Các trường hợp làm người giám hộ đương nhiên cho người mất năng lực hành vi dân sự

Câu hỏi:

Năm 1995, Nguyễn Văn A và Lê Thị B kết hôn với nhau, họ có hai người con là Nguyễn Thị C (sinh 1996) và Nguyễn Văn D ( sinh 2000). Đến năm 2015, do bị bệnh nặng, B dần dần không nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Đến năm 2016, theo yêu cầu của chồng là Nguyễn Văn A thì B được tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi dân sự. Hiện bố mẹ B rất muốn đón con gái về nhà mình cho tiện việc chăm sóc con vì A thường xuyên đánh đập B. Vậy bố mẹ B có là người giám hộ cho B được hay không?

Trả lời:

Dựa trên tình huống trên thì B là người mất năng lực hành vi dân sự, do đó B cần có người giám hộ cho mình theo quy định tại Điều 53 BLDS năm 2015.
Vì B không lựa chọn người giám hộ cho mình khi còn ở tình trạng có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo Khoản 2 Điều 48 BLDS năm 2015 nên người giám hộ đương nhiên cho B trong tình huống này là chồng B là anh A. Tuy nhiên, anh A thường xuyên đánh đập vợ nên không đáp ứng được các điều kiện của cá nhân làm người giám hộ theo quy định tại Điều 49 BLDS năm 2015. Vì vậy, A không được thừa nhận là người giám hộ đương nhiên cho B.
Mặc dù bố mẹ B muốn đón con gái về chăm sóc và làm người giám hộ đương nhiên cho con nhưng vì con của B là Nguyễn Thị C đã đủ tuổi thành niên. Nếu C có đủ điều kiện làm người giám hộ cho mẹ mình là chị B thì C sẽ là người giám hộ cho B (theo Khoản 2 Điều 53 BLDS năm 2015). Trong trường hợp C không đủ điều kiện là người giám hộ thì bố, mẹ B là người giám hộ cho B theo quy định tại Khoản 3 Điều 53 BLDS năm 2015.

 


Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0978845617 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

QC Phải

Gọi 0978845617 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây