uỷ ban nhân dân quận, huyện, thị xã giải quyết dứt điểm các vụ tranh chấp và quyết định cưỡng chế thi hành mọi vi phạm theo Điều 18”. Như vậy anh có quyền gửi đơn ra Uỷ ban nhân dân quận yêu cầu giải quyết tranh chấp trong việc sử dụng nhà thuê của nhà nước để huỷ giao dịch mua bán căn hộ do ông nội xác lập để được quyền tiếp tục thuê ở căn hộ này.
- Hai là, căn cứ khoản 3 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định Toà án nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng (trong đó có hợp đồng thuê nhà). Do vậy, anh có thể làm đơn khiếu nại gửi cơ quan quản lý nhà (Bên cho thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước) đề nghị cơ quan này gửi đơn ra Toà án với tư cách là Bên cho thuê nhà giải quyết huỷ hợp đồng chuyển nhượng nhà trái phép để anh được tiếp tục thuê.
-----------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác".
(3) Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản".
(4) Điều 497 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 1 điều 495 Bộ luật dân sự năm 2005.
Cháu không có quyền đối với di sản thừa kế của ông bà không
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có bốn người con (ba con đẻ gồm hai trai một gái và một con nuôi), và có tài sản là hai căn nhà, một căn nhà 40m2 và một căn nhà 20m2 trên diện tích đất là 600m2 tại thôn Phú Thụy, xã Phú Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Mẹ tôi mất năm 1981, bố tôi mất năm 1986. Khi qua đời bố mẹ tôi đã để lại cho anh em chúng tôi khối tài sản trên không có di chúc. Diện tích đất và hai căn nhà nói trên kể từ khi bố mẹ tôi qua đời chỉ có vợ chồng người anh trai cả là ông H và vợ là T trực tiếp ở tại đó. Còn anh em tôi công tác xa nhà không có điều kiện trông coi thường xuyên do đó chúng tôi thống nhất giao cho vợ chồng ông H và bà T thay mặt quản lý và thực hiện việc đóng thuế cho Nhà nước. Đến năm 1991 khi ông H qua đời bà T tiếp tục công việc trông nom và quản lý khu đất này. Đến ngày 01/5/2003 thì bốn anh em chúng tôi cùng bà T đã họp lập biên bản phân chia khối tài sản theo ý nguyện của bố mẹ như sau: Ông B (con nuôi) khước từ không nhận thừa kế nên khối tài sản chia làm ba phần cho ba người còn lại, trong đó bà D - em gái của chúng tôi cho cháu là con của ông H 1/3 phần bà được nhận; bà T nhận 1/3 số tài sản (phần của chồng bà); tôi được nhận 1/3 thửa đất phía ngoài cổng, ngoài ra biên bản còn ghi nhận tôi có nguyện vọng bỏ ra 100 triệu đồng cho con bà T lấy tiền xây nhà. Tuy nhiên đến đầu năm 2004 khi tôi chuẩn bị xây nhà trên phần đất này thì các cháu tôi (con bà T) ngăn không cho xây. Hỏi: Cháu có quyền lợi đối với di sản của ông bà không? Giá trị pháp lý của biên bản phân chia vào tháng 5/2003 như thế nào? Và tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Về quyền thừa kế đối với tài sản của bố mẹ ông để lại:
+ Vì bố mẹ ông mất đi không để lại di chúc nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự năm 1995(1) thì đây là trường hợp thừa kế theo pháp luật.
+ Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm năm 1995 thì con đẻ và con nuôi của người chết là những người thừa kế theo pháp luật cụ thể ba anh chị em ruột của ông và người con nuôi của bố mẹ ông cũng có quyền thừa kế đối với tài sản của bố mẹ ông để lại. Theo quy định tại khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì người chị dâu (cụ thể là bà T vợ ông H) không thuộc hàng thừa kế nào do đó không có quyền định đoạt di sản của người chết.
Khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột”. 
Do đó, vào thời điểm tháng 5/2003 thì chỉ có hai chị em ruột của ông và ông B mới có quyền họp phân chia tài sản do bố mẹ để lại. Trong trường hợp này vì ông H mất sau bố mẹ của ông nên các con của ông H không được quyền hưởng phần di sản của ông H (vì không thuộc trường hợp thừa kế thế vị theo quy định của Điều 680 Bộ luật dân sự năm 1995(3). Tuy nhiên vợ con của ông H sẽ là những đồng sở hữu chung nếu có điều kiện theo quy định của Điều 230 Bộ luật dân sự năm 1995 nêu ở dưới đây.
- Về quyền khước từ di sản:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 645 Bộ luật dân sự năm 1995(4) thì “người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác”. Do đó ông B - người con nuôi có quyền từ chối nhận phần di sản của mình và bà D có quyền cho người cháu được quyền hưởng phần di sản của mình.
- Về tài sản thuộc sở hữu chung theo thoả thuận của những người đồng thừa kế:
Căn cứ Điều 230 Bộ luật dân sự năm 1995(5) định về xác định quyền sở hữu chung như sau: “Quyền sở hữu chung được xác lập theo thoả thuận của các chủ sở hữu, theo quy định của pháp luật hoặc theo tập quán". Căn cứ dữ kiện ông nêu thì bố mẹ ông mất đã lâu (bố mất năm 1981 mẹ mất năm 1986), nhưng cho đến tháng 5/2003 anh em ông mới họp lại để phân chia tài sản. Như vậy là không có sự tranh chấp về di sản thừa kế giữa những người đồng thừa kế. Việc họp phân chia tài sản lại theo ý nguyện của bố mẹ có căn cứ xác định khối tài sản mà bố mẹ để lại tại thôn Phú Thụy, xã Phú Thụy là tài sản thuộc sở hữu chung của các anh chị em của ông nhưng chưa chia. Việc lập biên bản năm 2003 chỉ là khẳng định sự định đoạt của các đồng sở hữu chung đối với tài sản chung.
          Căn cứ điểm a tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “... sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó thuộc tài sản chung của các thừa kế”.
Vì ông H là một thừa kế đã mất năm 1991 mà khi phân chia tài sản vào năm 2003 những thừa kế khác vẫn công nhận tư cách của bà T đại diện cho phần của ông H. Như vậy được coi là không có tranh chấp về hàng thừa kế do đó phần tài sản của ông H trong khối tài sản chung sẽ do những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông H được hưởng (cụ thể là các con cùng vợ của ông H là bà T).
Khoản 2 Điều 237 Bộ luật dân sự(6) quy định về định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung như sau: “Việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật’’.
Căn cứ tài liệu ông cung cấp thì vào ngày 01/5/2003 bà D, ông B, ông (là những người thuộc hàng thừa kế của bố mẹ ông) cùng vợ ông H đã họp để định đoạt khối tài sản này cụ thể chia cho ông, bà T và con bà T hưởng. Căn cứ khoản 2 Điều 684 Bộ luật dân sự(7) quy định: “Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản". Do đó, biên bản ngày 01/5/2003 về phân chia tài sản thuộc sở hữu chung như ông xuất trình là phù hợp với quy định của pháp luật nên có giá trị pháp lý.
- Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi đối với tài sản thuộc sở hữu chung:
Theo ông trình bày thì đầu năm 2004 khi ông chuẩn bị xây nhà thì bị các con của ông H cản trở. Việc làm của các con ông H như vậy là không đúng với biên bản đã phân chia và quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a.2 tiểu mục 2.4 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của họ”.
Vì các cháu của ông (con của bà T) không phải là đồng thừa kế ngang hàng với ông nên không có quyền ngăn cản thực hiện thoả thuận. Tuy nhiên, nếu sự ngăn cản của họ làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông cụ thể là không cho ông xây nhà trên phần đất được chia thì ông có quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi cụ thể: ông cần làm đơn gửi Toà án nhân dân huyện Gia Lâm đề nghị Toà án phân chia đất theo như biên bản đã thoả thuận.
---------------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 677 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng 1 thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".
(4) Khoản 1 điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005
(5) Điều 215 Bộ luật dân sự năm 2005.
(6) Khoản 2 điều 223 Bộ luật dân sự năm 2005.
 (7) Khoản 2 điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
Con riêng của vợ kế không được hưởng thừa kế của bố dượng
Câu hỏi:

Bố tôi có tài sản là ngôi nhà trên thửa đất hơn 1500m2 mua từ năm 1966 sau khi mẹ tôi mất. Mẹ tôi mất sớm chỉ có ba anh em tôi. Năm 1990 do đau ốm đề phòng ra đi đột ngột, bố tôi viết di chúc phân chia tài sản của mình như sau: chia làm năm phần bằng nhau cho ba người con (trong đó có một người đã đi nước ngoài từ năm 1975 không có tin tức), một người em trai của bố tôi và một phần để làm từ thiện. Năm 1991 sau khi khỏi bệnh bố tôi có lấy một người vợ lẽ đã có một con gái riêng và sinh được 1 người con gái nữa. Năm 2003 bố tôi mất đột ngột và không có thêm một bản di chúc nào nữa. Hỏi:
1. Quyền lợi của người vợ kế đối với khối tài sản nếu có tên cùng bố tôi trong sổ đỏ?
2. Phần quyền lợi của một người con đã đi định cư ở nước ngoài từ năm 1975?
3. Con riêng của người vợ kế (nay đã 25 tuổi) có được hưởng quyền lợi trong khối tài sản của bố tôi không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
* Căn cứ dữ kiện ông nêu chúng tôi xác định được bố ông có hai người vợ. Trong đó giữa bố ông và người vợ cả (đã mất sớm) có ba con chung, ông là con của vợ cả. Bố ông cũng có một con chung với người vợ thứ hai, nhưng người vợ kế này trước khi kết hôn với bố ông cũng đã có một con riêng.
Căn nhà trên thửa đất diện tích 1500m2 mà bố ông mua năm 1966 sau khi mẹ ông mất nên là tài sản của bố ông. Năm 1990 bố ông viết di chúc định đoạt tài sản này cụ thể là phân chia thành năm phần bằng nhau: cho ba người con (trong đó có một người đã đi nước ngoài từ năm 1975 không có tin tức), cho một người em trai của bố ông và một phần để làm từ thiện. Nhưng đến năm 2003 thì bố ông mới mất, trong thời gian từ năm 1990 cho đến khi mất bố ông không viết thêm di chúc nào do đó di chúc lập năm 1990 có hiệu lực pháp luật.
*Tuy bố ông kết hôn với người vợ hai vào năm 1991 nhưng tài sản của bố ông đã được bố ông định đoạt trước khi kết hôn nên người vợ kế của bố ông không có quyền lợi trong khối tài sản này nữa.
Tuy nhiên người này vẫn có quyền hưởng di sản của bố ông để lại cho dù bố ông không để lại tài sản cho bà ấy trong di chúc nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 672 Bộ luật dân sự(1) với mức bằng 2/3 suất của 1 người thừa kế theo pháp luật (theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(2) thì những người thừa kế theo pháp luật của bố ông là 3 người con và người vợ kế).
Điều 672 Bộ luật dân sự quy định năm 1995: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 645(3) hoặc khoản 1 Điều 646 của Bộ luật này(4):1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng”. 
Điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995: "1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;"
Có hai trường hợp xảy ra:
- Nếu bố ông tự nguyện nhập khối tài sản này (là tài sản riêng) vào khối tài sản chung với người vợ thứ hai và người vợ hai cũng được đứng tên trong sổ đỏ cùng với bố ông thì khối tài sản này trở thành tài sản chung của bố ông và bà vợ hai. Như vậy bố ông chỉ có quyền định đoạt một nửa khối tài sản này còn một nửa khối tài sản là của bà vợ hai. Năm 2003 bố ông mất không có di chúc thì di chúc lập năm 1990 vẫn có hiệu lực nhưng chỉ có hiệu lực đối với một nửa khối tài sản theo quy định tại khoản 4 điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995(5).
Khoản 4 điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: "Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại, thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật".
-Còn nếu bố ông không có thoả thuận nhập khối tài sản này vào khối tài sản chung vợ chồng vớ bà vợ hai (tức là trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ có tên của bố ông) thì di chúc lập năm 1990 có hiệu lực, theo di chúc này thì bà vợ hai không được hưởng di sản theo di chúc nhưng nếu có yêu cầu thì toà án sẽ cho hưởng theo quy định tại khoản 1 điều 672 Bộ luật dân sự năm 1995.
* Đối với người con đang định cư ở nước ngoài được thừa kế theo di chúc của bố. Căn cứ Điều 635 Bộ luật dân sự(6) quy định về quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc và theo pháp luật”.
Vì di sản là nhà đất nên việc thừa kế quyền sử dụng đất phải theo quy định của Luật đất đai. Căn cứ khoản 5 Điều 113 Luật đất đai năm 2003 quy định: “trường hợp người được thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của luật này thì được nhận quyền thừa kế quyền sử dụng đất; nếu không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó”.
Khoản 1 Điều 121 Luật đất đai năm 2003 quy định “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây thì được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất:
a. Người về đầu tư lâu dài có nhu cầu nhà ở trong thời gian đầu tư tại Việt Nam;
b. Người có công đóng góp với đất nước;
c. Những nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước;
d. Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam;
e. Các đối tượng khác theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
Do đó, người con đang định cư ở nước ngoài có quyền thừa kế đối với di sản của bố mẹ theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, nếu không thuộc các trường hợp nêu tại khoản 1 Điều 121 Luật đất đai năm 2003 thì chỉ được hưởng giá trị phần di sản được tính bằng tiền.
*Đối với quyền thừa kế của con riêng của người vợ kế:
Theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 thì người con riêng của bà vợ kế của bố ông không phải là người thừa kế của bố ông nên không được hưởng di sản thừa kế của bố ông, mặt khác trong di chúc của bố ông cũng không định đoạt phần cho người con riêng này.
 
---------------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế. Sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế".
(4) Khoản 1 điều 643 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 4 điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005.
(6) Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2005.
Được quyền từ chối nhận di sản?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có một căn nhà, bố tôi vừa mất không để lại di chúc cũng là thời điểm xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Vì muốn hợp thức hoá căn nhà cho nhanh nên chúng tôi đã làm biên bản đồng ý để mẹ tôi đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Hỏi: hiện nay các con có được hưởng phần di sản của bố tôi do mẹ tôi đứng tên không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì diện tích nhà và đất nêu trên là tài sản chung hợp nhất của cha mẹ ông. Căn cứ khoản 1 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về định đoạt tài sản chung vợ chồng.
Khoản 1 điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất".
Khoản 1 Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”.
Khi bố ông mất đi không để lại di chúc nên tài sản này một nửa là của mẹ ông còn một nửa là di sản thừa kế của bố ông. Căn cứ khoản 1 Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng quy định: “Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) thì mẹ ông và các con là những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần thừa kế bằng nhau. Như vậy, toàn bộ ngôi nhà này không phải của mẹ ông mà các anh em của ông cũng có phần.
Căn cứ Điều 645 Bộ luật dân sự(2) quy định về việc từ chối nhận di sản như sau: 
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải thông báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, Công chứng nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế”.
Như vậy căn cứ dữ kiện ông nêu thì việc các anh em của ông làm biên bản để mẹ ông đứng tên toàn bộ ngôi nhà chỉ nhằm mục đích làm nhanh thủ tục cấp giấy chứng nhận chứ không phải là từ chối nhận di sản. Căn cứ điều 138 Bộ luật dân sự năm 1995 (3)quy định về giao dịch dân sự giả tạo như sau: " Khi các bên xác lập giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che dấu 1 giao dịch khác, thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực pháp luật...". Theo quy định nêu trên thì tuy mẹ ông được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng tài sản này vẫn là tài sản chung của mẹ ông và các anh em ông. Có nghĩa là các anh em của ông vẫn có quyền lợi đối với phần di sản của bố trong ngôi nhà. Nếu các ông chứng minh được biên bản thoả thuận để mẹ ông đứng tên sở hữu nhà đất chỉ là giả tạo thì các anh em có yêu cầu chia đối với tài sản chung này. Có hai trường hợp xảy ra:
- Nếu còn thời hạn thừa kế (trong thời hạn mười năm kể từ thời điểm bố mất) thì các anh em của ông có quyền yêu cầu toà án chia thừa kế theo quy định tại Điều 648 Bộ luật dân sự(4).
- Nếu vào thời điểm yêu cầu toà án mà đã hết thời hạn mười năm thì các anh em của ông có quyền yêu cầu toà án chia khối tài sản này theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung nếu có các điều kiện quy định tại Điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán -toà án nhân dân tối cao: "giữa các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận trong ngôi nhà này có một phần là di sản thừa kế của bố nhưng chưa chia thì phần di sản đó sẽ trở thành tài sản chung của các thừa kế". Nếu thuộc trường hợp nêu trên thì Toà án không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.
Điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết...”.
-----------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 642 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 quy định:
"1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận di sản thừa kế"
 (3) Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu".
(4) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
Điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005.
Người bị tuyên bố là mất tích cũng có quyền hưởng di sản thừa kế
Câu hỏi:

Mẹ tôi lấy hai chồng: một chồng là bố của tôi đã mất từ lâu và sinh được hai con (tôi và một em trai tôi đi kinh tế mới tại Lâm Đồng từ năm 1998 đến nay không có tin tức gì đã được Toà án huyện Đông Anh làm thủ tục thông báo mất tích theo quy định của pháp luật). Sau khi bố tôi mất thì mẹ tôi được hợp tác xã đổi đất cho từ năm 1974 trên có 1 căn nhà cấp 4. Chồng thứ hai lấy sau khi bố tôi mất cũng có với mẹ tôi hai người con, ngoài ra lại còn con với người vợ trước đã mất. Người chồng sau của mẹ tôi đang sử dụng căn nhà trên diện tích 575m2 đất của bố mẹ cho trước khi lấy mẹ tôi. Mẹ tôi mất năm 1998 không để lại di chúc. Ngôi nhà trên đất của mẹ tôi hiện do một người em cùng mẹ khác cha với tôi đang quản lý sử dụng, còn tôi đi lấy chồng chưa được mẹ cho đất. Vậy nếu tôi yêu cầu chia thừa kế thì di sản thừa kế của mẹ tôi được xác định như thế nào? Người em ruột bị mất tích của tôi có quyền được hưởng di sản thừa kế của mẹ tôi không? Ai là người quản lý phần của người em này?Nay tôi đã già nếu đưa ra toà giải quyết mà tôi không may bị chết khi toà án chưa giải quyết xong thì giải quyết thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ điều 634 Bộ luật dân sự năm 1995 (1) quy định: " Cá nhân có quyền ...hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật". Như vậy bà cũng có quyền được hưởng thừa kế đối với di sản thừa kế do mẹ bà để lại.
- Thứ nhất, cần xác định về di sản thừa kế của mẹ bà:
Căn cứ điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: " Tài sản chung vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra...trong thời kỳ hôn nhân". Vì căn nhà cấp 4 trên quyền sử dụng đất mà mẹ bà được Hợp tác xã đổi cho năm 1974 (trước khi lấy người chồng thứ 2) nên không phải là tài sản chung vợ chồng với người chồng thứ hai mà bà tài sản riêng của mẹ bà.
Năm 1998 mẹ bà mất nên căn cứ điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995 (2) quy định: "1. Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác; 2. Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này"
Nên toàn bộ diện tích nhà, đất này là di sản thừa kế của mẹ bà để lại cho những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thứ nhất (vì mẹ bà mất không có di chúc).
- Thứ hai, cần xác định những người thừa kế của mẹ bà.
Vì mẹ bà mất không có di chúc nên tài sản của mẹ được chia theo quy định của pháp luật. Cụ thể tại điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 679 Bộ luật dân sự(3) quy định:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;...
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”.
Như vậy, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của mẹ bà bao gồm: bà, người em ruột bị mất tích của bà, người chồng sau, hai người con riêng của mẹ bà với người chồng sau (trong đó có một người đang sử dụng toàn bộ diện tích nhà đất của mẹ bà). Những người này được hưởng phần di sản bằng nhau.
Thứ ba: Quyền lợi của người em bị xác định là mất tích.
Căn cứ dữ kiện bà nêu, người em trai của bà đi làm ăn tại khu kinh tế mới không có tin tức đã được Toà án nhân dân huyện Đông Anh làm thủ tục thông báo mất tích theo quy định tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật dân sự(4) quy định: “Khi một người đã biệt tích hai năm mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hoặc đã chết, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án có thể tuyên bố người đó mất tích”.
Tuy nhiên quyền lợi của người này vẫn được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 89 Bộ luật dân sự(5) cụ thể: Toà án sẽ chỉ định người thân thích của người mất tích quản lý tài sản của người mất tích.
Trong trường hợp này thì bà được xác định là người thân thích của em trai bà (vì là chị em ruột cùng một cha mẹ đẻ ra) nên bà sẽ là người quản lý kỷ phần thừa kế của em bà.
Căn cứ khoản 2 Điều 90 Bộ luật dân sự(6) quy định: “Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao, sau khi đã thanh toán chi phí quản lý”. Sau này nếu người em này trở về thì bà hoặc những người có nghĩa vụ quản lý tài sản đó có trách nhiệm chuyển giao lại sau khi đã được thanh toán chi phí quản lý (nếu có yêu cầu).
- Quyền khởi kiện yêu cầu toà án chia di sản thừa kế và quyền kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Căn cứ điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995 (7) quy định: " Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế", nên bà có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân nơi có di sản thừa kế để yêu cầu chia khối di sản thừa kế của mẹ bà để lại với tư cách là Nguyên đơn, còn Bị đơn là người em cùng mẹ khác cha với bà đang quản lý sử dụng di sản thừa kế. Gỉa sử trong khi toà án đang giải quyết mà bà mất thì căn cứ điều 27 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 ( khoản 1 điều 62 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004(8) ) quy định về sự kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng nếu đương sự chết như sau: " Nếu đương sự chết mà quyền và nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng" nên các con của bà sẽ là người thay thế vào tư cách Nguyên đơn của bà.
------------------------------------------------
(1) Điều 636 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".
(2) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác"
- Khoản 2 điều 637 Bộ luật dân sự năm 1995:  Bộ luật dân sự năm 2005 không quy định vấn đề này mà quyền để thừa kê quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật được quy định tại khoản 5 điều 113 Luật đất đai năm 2003.
(3) Khoản 1, 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
"1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau".
(4) Khoản 1 điều 78 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Khi 1 người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, toà án có thể tuyên bố người đó mất tích. Thời hạn 2 năm được tính từ ngày biết được tin tức cuối cùng về người đó; nếu không xác định được ngày có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo tháng có tin tức cuối cùng; nếu không xác định được ngày, tháng có tin tức cuối cùng thì thời hạn này được tính từ ngày đầu tiên của năm tiếp theo của năm có tin tức cuối cùng".
(5) Điều 79 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người đang quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cứ trú quy định tại khoản 1 điều 75 của Bộ luật này tiếp tục quản lý tài sản của người đó khi người đó bị toà án tuyên bố mất tích và có các quyền, nghĩa vụ quy định tại điều 76 và điều 77 của Bộ luật này.
Trong trường hợp toà án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con đã thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì toà án chỉ định người khác quản lý tài sản".
(6) Khoản 2 điều 80 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người bị tuyên bố mất tích trở về được nhận lại tài sản do người quản lý tài sản chuyển giao sau khi đã thanh toán chi phí quản lý".
(7) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(8)Khoản 1 điều 62 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định: "Trường hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản của họ được thừa kế thì người thừa kế tham gia tố tụng".
Cháu không có quyền hưởng thừa kế đối với di sản thừa kế của bác
Câu hỏi:

Ông nội tôi có 1 cái ao nhưng từ năm 1966 đã bị vào hợp tác xã. Trên bờ còn 2 bụi tre bố tôi vẫn dùng làm chỗ cột trâu bò. Năm 1980 bố tôi phá bụi tre để lấy đất trồng rau. Năm 1984 bố tôi cho tôi ra làm nhà trên đó để ở (khoảng 100m2) vì bố tôi có 7 người con. Mỗi lần hợp tác xã tát ao tôi lại lấy bùn đắp thêm đến bây giờ chỗ này rộng khoảng 226m2. Từ năm 1986 diện tích này do tôi đứng tên trong bản đồ địa chính. Bố tôi có hai người em gái thì 1 người còn sống còn 1 người đã chết có 5 người con. Năm 2005 thì những người con này đã về đòi chia thừa kế đối với diện tích đất 226m2. Hỏi: Những người này là cháu của bố tôi thì có quyền hưởng thừa kế đối với di sản thừa kế của bác ruột không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì diện tích đất 226m2 do anh đứng tên trong bản đồ địa chính từ năm 1986 nên căn cứ điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 (1)quy định "người sử dụng đất có tên trong sổ địa chính" cũng được coi là trường hợp có 1 trong các loại giấy tờ hợp lệ về đất ở. Diện tích đất này có nguồn gốc ban đầu là do bố anh chặt 2 bụi tre để lấy đất trồng rau (năm 1980), đến năm 1984 thì bố anh cho anh xây nhà để ở. Trong trường hợp bố anh mất mà không có di chúc thì việc thừa kế đối với di sản thừa kế này sẽ theo quy định của pháp luật (tức là theo hàng thừa kế).
Căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm1995 (2)quy định về hàng thừa kế thứ nhất của người chết gồm: "vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi". Như vậy 7 anh em của anh là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố anh.
Căn cứ điểm b khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (3)quy định về hàng thừa kế thứ hai của người chết gồm: "anh ruột, chị ruột, em ruột". Như vậy 1 người cô của anh (là em ruột của bố anh) đang còn sống là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai của bố anh.
Căn cứ điểm c khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (4)quy định về hàng thừa kế thứ ba của người chết gồm: "cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột". Như vậy 5 người con của cô anh (cô đã chết) là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ ba của bố anh.
Căn cứ khoản 3 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (5)quy định: "Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết". Vì bố anh còn có 7 người con -thuộc hàng thừa kế thứ nhất do đó 5 người con của người cô đã chết (kể cả người cô đang còn sống) không được hưởng thừa kế đối với diện tích này.
Giả sử diện tích đất này là của ông bà nội của anh thì 5 người này cũng không được hưởng thừa kế vì theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự nêu trên cháu không thuộc hàng thừa kế nào của ông bà (mà chỉ có ông bà là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ hai của cháu).
--------------------------------------------------------------
(1) Điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban Nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;"
(2), (3), (4) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại".
(5) Khoản 3 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Được thừa kế của chồng khi đang xin ly hôn?
Câu hỏi:

Mẹ chồng tôi có lập bản di chúc chia tài sản cho các con trong đó có chồng tôi. Bản di chúc này chỉ có chữ ký của các thành viên trong gia đình mà không có chứng nhận của phường cũng như công chứng. Tôi là con dâu nhưng trong di chúc phân chia tài sản không có tên tôi mặc dù vào thời điểm lập di chúc tôi đã trở thành thành viên trong gia đình. Hỏi bản di chúc đó có hợp pháp không? Khi chúng tôi ly hôn (xin lưu ý là ly hôn trong thời điểm mà người lập di chúc là mẹ chồng tôi vẫn chưa mất) thì tôi có được hưởng một nửa phần tài sản của chồng tôi đã được chia trong di chúc không? Trường hợp chúng tôi đang làm thủ tục xin ly hôn mà chồng tôi mất thì tôi có được hưởng thừa kế tài sản của chồng tôi không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(1) quy định quyền định đoạt của chủ sở hữu như sau: “Chủ sở sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình bằng các hình thức tặng cho,… để thừa kế hoặc định đoạt bằng các hình thức khác đối với tài sản của mình”. Có nghĩa là người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
Theo chị trình bày mặc dù khi lập di chúc chị đang là con dâu nhưng mẹ chồng chị chỉ lập di chúc cho các con (trong đó có chồng chị) mà không có tên chị là không trái với quy định của pháp luật. Việc mẹ chồng không chỉ định cho chị được hưởng thừa kế cũng không trái với quy định của pháp luật vì mẹ chồng chị có quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.
Căn cứ khoản 1, 4 Điều 655 Bộ luật dân sự(2) quy định về di chúc hợp pháp như sau:
“a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
4. Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này(3) chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này”.
Như vậy, đối với bản di chúc do mẹ chồng chị lập, không có chứng nhận của phường hoặc của công chứng nhà nước, nếu đảm bảo các quy định nêu trên thì vẫn được coi là hợp pháp. Theo quy định tại Điều 660 Bộ luật dân sự thì việc công chứng và chứng thực di chúc chỉ thực hiện theo yêu cầu của người lập di chúc chứ không bắt buộc.
Theo dữ kiện chị nêu thì trong di chúc không chỉ định chị là người được hưởng di sản mà chỉ có chồng chị là có tên trong di chúc. Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 thì phần di sản mà chồng chị được hưởng theo di chúc sẽ là tài sản chung của vợ chồng chị theo thoả thuận của hai vợ chồng chị.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định: “… Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng có thoả thuận”.
Tuy nhiên, căn cứ khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự(4) quy định thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người lập di chúc chết: “Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế”. Hiện tại mẹ chồng chị vẫn còn sống nên di chúc của mẹ chồng chị chưa có hiệu lực và phần tài sản mà chồng chị được hưởng theo di chúc vẫn thuộc quyền sở hữu của mẹ chồng chị. Vì vậy, nếu vợ chồng chị ly hôn thì phần tài sản đó chưa phải là tài sản chung của vợ chồng chị nên không được chia trong vụ kiện ly hôn.
Trong trường hợp vợ chồng chị đang làm thủ tục xin ly hôn mà chồng chị mất thì căn cứ khoản 2 Điều 683 Bộ luật dân sự(5) quy định: “Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được Toà án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản”. Như vậy, chị vẫn có quyền thừa kế di sản của chồng chị bao gồm: tài sản riêng của chồng chị và phần tài sản của chồng chị trong khối tài sản chung với người khác (nếu có) vì quan hệ vợ chồng của chị chỉ chấm dứt bằng một bản án hoặc quyết định về giải quyết việc ly hôn có hiệu lực pháp luật của Toà án.
------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Khoản 1, 4 điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:
"1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b. Nội dung của di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức của di chúc không trái với quy định của pháp luật.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 điều này".
(3) Điều 657 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc".
(4) Khoản 1 điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 2 điều 680 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Toà án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu 1 người chết thì người còn sống được thừa kế di sản".
Quyền yêu cầu chia thừa kế của người vợ sau khi chồng mất
Câu hỏi:

Vợ chồng tôi sinh được 7 người con. Chúng tôi có ba thửa đất thổ cư tổng diện tích 564m2. Khi các con xây dựng gia đình đều được bố mẹ cho phép xây nhà ở trên 2 thửa đất của bố mẹ. Còn mảnh vườn nhỏ nhất (32m2) để bố mẹ dưỡng già và khi trăm tuổi thì để lo ma chay cúng giỗ thì không xây. Vì bố mẹ chưa tuyên bố cho các con đất nên toàn bộ đất đai vẫn do chồng tôi đứng tên. Chồng tôi mất năm 1996 đến tháng 1/2005 người con trai trưởng đã chiếm mảnh vườn này và xây nhà trên đó bất chấp sự phản đối của tôi. Hỏi: Tôi phải làm gì để buộc con tôi phải trả mảnh đất này cho tôi để tôi an tâm lo dưỡng già?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân...". Do đó chúng tôi xác định ba thửa đất thổ cư tổng diện tích 564m2 mà vợ chồng bà tạo dựng được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng bà mặc dù chỉ có chồng bà đứng tên toàn bộ 3 thửa đất này.
          Căn cứ điều 17 Luật HN&GĐ nói trên quy định: "Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau". Theo dữ kiện bà nêu chồng bà đã mất do đó bà và các con sẽ là người được hưởng thừa kế, di sản thừa kế của chồng bà được xác định là một nửa trong khối tài sản chung theo quy định của pháp luật, phần tài sản còn lại thuộc quyền sở hữu của bà (282m2) và bà có toàn quyền đối với phần tài sản đó.
Như vậy theo quy định của pháp luật bà có quyền giữ lại mảnh đất để dưỡng già vì đó là tài sản thuộc sở hữu của bà. Còn hành động chiếm đoạt tài sản của con trai bà trong trường hợp hai mẹ con không tự thoả thuận hoà giải được thì bà có thể khởi kiện ra Toà án buộc con trai bà phải trả mảnh đất đó cho bà bằng một bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại khoản 2 điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự: "Những tranh chấp về quyền sở hữu tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án".
Quyền của người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc
Câu hỏi:

Vợ chồng tôi có bốn con: hai trai, hai gái. Chúng tôi có một thửa đất đã được thành phố Hà Nội cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất ở. Trên thửa đất này tôi đã cho hai con trai xây dựng nhà kiên cố để vợ chồng tôi và gia đình hai con trai cùng ở. Hỏi:
Vợ chồng tôi làm di chúc chuyển quyền sở hữu nhà ở cho các con, ngoài chữ ký của vợ chồng tôi thì cần chữ ký của các con tôi không?
Bản di chúc này cần có xác nhận của cơ quan nào để có hiệu lực pháp lý? Khi nào thì các con tôi được hưởng thừa kế?
Nay vợ chồng tôi chỉ di chúc cho hai con trai có được không vì hai con gái đã đi ở riêng và được Nhà nước cấp đất để xây dựng nhà ở rồi?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Thứ nhất, về quyền của người lập di chúc.
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 651 Bộ luật dân sự(1) quy định về quyền của người lập di chúc thì người lập di chúc có các quyền như sau:
“1. Chỉ định người thừa kế...
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế”.
Vì ngôi nhà là tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng bà nên vợ chồng bà có quyền định đoạt bằng cách lập di chúc để chuyển quyền sở hữu cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật.
Điều 666 Bộ luật dân sự(2) quy định về di chúc chung của vợ, chồng thì: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Ông bà có thể cùng lập di chung để lại tài sản cho các con mà không cần phải có chữ ký của các con vì ngôi nhà này là tài sản chung của vợ chồng bà.
Điều 653 Bộ luật dân sự(3) quy định hình thức di chúc bằng văn bản bao gồm các loại:
“1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
 2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
 3. Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
 4. Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước”.
Như vậy nếu ông bà đang khoẻ mạnh minh mẫn thì có thể tự mình lập di chúc mà không cần phải có người làm chứng hoặc có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, về hiệu lực của di chúc.
Căn cứ khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự(4) thì di chúc chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế tức là thời điểm người để lại di sản mất.
Khoản 1 Điều 636 Bộ luật dân sự quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Toà án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật này(5)”. 
Vì ngôi nhà là tài sản chung của vợ chồng và cả hai vợ chồng bà cùng lập di chúc nên căn cứ Điều 671 Bộ luật dân sự(6) hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ chồng bà sẽ được xác định như sau: “Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó”.
Thứ ba, về quyền của hai người con gái không được hưởng thừa kế theo di chúc.
Căn cứ dữ kiện bà nêu thì vợ chồng bà chỉ lập di chúc cho hai người con trai hưởng di sản thừa kế còn không có hai người con gái hưởng. Nếu hai người này có yêu cầu được hưởng mà họ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 672 Bộ luật dân sự(7) thì họ vẫn được hưởng một phần bằng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật.
Điều 672 Bộ luật dân sự quy định: “Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2 phần 3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2 phần 3 suất đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 645 hoặc khoản 1 Điều 646 của Bộ luật này(8):
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”. 
Giả sử sau khi người lập di chúc mất đi mà có tranh chấp về di sản thừa kế cụ thể hai người con gái không được hưởng thừa kế mà yêu cầu được hưởng một phần tài sản của bố mẹ để lại. Cụ thể nếu họ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 điều 672 Bộ luật dân sự năm 1995 thì mỗi người sẽ được hưởng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu họ.
-----------------------------------------------------
(1) Khoản 1, 2 điều 648 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 663 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực".
(4) Khoản 1 điều 633 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 2 điều 81 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Tuỳ từng trường hợp toà án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết căn cứ vào các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này".
(6) Điều 668 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết".
(7) Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người sau đây vẫn được hưởng di sản bằng 2/3 suất của 1 người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn 2/3 suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 điều 643 của Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động".
(8) Điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế. Sau 6 tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu không có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế";
Khoản 1 điều 643 Bộ luật dân sự năm 2005.
Con riêng của vợ hai có quyền thừa kế đối với tài sản của bố tôi đã cho tôi không?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có một người con là tôi, bố tôi được ông nội cho thừa kế một mảnh đất, sau một năm mẹ tôi mất bố tôi cho tôi mảnh đất thừa kế này làm nhà và gia đình tôi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Sau đó bố tôi lấy vợ hai sinh được bốn người con và mua một mảnh đất, gia đình bố tôi và bà hai ở trên đất này. Sau vài năm bố tôi mất bà hai có mua thêm một miếng đất. Nay bà hai muốn tôi chia cho một người con riêng một phần chỗ đất mà bố tôi cho tôi và đã được cấp sổ đỏ có được không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để tiện theo dõi chúng tôi tạm xác định người bố là A, bà vợ cả là B, người con riêng của A và B là C. Bà vợ hai là D. Mảnh đất thừa kế của ông nội là số 1, mảnh đất mà bố mua khi lấy bà vợ hai là số 2 và mảnh đất bà vợ hai mua sau khi bố mất là số 3.
Căn cứ Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản riêng của vợ chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng…”. Như vậy mảnh đất số 1 là tài sản riêng của A vì có trước khi lấy bà vợ hai do ông nội cho thừa kế. Căn cứ Điều 201 Bộ luật dân sự(1) quy định: Chủ sở hữu có quyền định đoạt tài sản của mình bằng cách tặng cho nguời khác. Như vậy A cho C mảnh đất này và gia đình C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất. Như vậy mảnh đất này đã là tài sản của gia đình C.
Căn cứ khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về tài sản chung của vợ chồng là tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân.
Khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất”. 
Như vậy mảnh đất số 2 sẽ là tài sản chung hợp nhất của A và D. Sau khi A chết mảnh đất số 2 này sẽ là di sản thừa kế. Vì mảnh đất này là tài sản chung của vợ chồng do đó 50% là tài sản của D. Phần tài sản chia thừa kế chỉ là 50% thuộc phần của A. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì di sản này sẽ được chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: D, C và bốn người con riêng của A và D.
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.  
Còn mảnh đất số 3 là tài sản riêng của D vì khi mua A đã chết. Do đó C không có phần trong mảnh đất này.
Tóm lại: C không có nghĩa vụ phải chia cho một người con riêng của D từ mảnh đất số 1 mà còn được hưởng quyền lợi từ mảnh đất số 2.
-----------------------------------------
(1) Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Quyền định đoạt là chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó".
(2) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại".
Người vợ hai không đăng ký kết hôn (sau khi vợ cả mất) có được thừa kế di sản của chồng không?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi kết hôn năm 1970 (có đăng ký kết hôn). Ông bà nội tôi đã chia đất cho các con mỗi người một thửa (trong đó có bố mẹ tôi). Bố mẹ tôi sử dụng thửa đất được chia (khoảng 500m2) từ 1970 và thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất với địa phương. Bố mẹ tôi sinh được bốn chị em chúng tôi. Năm 1996 mẹ tôi mất không có di chúc. Diện tích nhà đất này cho 4 chị em tôi quản lý. Năm 1999 bố tôi đi làm ăn xa và lấy vợ hai (không có đăng ký kết hôn) và có hai con với người này. Năm 2002 bố tôi bị bệnh mất đột ngột, không để lại di chúc. Nay, gia đình bên bố tôi (là các bác) họp và yêu cầu chúng tôi phải chia cho người vợ hai của bố tôi 1/3 chỗ đất mà chúng tôi đang sử dụng. Vậy theo luật thì diện tích nhà đất mà chúng tôi đang sử dụng có phải là di sản thừa kế của bố mẹ tôi không? Người vợ thứ hai không có đăng ký kết hôn của bố tôi có được hưởng thừa kế di sản của bố tôi không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì bố mẹ chị kết hôn năm 1970 và được ông bà nội cho thửa đất để làm nhà ở trên đó. Thời điểm này là khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực. Nên căn cứ điều 15 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” nên căn nhà trên đất là tài sản của bố mẹ chị. Căn cứ điều 1 Luật đất đai năm 1987 quy định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý" nên quyền sử dụng thửa đất mà ông nội cho không phải là tài sản chung vợ chồng của bố mẹ chị vào thời điểm cho. Tuy nhiên trong quá trình bố mẹ chị đã thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất nên theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật đất đai năm 1993 thì bố mẹ chị được xác định là người sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích thửa vườn của ông nội cho.
Khoản 1 điều 2 Luật đất đai năm 1993 quy định: "Người sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất".
Năm 1996 mẹ chị mất nên căn cứ Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung...”. Do đó mẹ chị được sở hữu một nửa khối tài sản chung (là căn nhà trên quyền sử dụng thửa vườn của ông nội). Phần tài sản này trở thành di sản của mẹ để lại cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật (vì mẹ không để lại di chúc) bao gồm bốn chị em chị và bố chị; còn một nửa là tài sản của bố chị (250m2).
Năm 2002 bố chị bị bệnh mất đột ngột không để lại di chúc thì phần tài sản thuộc quyền sở hữu của bố là di sản thừa kế chưa chia. Nếu có yêu cầu chia thì sẽ chia theo quy định của pháp luật về thừa kế. Có nghĩa là bố chị sẽ được hưởng kỷ phần bằng 1/5 quyền sử dụng đất phần của mẹ chị (bằng 50m2). Như vậy phần của bố chị sẽ là 300m2.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(1)  quy định về hàng thừa kế theo pháp luật gồm: “Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Năm 1999 bố chị kết hôn với người vợ thứ hai và có hai con chung với người đó. Vì quan hệ hôn nhân với người vợ thứ hai không có đăng ký kết hôn nên theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 nên quan hệ hôn nhân đó là không hợp pháp nên về nguyên tắc người vợ hai không có quyền hưởng thừa kế đối với di sản thừa kế do bố chị để lại mà chỉ hai người con của bố chị với người vợ hai được quyền hưởng thừa kế với kỷ phần bằng với kỷ phần thừa kế của những người thừa kế cùng hàng.
Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhân và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định.
Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý”.
Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình thì căn cứ điểm b mục 1 phần II quy định: "Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/01/1987 đến  ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003; do đó, cho đến trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế...”.
Vì mẹ của chị đã chết từ năm 1996 nên theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết”. Do đó cuộc hôn nhân giữa bố chị và mẹ chị coi là chấm dứt kể từ thời điểm năm 1996 khi mẹ chị mất. Vào thời điểm bố của chị chung sống với người vợ hai vào năm 1999 không thuộc trường hợp người đang có vợ tức là không vi phạm chế độ hôn nhân "một vợ một chồng". Căn cứ Điều 9, 10 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 thì bố chị và người vợ hai được xác định là có đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì bố chị mất (vào năm 2002), nên theo quy định của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP nêu trên thì trong trường hợp này người vợ hai vẫn được hưởng di sản thừa kế của bố chị để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế. Vì vậy trong trường hợp này tuy người vợ hai chưa thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn với bố chị tại Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền nhưng được xác định là có đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật vì cả hai đều không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này”.
Khoản 1 Điều 10 quy định: “Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
1. Người đang có vợ hoặc chồng...”.
Như vậy, phần tài sản của bố chị sẽ được chia cho bốn chị em chị cùng người vợ hai và hai người con riêng của bố với người vợ hai (là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất). Tức là quyền sử dụng đất thuộc phần di sản của bố (300m2) chia thành 7 phần (mỗi kỷ phần sẽ là 42,85m2). Như vậy việc gia đình bố chị họp bắt các chị phải chia cho người vợ hai là đúng nhưng yêu cầu phải chia cho người này 1/3 số đất này (tức là bằng 166,7m2) là nhiều hơn kỷ phần thừa kế mà người vợ hai được hưởng. Nếu các chị em của chị không bằng lòng thì có quyền yêu cầu toà án giải quyết chia thừa kế theo quy định của pháp luật.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 3 điều 14 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền từ chối nhận di sản thừa kế là nhà của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
Câu hỏi:

Ngôi nhà mà chú tôi đang sinh sống là của ông bà nội tôi. Sau khi ông mất, bà nội tôi, gia đình tôi và chú cùng chung sống tại ngôi nhà này. Năm 1990 gia đình tôi ra nước ngoài định cư, năm 1994 bà nội tôi mất. Nhưng ngôi nhà chú tôi ở vẫn chưa được cấp sổ đỏ. Hiện nay bố tôi không có ý định về nước sinh sống nữa và muốn nhường lại phần của bố tôi cho chú tôi được hưởng. Vậy chú tôi phải làm gì để được hợp thức hoá ngôi nhà?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(1) quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Do đó, bố và chú anh là những người thừa kế theo pháp luật của ông bà. Ngôi nhà mà chú anh đang sử dụng là di sản thừa kế chưa chia của ông bà cho các con là bố anh và chú anh.
Vì thời điểm mở thừa kế lần cuối cùng đối với di sản của ông bà là vào năm 1994 (thời điểm bà nội mất) nên căn cứ điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995(2) thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế là đã hết vào năm 2004.
Điều 648 Bộ luật dân sự năm 1995: "Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế".
Theo dữ kiện anh nêu thì hiện nay gia đình anh đang định cư ở nước ngoài chỉ có một mình người chú ở lại nhà đất của ông bà và bố anh cũng có ý định nhường lại phần thừa kế của mình cho người chú của anh được hưởng. Căn cứ điểm b khoản 1 điều 684 Bộ luật dân sự năm 1995(3) quy định: "Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố thì những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây: b. cách thức phân chia di sản"
Khoản 2 điều 684 Bộ luật dân sự năm 1995(4) quy định: "Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản"
Do vậy bố anh có thể thoả thuận cùng người chú để nhường lại kỷ phần của mình cho người chú và đồng ý để cho chú được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vì theo quy định tại khoản 1 điều 645 Bộ luật dân sự năm 1995(5) thì "người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản....".
Căn cứ điểm c khoản 1 điều 50 luật đất đai 2003 quy định: "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban Nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất: c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất...". Do đó khi có văn bản thoả thuận về việc chia di sản thừa kế giữa bố anh và chú anh thì văn bản này cũng được coi là giấy tờ hợp pháp về thừa kế để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định nêu trên.
Khoản 1 Điều 129 Luật đất đai năm 2003 quy định trình tự thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất: “Việc nộp hồ sơ thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất được quy định như sau:
a. Hồ sơ thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;
b. Hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất gồm di chúc hoặc biên bản phân chia thừa kế... và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
------------------------------------------------
(1) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005: "Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại".
(2) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(3), (4) Điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Khoản 1 điều 642 Bộ luật dân sự năm 2005
Quyền thừa kế của người con mà đã sống trong ngôi nhà của bố mẹ
Câu hỏi:

Tôi sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà của bố mẹ tôi tại 44, Thụy Khuê, Hà Nội trong 1 gia đình có 9 anh em (có 2 anh đã chết). Ngôi nhà này do bố mẹ tôi mua từ thời Pháp thuộc với giá là 150.000 đồng. Năm 1973 mẹ tôi mất và năm 1982 bố tôi lấy vợ hai. Hiện nay chỉ có gia đình tôi đang ở tại đây. Nhưng đến tháng 4/2004 tôi mới được biết rằng ngôi nhà này đã được cấp sổ đỏ cho bố tôi và mẹ kế (cấp vào năm 2000) mà tôi không hề biết. Và bố mẹ tôi đã làm giấy cho đứt người em gái út của tôi và đuổi tôi ra khỏi nhà. Hỏi: Tôi có được hưởng quyền lợi đối với ngôi nhà của bố mẹ không? Tôi phải làm gì để được ở trong ngôi nhà của bố mẹ?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì ngôi nhà do bố mẹ ông mua khi mẹ ông (người vợ cả) còn sống nên căn cứ điều 15 Luật hôn nhân gia đình năm 1959 quy định: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới” thì một nửa ngôi nhà này là của mẹ ông. Năm 1973 mẹ ông mất không có di chúc nên phần tài sản của mẹ ông trong khối tài sản chung vợ chồng là di sản thừa kế chưa chia của mẹ ông để lại cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (1)quy định về những người thừa kế của hàng thừa kế thứ nhất gồm: “Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Do đó bố của ông và 7 anh chị em của ông và những người thừa kế của 2 người anh đã mất (nếu có) sẽ được hưởng thừa kế một nửa căn nhà đó. Gia đình anh tuy ở căn nhà này nhưng anh chỉ được 1 phần chứ không được hưởng cả ngôi nhà và vì chưa có ai yêu cầu chia nên ngôi nhà này vẫn là  tài sản chung của các đồng thừa kế. Do vậy việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ngôi nhà cho bố ông và người mẹ kế là không đúng vì đây không phải là tài sản chung vợ chồng của bố và mẹ kế.
Nay người em gái út được bố và người mẹ kế cho ngôi nhà này và đang yêu cầu gia đình anh ra khỏi nhà. Căn cứ tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 10/8/2004 quy định như sau: “Trong thời hạn 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và cùng có văn bản xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn 10 năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung  của các thừa kế ....Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản  chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.
Như vậy ông và các anh chị em khác là những đồng thừa kế của mẹ ông có thể khởi kiện để chia tài sản chung là một nửa ngôi nhà. Còn đối với người vợ thứ hai của bố ông và người con riêng của bố ông với người vợ này không nằm trong diện thừa kế của mẹ ông do đó không có quyền hưởng thừa kế của mẹ ông.
------------------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền từ chối nhận di sản của người thừa kế
Câu hỏi:

Cha tôi vừa qua đời đột ngột không để lại di chúc, cha mẹ tôi có tài sản là một ngôi nhà do cả hai người cùng đứng tên. Bố mẹ chúng tôi có năm người con nhưng đều ở xa. Nay chúng tôi muốn để mẹ tôi đứng tên ngôi nhà thì có phải được sự đồng ý của tất cả những người con hay không? Bởi vì điều kiện của chúng tôi không thể tập trung về để giải quyết được. Vậy pháp luật có quy định về thời hiệu để họp thoả thuận về vấn đề này không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ dữ kiện bà cung cấp căn nhà trên thuộc quyền sở hữu chung của cha mẹ bà theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận”.
Như vậy, một nửa căn nhà thuộc quyền sở hữu của cha bà. Nhưng vì người cha chết không để lại di chúc nên theo điểm a khoản 1 Điều 678 Bộ luật dân sự(1) quy định trường hợp không có di chúc thì phần di sản của người cha sẽ được chia theo pháp luật.
Khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Do đó mẹ bà và các anh em bà là những người thừa kế theo pháp luật sẽ được quyền hưởng phần di sản của người cha. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 684 Bộ luật dân sự(3) thì sau khi có thông báo về việc mở thừa kế thì những người thừa kế phải họp mặt để thoả thuận về “cách thức phân chia di sản”. Tuy nhiên, theo dữ kiện bà cung cấp thì anh em bà không muốn phân chia khối di sản này, hiện nay lại đang ở xa, nên muốn để mẹ bà đứng tên ngôi nhà thì có thể vận dụng Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự hôn nhân gia đình cụ thể như sau:
Theo quy định tại điểm a tiểu mục 2.4 phần I của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP, các anh chị em của bà với tư cách là các đồng thừa kế có văn bản cùng thoả thuận để cho mẹ bà được đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Đồng thời trong văn bản đó cũng phải nói rõ là các đồng thừa kế không có tranh chấp gì về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản thừa kế do bố chị để lại. Và vì điều kiện ở xa thì văn bản này có thể chuyển cho các đồng thừa kế để ký mà không cần phải họp mặt mà chỉ thống nhất bằng việc ký vào Biên bản này. Sau đó Biên bản này chuyển về cho mẹ của bà để làm thủ tục sang tên.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì Biên bản thoả thuận của các đồng thừa kế được coi là giấy tờ hợp lệ về đất ở để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Điểm c khoản 1 Điều 50 Luật đất đai năm 2003:
“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
c. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất”.
-----------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b. Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c. Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại".
(3) Điểm b khoản 1 điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền thừa kế nhà, đất của vợ hai và con dâu
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có căn nhà trên diện tích đất 550m2 nguồn gốc là của tổ tiên để lại tại Hưng Yên. Bố tôi có hai vợ: vợ cả có đăng ký kết hôn và mẹ của chúng tôi là vợ hai lấy năm 1940. Vợ cả có một người con gái đã mất không có chồng con. Còn vợ hai thì sinh được bảy anh em chúng tôi (tôi là con trai trưởng). Năm 1979 bố tôi mất không có di chúc. Sau khi bố tôi mất mẹ tôi và bà vợ cả vẫn sống ở quê cùng vợ chồng người con trai thứ ba và có tên trong sổ địa chính. Năm 1980 vợ chồng người em trai thứ ba đã phá toàn bộ ngôi nhà cũ của bố mẹ để xây dựng nhà mới. Năm 1984 người này mất. Năm 1991 mẹ tôi ra Hà Nội trông con cho người con út (nhưng vẫn về quê trông nom nhà cửa và giỗ tết). Năm 1996 người con dâu thứ ba đã tự ý kê khai và đã được cấp sổ đỏ đối với diện tích đất trên mà không ai biết. Năm 2000 bà vợ cả cũng mất không có di chúc.Năm 2004 khi mẹ tôi về ở hẳn tại quê thì mới biết đất này đã được cấp sổ đỏ cho người con dâu thứ ba. Gia đình tôi đã đề nghị chuyển tên sổ đỏ sang tên mẹ tôi nhưng người này không đồng ý. Vậy mẹ tôi có được thừa kế diện tích đất của bố tôi để lại không? Việc cấp sổ đỏ cho người con dâu thứ ba như vậy có đúng không? Người này có quyền hưởng thừa kế nhà, đất này không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
- Về quyền sở hữu căn nhà trên diện tích đất 550m2 tại Hưng Yên: Căn cứ điều 1 Luật đất đai năm 1987 quy định: " Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý" Vì vậy bố ông không có quyền sở hữu đối với quyền sử dụng 550m2 đất của tổ tiên để lại mà chỉ có quyền sở hữu đối với căn nhà trên đất.
Vì bố ông lấy hai vợ và đều xảy ra trước thời điểm Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực (thời điểm bố ông lấy mẹ ông-là vợ hai vào năm 1940) nên hôn nhân của bố ông đối với bà vợ hai cũng được coi là hợp pháp. Căn cứ điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: "Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới", do đó căn nhà ở Hưng Yên là tài sản chung của bố ông và hai người vợ.
 - Quyền thừa kế đối với phần di sản của bố ông:
Năm 1979 khi bố ông mất không có di chúc nên phần tài sản của bố ông trong khối tài sản chung vợ chồng được chia theo pháp luật. Căn cứ điều 2 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 quy định: " Công dân không phân biệt nam nữ đều có quyền bình đẳng về quyền.... hưởng di sản thừa kế" thì người vợ hai cũng có quyền thừa kế đối với phần di sản của bố ông như với các thừa kế khác (cụ thể là như bà vợ cả cùng các con của bố ông). Căn cứ dữ kiện ông nêu: bà vợ cả có một người con gái đã mất nhưng không có chồng con, còn vợ hai thì có bảy người con. Nên những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất của bố ông theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 25 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 gồm: " vợ, ..con đẻ..của người chết" nên hai người vợ và bảy người con đang còn sống của người vợ hai (không có con của bà vợ cả nữa vì đã mất vào năm 1971 tức là mất trước bố ông). Cũng theo quy định nêu trên thì người con dâu thứ ba không được hưởng thừa kế vì không thuộc hàng thừa kế nào của bố ông. Nhưng vì vào thời điểm bố ông mất quyền sử dụng đất không được coi là di sản thừa kế nên những người thừa kế của bố ông chỉ có quyền hưởng thừa kế đối với căn nhà và các tài sản trên đất. Do đó tài sản trên đất được xác định là tài sản chung của những người thừa kế.
- Quyền sở hữu đối với nhà và quyền sử dụng diện tích 550m2 đất sau thời điểm bố ông mất:
 Sau khi bố ông mất không có ai yêu cầu chia thừa kế mà toàn bộ nhà, đất vẫn do mẹ ông và bà vợ cả quản lý. Căn cứ điều 1 Luật đất đai năm 1987 quy định: " Nhà nước giao đất cho ...cá nhân (gọi là người sử dụng) để sử dụng lâu dài. Người đang sử dụng đất hợp pháp thì được tiếp tục sử dụng theo quy định của Luật này". Như vậy hai bà vợ của bố ông được xác định là người sử dụng đất hợp pháp theo quy định của Luật đất đai năm 1987.
Lúc đó tại quê Hưng yên chỉ có mẹ ông, bà vợ cả cùng với vợ chồng người con thứ ba ở tại đây, còn các người con khác ở chỗ khác. Năm 1980 vợ chồng người em thứ 3 đã phá nhà cũ và xây dựng nhà mới trên diện tích đất đó. Như vậy là tài sản chung (căn nhà có nguồn gốc của tổ tiên để lại) đã không còn vào thời điểm đó, trên đất có ngôi nhà -là tài sản của vợ chồng người con trai thứ ba. Còn quyền sử dụng đất là của hai bà vợ vì theo quy định tại khoản 1 điều 2 của Luật đất đai năm 1993, 1998 thì: "Người sử dụng đất ổn định được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất". Do đó hai bà vợ đã được đăng ký tên trong bản đồ địa chính và thuộc trường hợp được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên căn cứ dữ kiện ông nêu thì có những sự kiện xảy ra như: Năm 1984 người em trai thứ 3 đã mất. Năm 1991 mẹ của ông (người vợ hai) ra Hà Nội ở. Tại nhà đất ở quê chỉ có bà vợ cả và người con dâu thứ ba ở. Năm 1996 người con dâu đã tự ý kê khai đối với quyền sử dụng 550m2 đất và đã được cấp giấy chứng nhận (mà không ai được biết). Năm 2000 bà vợ cả mất không có di chúc, toàn bộ nhà đất này chỉ có một mình người con dâu thứ ba quản lý. Vì quyền sử dụng đất tại quê không phải là tài sản của người con trai thứ 3 nên người con dâu thứ ba chỉ là người tạm thời quản lý trông nom diện tích đất đó.
Căn cứ quy định pháp luật vào thời điểm cấp giấy chứng nhận năm 1996 (cụ thể là Nghị định số 17/CP ngày 29/3/1999 của Chính phủ về thủ tục chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất  và thế chấp góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất) thì việc cấp giấy chứng nhận cho người sử dụng đất phải căn cứ vào các giấy tờ về "thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất" theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 3 Nghị định 17.
Như vậy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất này cho người con dâu vào năm 1996 khi hai bà vợ đang còn sống là không đúng vì người này không phải là người sử dụng đất hợp pháp và không có các loại giấy tờ mà pháp luật quy định như nêu trên.
Nếu đúng như trong bản đồ địa chính có tên hai bà vợ (bà vợ cả đã mất và không có người thừa kế) nên chỉ có bà vợ hai có tên trong bản đồ địa chính. Như vậy bà vợ hai được xác định là người sử dụng đất và có đủ điều kiện để được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng toàn bộ diện tích 550m2 ở quê vì theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì việc người sử dụng đất "có tên trong sổ địa chính" cũng được coi là một trong các loại giấy tờ hợp lệ để cấp giấy chứng nhận.
Căn cứ khoản 7 điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì bà vợ hai có quyền yêu cầu toà án giải quyết tranh chấp "quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất" cụ thể: yêu cầu toà án xác định bà vợ hai có quyền đối với quyền sử dụng 550m2 đất theo quy định của Luật đất đai còn người con dâu chỉ có quyền sở hữu đối với ngôi nhà trên đất.
Vợ hai không đăng ký kết hôn có được hưởng di sản thừa kế của chồng không?
Câu hỏi:

Bố tôi có hai vợ: vợ cả lấy năm 1956 ở Hải Phòng sinh được tám người con (trong đó có tôi), vợ hai lấy năm 1978 ở Hà Nội có tổ chức đám cưới và có ba người con. Bố tôi vẫn đi lại với cả hai bà vợ. Năm 2001 bố tôi mất có để lại một tài sản là căn nhà cấp bốn trên diện tích 74m2 tại thôn Nam Dư Thượng, xã Lĩnh Nam, Thanh Trì, Hà Nội. Căn nhà này do bố tôi được hưởng thừa kế của ông nội theo bản án của Toà án Hà Nội năm 1988 hiện vẫn đứng tên của ông nội. Từ khi được chia căn nhà này bố tôi vẫn để không vì người vợ hai có chỗ ở khác. Nay chị em chúng tôi muốn chia thừa kế căn nhà trên Hà Nội để lấy nơi thờ cúng tổ tiên hương khói cho bố(vì quê bố ở Hà Nội). Nhưng bà vợ hai muốn lấy căn nhà này để cho người con trai út (con chung với bố tôi). Vậy bà vợ hai và các con của vợ hai có được hưởng thừa kế không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Vì bố anh lấy người vợ hai ở Hà Nội vào năm 1978 là trong thời gian Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực. Theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thời đó chỉ thừa nhận chế độ hôn nhân một vợ một chồng cụ thể Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: “Cấm lấy vợ lẽ”. Do đó quan hệ giữa bố anh và người vợ hai ở Hà Nội không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng.
Sau khi lấy bà vợ hai, bố anh vẫn giữ quan hệ vợ chồng với người vợ cả ở Hải phòng. Năm 1988 bố anh được hưởng thừa kế của ông nội căn nhà tại Thanh Trì, Hà Nội là trong thời gian Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực. Theo quy định tại Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 thì: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản ...hoặc những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”. Như vậy, căn nhà ông được hưởng thừa kế của bố ông theo bản án năm 1988 là tài sản chung vợ chồng của bố anh và người vợ thứ nhất (là mẹ của anh), còn người vợ hai không có quyền lợi đối với tài sản này vì không được pháp luật công nhận là vợ hợp pháp của bố anh .
Năm 2001 bố anh mất không để lại di chúc nên diện tích nhà đất trên một nửa là tài sản của mẹ anh, một nửa là di sản thừa kế của bố anh và được chia theo quy định của pháp luật. Căn cứ dữ kiện anh nêu thì căn nhà này do người vợ hai đang quản lý và không có ý định chia cho các anh chị em anh mà định để cho người con trai út (con chung của bà vợ hai với bố anh). Căn cứ điều 648 Bộ luật dân sự(1) quy định về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế như sau: “Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế”. Vì bố anh mất năm 2001 nên hiện nay vẫn còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu Toà án chia thừa kế đối với di sản của bố anh. Do đó các đồng thừa kế có thể yêu cầu Toà án chia thừa kế theo quy định của pháp luật để xác định kỷ phần thừa kế của mỗi người được hưởng.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(2) thì mười một người con (của cả hai người vợ) và người vợ cả có đăng ký kết hôn là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và theo quy định tại khoản 2 Điều này(3) thì “những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau” (tổng cộng là 12 người).
Điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự về những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.
Tuy nhiên, người vợ hai vẫn có thể được toà án cho hưởng một phần trong di sản thừa kế của bố ông vì có công đóng góp, bảo quản, duy tu đối với khối tài sản đó. Vì mẹ anh và 8 người con đã có nhà ở tại Hải phòng nên mẹ anh và các anh chị em của anh có thể đề nghị toà án chia bằng hiện vật chung 1 khối để lấy chỗ làm nơi thờ cúng bố anh tại Hà Nội -là quê của bố anh.
------------------------------------------
(1) Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".
(2) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
Quyền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đối với tài sản thừa kế là nhà tại Việt Nam
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có một ngôi nhà được cơ quan thanh lý. Mẹ tôi mất năm 1998 còn bố tôi mất năm 1999. Mẹ tôi mất không có di chúc nhưng trước khi mất bố tôi đã viết di chúc để lại cho tôi được hưởng thừa kế toàn bộ ngôi nhà. Sáu anh em trong gia đình đều nhất trí để tôi đứng tên sở hữu ngôi nhà và làm nơi thờ cúng tổ tiên. Hiện nay tôi đang định cư ở nước ngoài và ít có điều kiện để về nước. Vậy tôi có thể đứng tên trong sổ đỏ đối với ngôi nhà được thừa kế không? Ai có quyền quản lý trông nom ngôi nhà để thờ cúng?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Căn cứ Điều 634 Bộ luật dân sự(1) quy định: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Như vậy ông là người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng có quyền hưởng thừa kế tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Khoản 1 Điều 637 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Vì ngôi nhà là tài sản chung vợ chồng nên bố ông chỉ có quyền định đoạt phần tài sản của mình trong khối tài sản chung.
Căn cứ khoản 1, 2 Điều 233 Bộ luật dân sự(3) quy định về sở hữu chung vợ chồng: “1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất. 2. Vợ, chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”. Do đó bố ông chỉ được lập di chúc để thừa kế cho ông một nửa ngôi nhà, còn một nửa thuộc quyền sở hữu của mẹ.
Vì năm 1998 mẹ ông chết không để lại di chúc nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(4) quy định về hàng thừa kế thứ nhất thì bảy anh em của ông và bố là những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần thừa kế của mẹ bằng nhau. Năm 1999 bố ông chết và trước khi chết để lại di chúc cho ông toàn bộ ngôi nhà, nhưng bố chỉ có quyền định đoạt một nửa ngôi nhà và 1/8 trong một nửa phần của mẹ. Tuy nhiên, sau đó cả sáu người anh em của ông đã thống nhất để cho ông hưởng toàn bộ ngôi nhà và để ngôi nhà làm nơi thờ cúng tổ tiên.
Vì ông là người Việt Nam nhưng đang định cư ở nước ngoài, không sống ở Việt Nam nên việc được hưởng thừa kế là nhà đất cần phải tuân theo quy định của pháp luật như sau:
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 121 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó”.
Khoản 1 Điều 121 Luật đất đai năm 2003 quy định:
“a. Người về đầu tư lâu dài có nhu cầu nhà ở trong thời gian đầu tư tại Việt Nam;
b. Người có công đóng góp với đất nước;
c. Những nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam  nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước;
d. Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam;
đ. Các đối tượng khác theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
Như vậy là ông không thể đứng tên trong sổ đỏ đối với ngôi nhà của bố mẹ, tuy nhiên ngôi nhà này vẫn là tài sản của ông theo thoả thuận của các đồng thừa kế. Việc để cho ông sở hữu toàn bộ ngôi nhà của các đồng thừa kế là có điều kiện đó là: để ngôi nhà làm nơi thờ cúng tổ tiên.
Căn cứ Điều 684 Bộ luật dân sự(5) quy định:
“1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thoả thuận những việc sau đây:
a. Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;
b. Cách thức phân chia di sản.
2. Mọi thoả thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản”.
Theo quy định của Điều luật nêu trên, bảy anh chị em của ông có thể lập Biên bản thoả thuận với nội dung sau: tất cả các anh chị em thống nhất để ông sở hữu ngôi nhà của bố mẹ. Trong thời gian ông chưa đủ điều kiện để đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà thì cử một người trong số các anh chị em đứng tên sở hữu. Người này chỉ là đại diện chứ không có quyền định đoạt vì ngôi nhà chỉ để làm nơi thờ cúng tổ tiên chứ không bán hoặc phân chia.
-----------------------------------------------
(1) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005.
(3) Khoản 1, 2 điều 219 Bộ luật dân sự năm 2005.
(4) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Điều 681 Bộ luật dân sự năm 2005.
Người con đã được bố mẹ cho quyền sử dụng đất thì có quyền đòi chia thừa kế nữa không?
Câu hỏi:

Bố mẹ tôi có 879m2 đất thổ cư tại xã Liên Ninh, Thanh Trì, Hà Nội và có tám người con. Khi bố tôi còn sống đã chia cho hai người con là tôi và anh C hai mảnh đất trong tổng diện tích đó (vào năm 1983 và 1991) còn những người con khác thì không được chia vì chưa xây dựng gia đình. Năm 1996 bố tôi mất không để lại di chúc, mẹ tôi là người sử dụng và đóng thuế từ đó cho đến nay. Năm 2003 mẹ tôi chia diện tích đất còn lại cho 3 người con trai chưa được chia (còn tôi, anh C và ba người con gái đã đi lấy chồng không được chia nữa). Nhưng anh C muốn được chia thêm một phần nữa nhưng mẹ tôi không đồng ý. Hỏi anh C đã được chia đất (149m2) khi bố còn sống thì có quyền đòi chia thừa kế và hưởng thêm đất nữa không?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Đối với diện tích đất mà bố mẹ ông đã cho ông C khi bố ông còn sống: Theo quy định điều 1 Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 thì: " Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong...tặng cho tài sản".
Vì diện tích đất 879 m2 là tài sản của bố mẹ ông nên vào các năm 1983 và 1991 bố mẹ ông đã thực hiện quyền định đoạt bằng cách chia cho hai người con (là ông và ông C) mỗi người một mảnh đất trong tổng số diện tích này khi xây dựng gia đình là phù hợp với quy định của pháp luật về đất đai vào thời điểm đó bởi vì Luật đất đai năm 1987 chỉ nghiêm cấm người sử dụng đất "mua bán đất đai ...dưới mọi hình thức" (điều 5) chứ không nghiêm cấm việc bố mẹ chia đất cho con để xây nhà và sử dụng.
Vì bố ông mất không để lại di chúc nên việc chia thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 679 Bộ luật dân sự(1) quy định về hàng thừa kế thứ nhất như sau: “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” cho nên mẹ ông và tám người con (trong đó có cả ông và ông C) sẽ được chia thừa kế của bố. Như vậy là ông C cũng có quyền yêu cầu chia thừa kế (đối với phần di sản của bố ông).
- Căn cứ dữ kiện ông nêu thì mẹ ông không muốn chia thêm đất cho ông C (vì ông C đã được chia 149m2 khi bố ông còn sống) mà mẹ ông chỉ định chia đất cho những con chưa được bố mẹ cho đất. Việc ông C có được hưởng thêm đất nữa không phụ thuộc vào kỷ phần thừa kế mà mỗi người thừa kế được hưởng.
Có hai trường hợp xảy ra:
- Trường hợp 1: Căn cứ khoản 1 điều 18 Luật đai năm 1987(2) quy định nghĩa vụ của người đang sử dụng đất hợp pháp : "..phải xin đăng ký đất đai tại Cơ quan nhà nước nói ở khoản 2 điều này (là Uỷ ban nhân dân quận, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, thị trấn và Uỷ ban nhân dân xã thuộc huyện)". Nếu như ông C sau khi được bố mẹ chia đất đã xây dựng nhà ở và đã thực hiện việc đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và được đứng tên trong bản đồ địa chính thì được coi là người sử dụng đất (đối với diện tích 149m2). Căn cứ điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003(3) quy định một trong những loại giấy tờ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là người sử dụng đất " có tên trong sổ địa chính". Thì ông C vẫn có quyền yêu cầu chia thừa kế đối với phần di sản của bố ông theo quy định của pháp luật (trường hợp bố ông mất đi không để lại di chúc) vì theo quy định tại điều 635 Bộ luật dân sự năm 1995(4)  "Mọi cá nhân đều bình đẳng về..quyền hưởng di sản...theo pháp luật".
Trong trường hợp này phần diện tích đất mà ông C được bố mẹ chia khi bố đang còn sống không được tính vào khối tài sản chung.
- Trường hợp 2: Còn nếu ông C chưa thực hiện nghĩa vụ đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và chưa được đứng tên trong bản đồ địa chính, nay mẹ ông không thừa nhận việc cho đất trước kia thì ông C chưa phải là người sử dụng đất hợp pháp (đối với diện tích 149m2) theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên ông C vẫn có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế của bố theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này phần diện tích mà ông C đang quản lý được tính chung vào khối tài sản chung để chia.
Việc chia khối tài sản chung trong cả hai trường hợp như sau:
-  Căn cứ điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959(5) thì mẹ ông được quyền sở hữu đối với một nửa khối tài sản. Do đó khối tài sản chung được chia đôi và mẹ ông được hưởng 419m2 đất (nếu thuộc trường hợp 2).
- Căn cứ khoản 2 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995(6) thì một nửa khối tài sản của bố ông (là quyền sử dụng 439,5m2) được chia thành các phần bằng nhau cho những người thừa kế thuộc hàng thứ nhất. Theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 (7)thì những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: "Vợ, chồng, ...con đẻ của người chết". Do đó phần của bố ông về nguyên tắc sẽ được chia thành 9 phần bằng nhau (cụ thể là cho cả mẹ ông và 8 người con trong đó có 3 người con gái đã đi lấy chồng). Mỗi người sẽ được hưởng kỷ phần là 48,83m2 (nếu thuộc truờng hợp 2). Căn cứ dữ kiện ông nêu thì ông C đã được chia 149m2 là nhiều hơn kỷ phần thừa kế mà ông C được hưởng nên ông C phải có trách nhiệm thanh toán lại cho những người thừa kế khác để bảo đảm cho họ được hưởng đủ với kỷ phần mà họ được hưởng theo pháp luật.
Còn nếu thuộc trường hợp 1 thì khối tài sản chung của bố mẹ được xác định là 730m2 và phần di sản thừa kế của bố ông là 365m2. Như vậy mỗi kỷ phần thừa kế sẽ là 40,55m2. Đây cũng là số đất mà ông C được hưởng thêm.
------------------------------------------------
(1) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 18 Luật đất đai năm 1987 quy định: "Khi được Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho phép chuyển quyền sử dụng, thay đổi mục đích sử dụng hạơc đang sử dụng đất hợp pháp mà chưa đăng ký thì người sử dụng phải xin đăng ký đất đai tại cơ quan nhà nước nói tại khoản 2 điều này"
(3) Điểm b khoản 1 điều 50 Luật đất đai năm 2003 quy định: "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban Nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
b. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;"
 (4) Điều 632 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền đẻ lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật".
 (5) Điều 15 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: "Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới".
(6) Khoản 2 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.
(7) Điểm a khoản 1 điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005..
Điều kiện và thủ tục để người Việt Nam định cư ở nước ngoài được hưởng thừa kế bất động sản tại Việt Nam
Câu hỏi:

Trước đây tôi ở Việt Nam nhưng nay đã đi định cư ở nước ngoài từ lâu. Bố mẹ của tôi có tài sản là một căn nhà trên đất tại Việt Nam. Vậy người Việt Nam định cư ở nước ngoài có được hưởng thừa kế tài sản (là nhà đất) của cha mẹ để lại tại Việt Nam hay không? Thủ tục xin hưởng thừa kế như thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Thừa kế là việc chuyển giao tài sản của người chết cho người còn sống là người thừa kế. Vì vậy, tại khoản 5 Điều 176 Bộ luật dân sự năm 1995(1) quy định một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu là: “Được thừa kế tài sản”. Vì tài sản ở tại Việt Nam nên điều kiện được hưởng thừa kế phải tuân theo pháp luật của Việt Nam là nơi có tài sản (theo quy định tại khoản 1 Điều 833 Bộ luật dân sự năm 1995).
Khoản 1 Điều 833 Bộ luật dân sự(2) quy định: “Việc xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định khác”.
Khoản 3 Điều 15 Bộ luật dân sự(3) quy định: “Bộ luật dân sự được áp dụng đối với các quan hệ dân sự có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia tại Việt Nam, trừ một số quan hệ dân sự mà pháp luật có quy định riêng”. Do đó, anh cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của Bộ luật này.
Căn cứ Điều 634 Bộ luật dân sự(4) quy định về quyền thừa kế của cá nhân như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.
Như vậy anh được hưởng di sản thừa kế nếu bố mẹ anh có để lại di chúc nói về vấn đề này hoặc là người thuộc hàng thừa kế theo quy định của pháp luật trong trường hợp bố mẹ anh không để lại di chúc.
Vì di sản thừa kế là bất động sản (nhà gắn liền với quyền sử dụng đất)- là loại tài sản đặc biệt nên theo quy định của pháp luật Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn có thể được hưởng thừa kế tài sản của cha mẹ họ để lại tại Việt Nam nếu có đủ các điều kiện như sau:
- Đối với di sản thừa kế là nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất: theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 121 Luật đất đai năm 2003 thì trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này) thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó.
-  Điểm d khoản 2 Điều 121 Luật đất đai năm 2003: “...trường hợp người thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này hoặc cá nhân nước ngoài thì được hưởng giá trị của phần thừa kế đó”.
- Khoản 1 Điều 121 Luật đất đai năm 2003 quy định:
“a. Người về đầu tư lâu dài có nhu cầu nhà ở trong thời gian đầu tư tại Việt Nam;
b. Người có công đóng góp với đất nước;
c. Những nhà hoạt động văn hoá, nhà khoa học có nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam  nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước;
d. Người có nhu cầu về sống ổn định tại Việt Nam;
đ. Các đối tượng khác theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.
 
- Đối với di sản thừa kế là quyền sử dụng đất: Theo quy định tại khoản 2 Điều 637 Bộ luật dân sự(5): “Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế theo quy định tại Phần thứ năm của Bộ luật này”. Để được hưởng thừa kế quyền sử dụng đất thì người thừa kế cũng phải có các điều kiện theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật đất đai năm 2003.
Tại khoản 5 Điều 113 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Trường hợp người được thừa kế là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 của Luật này thì được nhận thừa kế quyền sử dụng đất”.
Tuy nhiên, đối với trường hợp không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 121 Luật đất đai năm 2003 thì họ sẽ “được hưởng giá trị của phần thừa kế đó” theo quy định tại khoản 5 Điều 113.
Do vậy, nếu anh không đủ điều kiện để được hưởng thừa kế là nhà đất tại Việt Nam thì có thể chuyển nhượng cho người khác để lấy bằng tiền.
Căn cứ khoản 1 Điều 14 Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối quy định về mua và chuyển ngoại tệ của cá nhân như sau: “1. Người cư trú là công dân Việt Nam có nhu cầu ngoại tệ để chuyển tiền trợ cấp, thừa kế cho gia đình và người thân ở nước ngoài... sẽ được phép mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài trên cơ sở xuất trình các giấy tờ có liên quan theo quy định của Ngân hàng nhà nước”.
Như vậy sau khi được nhận giá trị thừa kế bằng tiền thì anh có quyền mua ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài theo quy định nêu trên.
-------------------------------------------
(1) Khoản 5 điều 170 Bộ luật dân sự năm 2005.
(2) Khoản 1 điều 766 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 điều này".
(3) Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ quy định này. Vấn đề này được quy định tại khoản 5 điều 113 Luật đất đai năm 2003: "Cá nhân có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật".
(4) Điều 631 Bộ luật dân sự năm 2005.
(5) Bộ luật dân sự năm 2005 đã bỏ quy định này.
Tội cướp giật tài sản - Điều 136
Câu hỏi:

Điều 136. Tội cướp giật tài sản
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
h) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.

Trả lời:
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
 
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Thông
 
          Các Thẩm phán:
                   1/ Bà Lâm Kim Phụng
                   2/ Lê Thị Minh Ngọc
 
          Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Hải Nam - Cán bộ Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
 
          Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: Ông Lê Phong Ba - Kiểm sát viên.
 
Ngày 05 tháng 01 năm 2009 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 591/2008/HSPT ngày 20 tháng 10 năm 2008, đối với bị cáo Nguyễn Bảo Tuấn. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Bảo Tuấn đối với bản án hình sự sơ thẩm số 150/2008/HSST ngày 25/9/2008 của Tòa án nhân dân quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
 
Bị cáo có kháng cáo:              
 
Nguyễn Bảo Tuấn, sinh năm 1978, tại Tp. Hồ Chí Minh; thường trú: 75/77A Trần Tuấn Khải, phường 5, quận 5, Tp. Hồ Chí Minh; chỗ ở hiện nay: không nơi ở nhất định; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: không; con ông: Nguyễn Bảo Tín (chết); và bà: Võ Thị Hây; có vợ: Ngô Mộng Tuyền, có 01 con 03 tuổi; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giam ngày 16/12/2007 (có mặt).
 
Người bị hại: Cao Thanh Sơn, sinh năm 1970
Ngụ tại: 36/10 Phan Văn Đời, ấp Tiến Lân, xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người làm nhân chứng: Thạch Hồng Vân, sinh năm 1948
Thường trú: 420A Hòa Hảo, phường 5, quận 10, Tp. Hồ Chí Minh (vắng mặt).
 
NHẬN THẤY
 
Theo bản cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 5 thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
 
Vào khoảng 17 giờ 50 phút ngày 27/10/2005 Nguyễn Văn Qúy, Bùi Quang Sang cùng đi xe gắn máy không nhớ rõ biển số, khi đến ngã tư Trần Phú – Lê Hồng Phong thuộc phường 4, quận 5 giật 01 điện thoại của ông Nguyễn Thanh Tâm.
 
Đến ngày 12/6/2006 vào lúc 6 giờ 30 phút cùng ngày Nguyễn Bảo Tuấn cùng với Nguyễn Văn Qúy cùng đi trên chiếc xe có biển số 52L3-2275 do Tuấn trực tiếp điều khiển, khi đến đường Lý Thường Kiệt thuộc địa bàn phường 12, quận 5, bọn Qúy, Tuấn phát hiện 01 cặp nam nữ đi bằng xe gắn máy vừa đến trước Ngân hàng Vietcombank, Tuấn liền cho xe của mình vào xe của cặp nam nữ tạo điều kiện cho Qúy giật chiếc giỏ xách rồi cả hai chạy tẩu thoát, người bị hại là anh Cao Thanh Sơn cùng với một người lái xe ôm cùng đuổi theo nhưng không bắt được nên người bị hại phải đến Công an phường 12, quận 5 báo cáo sự việc bị hai thanh iên cướp giật, qua nắm tình hình, biết được hai thanh niên cướp giật giỏ xách là Qúy (đầu bò) và Nguyễn Bảo Tuấn (Tuấn què).
 
Ngày 14/10/2007 Công an đã ra lệnh truy nã đối với Nguyễn Bảo Tuấn, đến ngày 16/12/2007 Nguyễn Bảo Tuấn mới bị bắt giữ theo lệnh truy nã nhưng Nguyễn Bảo Tuấn không khai nhận hành vi cướp giật của mình cùng với Nguyễn Văn Qúy.
 
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 150/2008/HSST ngày 05/9/2008, Toà án nhân dân quận 5 đã áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 33 của Bộ luật hình sự
 
Xử phạt: Nguyễn Bảo Tuấn 04 (Bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2007.
 
Đến ngày 15/9/2008 Nguyễn Bảo Tuấn làm đơn kháng cáo kêu oan.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo kêu oan nhờ Hội đồng xét xử xem xét oan cho bị cáo các quyền của bị cáo chưa được bảo đảm. Viện kiểm sát đề nghị sau khi nghe bị cáo khai và đối chiếu biên bản phiên tòa sơ thẩm có phần vi phạm về tố tụng. Đề nghị hủy một phần án sơ thẩm về bị cáo Nguyễn Bảo Tuấn để cấp sơ thẩm xét xử theo thủ tục chung.
 
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
 
XÉT THẤY
 
Tại biên bản phiên tòa hình sự sơ thẩm vào lúc 8 giờ ngày 05/9/2008 (BL 20 đến 27).
 
1- Phần thủ tục xét hỏi tại phiên tòa: Do bị cáo Nguyễn Bảo Tuấn la hét, vùng vẩy không trả lời, không chịu hợp tác nên đã phải cách ly bị cáo, bị cáo vẫn được nghe lời khai của Qúy, là đồng phạm với bị cáo Tuấn.
 
Lẽ ra phải yêu cầu cảnh sát, dẫn giải giữ yên bị cáo tại phòng xét xử, để trực tiếp nghe lời khai của các bị cáo khác, nhằm xác định lời khai của các bị cáo khác có hay không? quyền trả lời của bị cáo!
 
2- Đến phần tranh luận: bị cáo phải được có mặt để tranh luận với Viện kiểm sát về phần luận tội, buộc tội trực tiếp, còn bị cáo có tranh luận hay không là quyền của bị cáo. Phần này chưa được bảo đảm là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, hoặc kể cả lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào, nghị án cũng không được thực hiện đối với bị cáo Tuấn.
 
3- Thư ký ghi biên bản phiên tòa Lâm Thanh Tiền, khi ký kết thúc phiên tòa lại ghi không rõ tên, những vấn đề nêu trên đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. Đối với bị cáo Nguyễn Bảo Tuấn mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần phải hủy một phần bản án sơ thẩm, để giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án theo thủ tục chung, theo như đề nghị của Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại phiên tòa.
 
Vì các lẽ trên.
Căn cứ điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 248; điểm a khoản 2 Điều 250 của Bộ luật tố tụng hình sự.
 
QUYẾT ĐỊNH
 
Hủy một phần bản án sơ thẩm số 150/2008/HSST ngày 05/9/2008 của Tòa án nhân dân quận 5, Tp. Hồ Chí Minh đối với phần Nguyễn Bảo Tuấn về việc xét xử sơ thẩm.
 
Chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân quận 5 để xét xử sơ thẩm theo thủ tục chung.
 
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
 
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày Tòa tuyên án
Thị trường đầu tư
Câu hỏi:

Công ty X là một công ty nước ngoài kinh doanh về thực Phẩm tại Việt Nam. Vừa qua, công ty nhận được lời đề nghị về việc ưu tiên mua hàng nông sản của địa phương nơi công ty đống trụ sở. Vậy công ty X có phải ưu tiên mua hàng như lời đề nghị không? Luật đầu tư quy định về vấn đề này như thế nào ?

Trả lời:

Để phù hợp với các quy định trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Nhà nước bảo đảm thực hiện đối với nhà đầu tư nước ngoài các quy định sau đây:
1. Mở cửa thị trường đầu tư phù hợp với lộ trình đã cam kết;
2. Không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện các yêu cầu sau đây:
a) Ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhất định trong nước;
b) Xuất khẩu hàng hóa hoặc xuất khẩu dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định; hạn chế số lượng, giá trị, loại hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng trong nước;
c) Nhập khẩu hàng hóa với số lượng và giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu;
d) Đạt được tỷ lệ nội địa hóa nhất định trong hàng hóa sản xuất;
đ) Đạt được một mức độ nhất định hoặc giá trị nhất định trong hoạt động nghiên cứu và phát triển ở trong nước;
e) Cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại một địa điểm cụ thể ở trong nước hoặc nước ngoài;
g) Đặt trụ sở chính tại một địa điểm cụ thể.
Bảo đảm về vốn và tài sản đầu tư
Câu hỏi:

Ông B là Việt Kiều định cư ở Pháp. Ông góp vốn vào công ty của một người anh em họ hiện đang kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam. Tuy nhiên, ông vẫn băn khoăn muốn biết nhà nước Việt Nam có những bảo đảm như thế nào đối với vốn và tài sản của nhà đầu tư?

Trả lời:

Điều 6. Bảo đảm về vốn và tài sản
1. Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.
2. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng.
Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư.
3. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, việc thanh toán hoặc bồi thường tài sản quy định tại khoản 2 Điều này được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi và được quyền chuyển ra nước ngoài.
4. Thể thức, điều kiện trưng mua, trưng dụng theo quy định của pháp luật. 
Chính sách đầu tư
Câu hỏi:

Tôi được biết, cuối năm 2005, Nhà nước ta đã ban hành Luật đầu tư với những quy định nhằm tạo lập một sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Xin cho biết cụ thể chính sách về đầu tư của Nhà nước ta hiện nay như thế nào?

Trả lời:

Điều 4 Luật đầu tư quy định chính sách đầu tư như sau:
1. Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư.
3. Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư.
4. Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư.
ai được hưởng thừa kế thế vị
Câu hỏi:

Kính xin Quý Luật sư ,
Mẹ chồng Tôi có 10 người con, nhưng chỉ còn năm người còn sông đêu có gia đình ; ngoài ra người con thứ 5 (Chú 5 )đã mất TRƯỚC Mẹ chồng tôi ; và người anh cả (Bác Hai) thì lại mất SAU Mẹ chồng tôi. cả 2 đều có con (gọi Mẹ chồng Tôi bằng bà nội ) Như vậy 2 người cháu nầy : ai được hưởng quyền thừa kế thế vị ; : cả 2 hay chỉ có người cháu mà cha mất trước bà nội ?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định của Bộ luật dân sự, Điều 677 quy định về thừa kế thế vị:
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Như vậy, đối với hai cháu nội trên của mẹ chồng bạn, con của người Chú 5 sẽ được hưởng thừa kế thế vị.
con tôi không ở Việt Nam và không có quốc tịch Việt Nam thì có được hưởng thừa kế di sản là nhà và đất tại Việt Nam không?
Câu hỏi:

Tôi kết hôn với người Pháp và bây giờ tôi đang sống ở Pháp, nhưng chưa có quốc tịch Pháp, trước khi kết hôn tôi có sở hữu một căn nhà ở VN và bây giờ tôi đã mua thêm đất ở VN ( tất cả nhà và đất chỉ một mình tôi đứng tên chủ sở hữu), hiện tại tôi đang mang thai,tôi muốn hỏi đất ở VN và nhà của tôi hiện có, khi tôi qua đời vì một lí do nào đó thì con tôi có được thừa kế tài sản của tôi không ?(nếu con tôi không ở VN và không có quốc tịch VN) và bây giờ tôi cần phải làm thủ tục gì để đảm bảo quyền lợi cho con tôi sau khi tôi qua đời.
Tôi mong nhận được câu trả lời sớm,chân thành cảm ơn quý luật sư

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Để con bạn có thể hưởng thừa kế phần tài sản của bạn, bạn có thể lập di chúc để lại toàn bộ tài sản của mình cho người con. Quan hệ thừa kế phát sinh chỉ khi bạn mất đi, con bạn mới được hưởng phần di sản do bạn để lại. Nếu sau này khi con bạn đủ 18 tuổi, bạn có thể thực hiện việc tặng cho tài sản cho người con và chuyển quyền sở hữu mà không cần lập di chúc.
Việc con bạn không có quốc tịch Việt Nam sẽ không ảnh hưởng đến việc được hưởng thừa kế hoặc quyền được tặng cho tài sản. Chỉ giới hạn ở việc nếu con bạn không thuộc trường hợp được sở hữu nhà ở Việt Nam theo quy định tại Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung điều 126 của luật nhà ở và điều 121 của luật đất đai thì con bạn  chỉ được hưởng giá trị của căn nhà và đất.
Điều 126. Quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam:
a) Người có quốc tịch Việt Nam;
b) Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước.
2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam.
Người có công với cách mạng có được miễn giảm tiền sử dụng đất không?
Câu hỏi:

Người có công với cách mạng khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất có được miễn giảm tiền thuế không? Nếu được thì bao nhiêu.

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Nam Sài Gòn trả lời:
Theo quy định tại Nghị Định của chính phủ Số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về thu tiền sử dụng đất.
Trường hợp người có công với cách mạng chỉ được miễn giảm tiền sử dụng đất một lần trong trường hợp: được Nhà nước giao đất để làm nhà ở hoặc được phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất khác sang làm đất ở hoặc được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở.
Theo quy định tại Điều 12 nghị định quy định về Miễn tiền sử dụng đất trong trường hợp:
Đất ở trong hạn mức giao đất (bao gồm giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất) đối với người có công với cách mạng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.”
Và nguyên tắc thực hiện việc miễn giảm:
-           Trong hộ gia đình có nhiều thành viên thuộc diện được giảm tiền sử dụng đất thì được cộng các mức giảm của từng thành viên thành mức giảm chung của cả hộ, nhưng mức giảm tối đa không vượt quá số tiền sử dụng đất phải nộp trong hạn mức đất ở.
-          Trong trường hợp một hộ gia đình hoặc một người thuộc đối tượng được hưởng cả miễn và giảm tiền sử dụng đất thì được hưởng miễn tiền sử dụng đất; nếu một người thuộc đối tượng được hưởng giảm tiền sử dụng đất mà có nhiều mức giảm khác nhau thì được hưởng mức cao nhất.
 

Chia di sản thừa kế như thế nào?
Câu hỏi:

Ông Nội mất ngày 11.2.1975 có để lại cho Bà Nội Tôi và 04 người con một căn nhà và đất (có giấy CNQSDĐ tạm thời cấp ngày 22/03/1993). ở Quận Gò Vấp
Năm 1993 Bà Tôi và 01 người con đi định cư ở mỹ nên có làm giấy tờ để lại cho Bố tôi:
- giấy cho và nhượng di sản đề ngày 04/05/1993 do phòng Công chứng nhà nước Tp.HCM chứng nhận
- Tờ khai chuyển dịch tài sản nộp thuế trước bạ (ngày 20/04/1993)
- đơn xin hợp thức hóa nhà ( ngày 26/03/1993)
- giấy hợp thức hóa nhà (ngày 08/4/1993)
- văn tự cho nhà (ngày 21/4/1993)
hiện nay Bà Nội Tôi đã mất năm 2009. Hai người con còn lại 01 ở Mỹ và 01 ở Tp.HCM đã ra công chứng lập văn bản thỏa thuận phân chia di sản.
Hiện nay Bố Tôi phải làm những thủ tục và cần bổ sung những giấy tờ gì để được cấp giấy CNQSDĐ.
Mong sớm nhận được tư vấn sớm của Qúy Luật sư.
Xin chân thành cảm ơn.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Do Ông nội bạn mất mà không để lại di chúc, sau đó bà nội bạn đã viết giấy cho lại tài sản cho bố bạn. Tuy nhiên nếu Bà nội để lại toàn bộ tài sản là không đúng, đây là tài sản chung của vợ chồng, Bà nội của bạn chỉ có quyền quyết định phần tài sản của mình (một nữa trong khối tài sản chung)
Nữa phần tài sản còn lại sẽ được chia theo pháp luật nếu có yêu cầu:
Theo quy định tại Điều 676, BLDS về hàng thừa kế, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Tuy nhiên, theo Điều 645 bộ luật dân sự, thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Do vậy, di sản ông nội để lại đã hết thời hiệu chia thừa kế. Nay nếu các đồng thừa kế như đã nêu ở trên không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Nếu không thể tự thỏa thuận việc phân chia nhà thì các người cháu có thể khởi kiện để yêu cầu chia tài sản chung. Bố của bạn còn được hưởng thêm phần di sản chia theo pháp luật.
Sau khi lập thỏa thuận phân chia phần di sản thừa kế nêu trên hoặc có bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án, bạn liên hệ với UBND quận gò vấp để thực hiện thủ tục cấp GDNQSD đất.
Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy tay trước 1/72004, Hợp thức hóa nhà đất như thế nào?
Câu hỏi:

Cha tôi có mua một thửa ruộng của bà A bằng 3 lần, lần đầu 1000 mét vuông năm 1993 chỉ có giấy cầm cố( có thời hạn ) nhưng sau đó có thêm tiền để mua luôn mà không làm lại giấy mua bán, năm 1994 mua thêm 1500 mét vuông nhưng chỉ làm giấy tay và lần mua sau cùng là 1000 mét vuông vào năm 1995 cũng chỉ bằng giấy tay và cũng đã hết thửa đất nên ông đã giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà từ lúc đó, nhưng lại không sang tên. Đến năm 2003 cha tôi mất, đến năm 2007, tôi có đề nghị bà A kí tên cho tôi được chuyển nhượng thửa đất, nhưng bà A không chịu và còn đòi thêm một số tiền mới kí giấy, tôi cũng chấp nhận đưa thêm tiền nhưng bà lại không kí giấy mà còn gửi đơn đến cơ quan cấp xã khiếu nại đòi lại phần đất bán sau cùng với tời giấy cầm cố của 1000 mét vuông mua đầu tiên. Cơ quan cấp xã hòa giải không thành và đưa lên tòa án nhân dân huyện để giải quyết. Sau một thời gian, tòa án đã có bản án cho tôi được sang tên 1000 mét vuông mua sau cùng. Xin cho tôi được hỏi: phần đất của cha tôi mua trước đó ( 2500 mét vuông ) có được bà A kí tên để tôi làm giấy CNQSDĐ không. Xin cảm ơn qúi luật sư.

Trả lời:
Chào bạn! Văn phòng luật sư Nam Sài Gòn xin được trao đổi về trường hợp của bạn như sau:
Cha của bạn mua 2 phần đất còn lại vào năm 1994 và năm 1995 chỉ mua bằng giấy tay và chưa tiến hành sang tên.
Theo Điều 11 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chính phủ, nếu đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy tay vào năm 2002 (trước ngày 1-7-2004), và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi tắt là “giấy chứng nhận”) thì bạn không phải thực hiện lại thủ tục chuyển quyền sử dụng đất (theo đúng quy định của pháp luật).
Như vậy, bạn có thể làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với những giấy tờ kèm theo như: đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ mua bán đất của Cha bạn trước đây, bản án của Tòa án, giấy tờ chứng minh bạn là người thừa kế hợp pháp đối với mảnh đất trên.
Nếu cần trao đổi thêm, xin vui lòng liên hệ
Văn phòng luật sư Nam Sài Gòn
Tranh chấp tài sản chung sau khi ly hôn?
Câu hỏi:

Cam kết góp vốn nhưng Chưa thực hiện lại đòi chia Tài sản sau khi đã Thỏa thuận Chia tài sản chung xong và đã có quyết định của Tòa án cách đây 3 năm?
Bạn tôi TĐT và cô ĐTT kết hôn tháng 04/1996 và tháng 08/2008 ly hôn theo quyết định ly hôn của Tòa án cách đây 3 năm, công nhận Thuận tình ly hôn và 2 người thỏa thuận tự phân chia tài sản chung không nhờ đến Tòa án và lập "Bản thỏa thuận chia tài sản ly hôn" khẳng định:
1 - Trong thời kỳ hôn nhân chúng tôi có tạo dựng được các Tài sản Chung như sau:
- Căn nhà thứ và quyền SDD thứ 1 tại ….. , Giấy CNQSHNO&QSDDO số, ngày... diện tích ….
- Căn nhà và quyền SDD thứ 2 tại ….., Giấy CNQSHNO&QSDDO số, ngày... diện tích….
2 - Nay vì bất đồng quan điểm phải ly hôn nên chúng tôi Thỏa thuận việc Chia tài sản Chung của Chúng tôi như sau:
- Bà ĐTT sẽ chuyển trả cho ông TĐT số tiền chênh lệch là ............. để được sở hữu căn nhà thứ 1 Giấy CNQSHNO&QSDDO số ………….
- Ông TDT được quyền sở hữu căn nhà và quyền SDD thứ 2 Giấy CNQSHNO&QSDDO số …. . mà không phải bù chênh lệch cho bà Đ.T.T.T đối với căn nhà này.
3 - Các tài sản còn lại không được thỏa thuận bằng văn bản hai bên đã tự phân chia.
4 - Cam kết:
- Khi có yêu cầu của người này về việc ký xác nhận vào các văn bản, giấy tờ có liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản được chia thì người kia cam kết sẽ thực hiện mà không có lý do từ chối hay đòi thêm chi phí.
- Hai bên cùng tự nguyện xác nhận việc chia tài sản nêu trên không nhằm mục đích trốn tránh bất kỳ nghĩa vụ nào có liên quan đến tài sản được chia, đồng thời chịu hậu quả phát sinh (nếu có) liên quan đến thỏa thuận và cam kết này.
Hai bên đã ký xác nhận và việc trả tiền bù chênh lệch hoàn thành, 2 bên cũng đã ra phòng công chứng lập Hơp đồng tặng cho tài sản đúng theo cam kết.
Thêm nữa, toàn bộ tiền Tiết kiệm từ năm 2003 đến đầu năm 2008 gửi ở Ngân hàng do cô ĐTT đứng tên, bị rút hết nên Không đưa vào biên bản nên ông TĐT không được chia đồng nào, biên bản không nhắc đến xem như tài sản riêng đứng tên bà ĐTT được chia.
Tuy nhiên, vừa qua cô Đ.T.T bỗng dưng viết giấy gửi ông TĐT đòi chia thêm 1 phần tài sản có nguồn gốc như sau:
- Tháng 2/2003, trong thời gian vừa trả hết nợ căn nhà và đất thứ 1, do có nhu cầu nên ông TĐT đã bốc bưu (mượn tiền lương Cơ quan theo hình thức các cá nhân tham gia góp lương, ai bốc thăm trúng nhận trước, hàng tháng trừ lương 1 số tiền đã quy định) và vay thêm tiền để mua đất thứ 2, cả 2 căn nhà đều đúng tên 2 người và xem đó là tài sản chung dù tiền vốn và trả nợ do ông TĐT chịu trách nhiệm. Tại thời điểm đó có người bán đất khu vực khác giá rẻ nhưng không có tiền nên cả 2 thống nhất kêu gọi anh chị em trong nhà góp tiền mua 300m2 đất thổ cư. Bên nhà cô ĐTT không có ai góp vốn vì không có tiền. Bên nhà ông TĐT có 2 người đồng ý mua để cho con có đất ở khi học xong đi làm tại TP. Các bên thành lập Biên bản góp vốn trong đó ghi rõ: Ủy quyền cho một mình ông TĐT đứng tên sổ đỏ, Tiền mua đất là của 2 gia đình anh chị ông TĐT. Đồng thời ông TĐT và cô ĐTT cam kết SẼ phải góp tiền làm nhà ở trên đất với giá trị gần bằng nửa tiền mua đất, khi góp vốn phải có văn bản xác nhận của các bên để được chia theo tỷ lệ vốn góp nếu chuyển nhượng. Cô ĐTT cũng đã ký xác nhận vào Biên bản cam kết góp vôn này.
- Từ khi mua đất, có sổ đỏ đến năm 2008 khi chia tài sản, cả 2 thống nhất không đưa vào "Bản thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn" do chưa hề góp vốn và cô ĐTT kêu không có tiền, cả tiền tiết kiệm cũng không có đồng nào.
1 - Cô ĐTT thừa nhận chưa góp vốn nhưng cho rằng "ông TĐT đứng tên và mất công làm giúp giấy tờ nên phải chia tài sản và chia phần trong đó",
2 – Cách chia là: chia làm 3 phần (do có 2 gia đình anh chị góp tiền mua đất) các anh chị 2 phần, ông TĐT và cô ĐTT phải được 1 phần, phần này sẽ chia đôi cho cô ĐTT (tương đương 50m2 đất, và cô ĐTT không càn phải góp đồng vốn nào).
Ông TĐT không chấp nhận vì quá vô lý và bản thân ông TĐT cũng không được chia quyền lợi do chưa góp vốn, Cô ĐTT cho rằng "mất công, đứng tên giúp 2 gia đình họ phải được chia phần", ông TĐT không thể đòi tiền công như cô T nói. Do không góp vốn nên phải trả lại đất cho Các bên đã góp vốn cách đây 8 năm nên ông TĐT yêu cầu cô ĐTT xác nhận theo cam kết “Khi có yêu cầu của người này về việc ký xác nhận vào các văn bản, giấy tờ có liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản được chia thì người kia cam kết sẽ thực hiện mà không có lý do từ chối hay đòi thêm chi phí”
Nhưng cô ĐTT không chấp nhận và khẳng định "Tôi đòi chia tài sản là đúng, ông bỏ công trong thời kỳ hôn nhân giúp họ nên phải chia cho ông TĐT" và dọa sẽ gây hấn hoặc kiện ra tòa án.
1 – Dù là thỏa thuận Góp vốn bằng văn bản cam kết SẼ góp nhưng chưa góp và thừa nhận không có tiền nên đã không thể xây nhà trên đất đó.
2 - Trong Thỏa thuận chia tài sản đã ghi rõ ĐÃ CHIA XONG Tài sản chung nhưng nay lại cho rằng khi đó cả 2 chưa giải quyết xong.
Kính đề nghị Luật sư giúp đỡ:
1 – Thời hiệu khởi kiện có còn không, theo quy định nào ?
2 – Trường hợp trên có được khởi kiện hay không ? Ai sẽ là người khởi kiện ?
3 – Nếu khởi kiện Tòa án sẽ giải quyết theo quy định nào ? thanhcong1963@gmail.com

Trả lời:
 
Chào bạn! Văn phòng luật sư Nam Sài Gòn xin được trao đổi về trường hợp của bạn như sau:
Trong trường hợp bạn có tranh chấp phát sinh nhưng bạn không nêu rõ là ai khởi kiện ai nên để xác định thời hiệu khởi kiện cần xác định rõ hơn mối quan tranh chấp và thời điểm mà quyền và lợi ích của cá nhân bị vi phạm nên chúng tôi chỉ trả lời chung là:
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định:
“Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm”
Vấn đề thứ 2 là bạn hỏi ai có quyền khởi kiện, rõ ràng rằng quyền và lợi ích của công TĐT không bị xâm hại nên ông TĐT không phải khởi kiện, chỉ có cô ĐTT yêu cầu khởi kiện, tuy nhiên, cần xem xét:
Ông TĐT và Cô ĐTT đã ly hôn và có văn bản đã chia xong tài sản, nếu trong văn bản này có ghi bao gồm cả phần đất mà 2 người này tham gia góp vốn thì cô ĐTT không có quyền khởi kiện. Ngược lại, trong biên bản thỏa thuận không bao gồm tài sản này thì cô ĐTT có quyền khởi kiện, vì đây là tài sản chung được cấp trong thời kỳ hôn nhân.
Vấn đề còn lại là Cô ĐTT sẽ có nghĩa vụ chứng minh với tòa án phần đóng góp của cô và các yêu cầu của mình.
Ông A và B cũng có quyền khởi kiện để xác định khối tài sản chung. Có thể yêu cầu UBND xã phương hòa giải, nếu hòa giải không thành thì Ông A, B có quyền khởi kiện ra tòa án để xác định phàn tài sản của mình trong khối tài sản chung.
Theo thông tin bạn cung cấp thì chưa đủ để xác định được tòa án sẽ giải quyết như thế nào.
Hy vọng là được bạn cung cấp thông tin nhiều hơn để chúng tôi có cơ sở xem xét các yêu cầu.
Thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất, xin phép xây dựng như thế nào?
Câu hỏi:

Tôi có thửa đất trồng cây lâu năm DT 473m2 ở ấp Chiêu Liêu, Tân Đông Hiệp, Dĩ An, Bình Dương, cách mặt đường DT743 800m. Nay tôi muốn chuyển mục đích sử dụng và xây nhà ở thì làm những thủ tục gì và liên hệ ở đâu, phí các loại bao gồm những gì và bao nhiêu tiền, DT tối thiểu, tối đa được chuyển là bao nhiêu mét. Xin các chuyên gia giúp đỡ, tôi xin trân trọng cảm ơn!

Trả lời:
Văn phòng luật sư Nam Sài Gòn xin được trả lời bạn như sau:
Nơi anh liên hệ để thực hiện thủ tục chuyển mục đích sở dụng đất là UBND thị xã Dĩ An – Bình Dương.
Điều kiện chuyển mục đích sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại điều 30 Nghị định 181/2004/NĐ-CP. Theo đó, để được chuyển mục đích sử dụng đất thành đất ở, thì tại vị trí thửa đất muốn chuyển mục đích thành đất ở phải có quy hoạch sử dụng đất chi tiết hay kế hoạch sử dụng đất chi tiết (là đất ở), hoặc quy hoạch xây dựng đô thị, hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
Nếu chưa có quy hoạch sử dụng đất chi tiết hoặc kế hoạch sử dụng đất chi tiết thì căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt (quy hoạch định hướng). Trường hợp việc chuyển mục đích sử dụng đất của gia đình bạn phù hợp với quy hoạch như nói trên, thì bạn có thể nộp đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất cho toàn bộ thửa đất.
Theo khoản 1 công văn 1173/TTg-KTN của Thủ tướng Chính phủ, thì trường hợp hộ gia đình, cá nhân được chuyển mục đích sử dụng đất sang mục đích đất ở trong hạn mức, giá đất để tính thu tiền sử dụng đất sẽ theo bảng giá đất do UBND cấp tỉnh công bố hằng năm, còn đối với phần diện tích đất ngoài hạn mức thì phải nộp tiền sử dụng đất theo giá thị trường.
Theo Quyết định 37/2011/QĐ-UBND của UBND tỉnh Bình Dương, hạn mức giao đất ở tại khu vực các phường trong thị xã là không quá 160m2. Như vậy, khi được chuyển mục đích sử dụng đất, bạn sẽ nộp tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa giá đất ở và giá đất trồng cây lâu năm, trong đó giá đất ở và giá đất trồng cây lâu năm được căn cứ như sau:
(i) đối với 160m2 đầu tiên, thì sẽ theo bảng giá do UBND tỉnh Bình Dương ban hành có hiệu lực tại thời điểm chuyển mục đích;
(ii) phần diện tích ngoài hạn mức (nếu có) thì sẽ nộp theo giá thị trường.
Vài điều trao đổi cùng bạn.
thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất, hợp thức hóa nhà đất như thế nào?
Câu hỏi:

Xin chào Luật sư. Tên tôi là Trang ở Bắc Ninh. Xin cho hỏi đất sông theo quy định trong luật đất đai năm 2003 là đất như thế nào? Nhà tôi có một miếng đất ở rìa sông, không có sổ đỏ, hiện giờ gia đình tôi đang trồng cây lâu năm trên mảnh đất đó. Trước đây nhà tôi đã xin chuyển đổi tất cả đất ruộng về đây để tiện canh tác và do trước đây nhà tôi làm lò gạch trên miếng đất này. Hiện nay nhà tôi muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất thành đất thổ cư có được không? Và làm thế nào để xin cấp được sổ đỏ? Rất mong nhận được sự giúp đỡ của Luật sư. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:
Chào bạn! Văn phòng luật sư Nam Sài Gòn xin được trao đổi về trường hợp của bạn như sau:
Theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai 2003

Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:
a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.
5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.
7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.
Nếu bạn có một trong các loại giấy tờ dưới đây, có thể làm hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai:
 Hộ gia đình, cá nhân nộp tại Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn nơi có đất một (01) bộ hồ sơ gồm có:
a) Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);
c) Văn bản uỷ quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có).
 
Đối với việc chuyển mục đích sử dụng đất, theo quy định tại Điều 30 Nghị định 181/2004/NĐ-CP. Điều kiện để chuyển mục đích sử dụng thành đất ở, thì tại vị trí muốn chuyển mục đích thành đất ở phải có quy hoạch sử dụng đất chi tiết (là đất ở) hoặc quy hoạch xây dựng đô thị; quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Người xin chuyển mục đích sử dụng đất nộp một (01) bộ hồ sơ tại Phòng Tài nguyên và Môi trường nơi có đất, Thời hạn giải quyết là 30 ngày.(theo quy định tại Điều 134, Nghị định 181)
. Hồ sơ gồm:
-         Đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất;
-         Bản vẽ thửa đất
-          Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);
Vài điều trao đổi cùng bạn. Trân trọng!
Thủc tục chuyển mục đích sử dụng đất, sang tên như thế nào?
Câu hỏi:

Tôi có người anh (anh cô cậu) có cho tôi 100m2 đất thổ canh, Nay tôi muốn chuyển sang đất thổ cư và muốn sang tên đổi chủ thì phải làm thế nào? Mức thuế phải nộp la bao nhiêu? mong Văn phòng luật sư Nam Sài Gòn hướng dẫn giúp.

Trả lời:
Chào ban!
Văn phòng Luật sư Nam Sài Gòn xin trả lời ban như sau:
Trước hết, việc tặng cho đất của bạn được thực hiện phải bằng hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và hợp đồng này phải được công chứng hoặc chứng thực.
 Điều kiện để tiến hành việc tặng cho này, đất của người anh đã được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo quy định của luật thuế thu nhập cá nhân, việc tặng cho bất động sản giữa anh chị em cô cậu sẽ không được miễn thuế thu nhập cá nhân. Ngoài ra, theo thỏa thuận mà anh bạn hoặc bạn sẽ chịu mức lệ phí trước bạ là 0,5% trên giá trị quyền sử dụng đất.
Sau đó người tặng cho đất tiến hành thủ tục tách thửa (lưu ý rằng, muốn tách thửa đất phải thuộc trường hợp được tách thửa, việc tách thửa đảm bảo phù hợp, quy hoạch và điều kiện diện tích tối thiểu đối với thửa đất hình thành và thửa đất còn lại theo quy định của UBND cấp tỉnh nơi có đất. Sau khi tách thửa xong bạn có thể tiến hành thủ tục sang tên.
Đối với việc chuyển mục đích sử dụng đất, theo quy định tại Điều 30 Nghị định 181/2004/NĐ-CP. Điều kiện để chuyển mục đích sử dụng thành đất ở, thì tại vị trí muốn chuyển mục đích thành đất ở phải có quy hoạch sử dụng đất chi tiết (là đất ở) hoặc quy hoạch xây dựng đô thị; quy hoạch xây dựng điểm dân cu nông thôn đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Người xin chuyển mục đích sử dụng đất nộp một (01) bộ hồ sơ tại Phòng Tài nguyên và Môi trường nơi có đất, Thời hạn giải quyết là 30 ngày.(theo quy định tại Điều 134, Nghị định 181).  Hồ sơ gồm:
-         Đơn xin chuyển mục đích sử dụng đất;
-         Bản vẽ thửa đất
-          Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có);
Phần nghĩa vụ tài chính phải thực hiện: Nếu được Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp thành đất ở thì người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất bằng: 50% hoặc 100% giá trị chênh lệch giữa giá đất ở trừ đi giá đất theo mục đích sử dụng hiện hữu (đất nông nghiệp) đang sử dụng. Giá đất ở và giá đất nông nghiệp làm căn cứ để tính nghĩa vụ tài chính là theo khung giá đất được UBND tỉnh ban hành hằng năm (điểm B, khoản 2, điều 6 nghị định 198/2004/NĐ-CP).
Hi vọng những thông tin trên của chúng tôi sẽ giúp bạn sáng tỏ vấn đề mà bạn quan tâm. Nếu có vấn đề gì chưa rõ xin bạn đừng ngần ngại liên hệ với Văn phòng luật sư Nam Sài Gòn.
Thủ tục mua bán nhà
Câu hỏi:

Nhà tôi ở Đà Nẵng, bên cạnh nhà tôi có một mảnh đất (trc' đây là nghĩa trang gia tộc), sau khi giải tỏa xong còn dư lại 39met vuông. nhà tôi cũng có giải tỏa một phần đất cho nhà nc chỉnh trang đo thị. mảnh đất đó chỉ giáp nhà tôi và đường bt4m, một mặt giáp cống. vậy nhà tôi có dc mua đất đó không? ai mua nhà tôi có dc quyền kiện không? ban ngành nào quyết định bán? thủ tục mua thế nào?

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Nếu gia đình bạn muốn nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó thì bạn cần liên hệ với chủ sở hữu quyền sử đất đó. Về cơ bản gia đình bạn không có quyền ưu tiên nào để mua mảnh đất đó, trừ khi giữa 2 bên có thỏa thuận khác. Thủ tục chuyển nhượng: hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có công chứng, sau đó làm thủ tục sang tên tại UBND nơi có đất.
Quyền được UBND giao đất
Câu hỏi:

Cách đây 10 năm,bố tôi có ký 1 hợp đồng xây dựng với UBNN xã và sau 1 năm đã bàn giao và được nhiệm thu.Và điều bất hạnh đã ập đến gia đình tôi,bố tôi mất ở tuổi 41 để lại mẹ tôi với 3 đứa con nhỏ.Vì tất cả tài sản của gia đình bố tôi dùng hết vào công trình,nhưng sau thời gian hoàn thành UBNN xã chỉ trả được 1 ít tiền cho gia đình tôi,và vì không có tiền nên xã đã ban giao cho gia đinh tôi 1 mảnh đất,nhưng mảnh đất này chưa có sổ đỏ và cũng không có giầy tờ bàn giao nào,họ bảo gia đình tôi có thể sử dụng nó,nhưng gia đình tôi muốn bán nhưng không có giấy chứng nhận nên không bán được.Hiện giờ gia đình tôi đang rất túng quẫn và băn khoăn mảnh đất kia có thuộc sở hưu gia đình tôi không,nếu không thi gia đình tôi phải làm thế nào

Trả lời:
Văn phòng Luật sư Nam Sài Gòn trả lời:
Nếu gia đình bạn không có GCNQSD mảnh đất đó hay một quyết định giao đất nào từ UBND hay những giất tờ khác thì quyền sử dụng đất đó về cơ bản là không hợp pháp. Bạn cần liên hệ với UBND để giải quyết vụ việc này, yêu cầu được có giấy tờ để chứng minh quyền sử dụng đất là hợp pháp.
Thoát nước như thế nào?
Câu hỏi:

Căn nhà hiện thời của tôi có đường thoát nước sinh hoạt đi ngang qua nền nhà bên cạnh, theo mô hình xây dựng từ trước năm 1960. Ông Dân vừa mới mua lại căn nhà bên cạnh này, cho thi công xây nhà mới. Trong quá trình thi công đã san lấp luôn đường thoát nước nhà tôi mà không hề thông báo với gia đình tôi, khiến cho gia đình tôi gặp rất nhiều khó
khăn trong sinh hoạt hàng ngày.
Nay tôi muốn xây đường thoát nước sinh hoạt mới, xin hỏi tôi có quyền yêu cầu ông Dân góp 1 phần vào chi phí xây dựng đường thoát nước mới cho gia đình tôi hay không? Hiện nay ông Dân không hề tỏ thiện ý giúp đỡ mà còn muốn đi nhờ theo đường thoát nước mới của gia đình tôi.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 277 Bộ luật dân sự: Quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề, gia đình bạn trong trường hợp không có một sự lực chọn khác về đường thoát nước mà buộc phải đi ngang nhà ông Dân thì có quyền yêu cầu ông Dân dành một lối cấp thoát nước thích hợp cho gia đình bạn. Nếu gia đình bạn có một lối thoát nước mới, và lỗi này không đi ngang qua nhà ông Dân thì bạn không thể yêu cầu ông Dân dành một đường thoát nước được, và bạn không thể yêu cầu ông Dân phải góp tiền để xây đường thoát nước này, nếu ông Dân không có sử dụng chung.


 Điều 277 Bộ luật dân sự: Quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề
Trong trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc phải qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy. Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải bồi thường thiệt hại.
Thừa kế tài sản như thế nào?
Câu hỏi:

Tôi tên là Tuyết, theo như hướng dẫn của chuyện mục về thủ tục để con thừa kế tài sản mà không có di chúc thì tôi đã hiểu như vấn đề của gia đình tôi hơi rắc rối, xin chuyên mục trả lời giúp:
mẹ tôi có 2 người con khi ở với Ba Diệm, nhưng không đứng ra làm khai sinh nên trong khai sinh không có tên ba. và Ba Diệm đã bỏ nhà đi làm ăn một khoảng thời gian dài.
Sau đó mẹ tôi gặp ba tôi và sinh ra tôi (có khai sinh) rồi tạo dựng được căn nhà hiện tại này, ba tôi mất năm 1968 từ đó Ba Diệm quay về ở lại với mẹ tôi đến khi Ba Diệm mất.
lúc đó ba tôi mua nhà không có giấy tờ giấy cả, sau này chính quyền kêu làm giấy chủ quyền đứng tên là Ba diệm (đã chết) và Mẹ tôi.
như vậy thủ tục gồm có Giấy khai sinh để chứng minh thuộc diện thừa kế của tôi có được hợp lệ không.

Trả lời:
Văn phòng luật sư Tô Đình Huy trả lời:
Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự quy định về người thừa kế theo pháp luật.
Điều 676
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
Và cũng theo quy định tại khoản 2 điều 5 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 có quy định:  Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính, dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với Giấy Khai sinh của người đó.
Do vậy trong trường hợp của bạn vừa nêu thì Giấy khai sinh được coi là một trong những giấy tờ quan trọng để chứng minh bạn thuộc hàng  thừa kế thứ nhất để được hưởng di sản thừa kế. 
QC Phải

Gọi 0978845617 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây