Vụ án ly hôn khi không có địa chỉ của bị đơn giải quyết như thế nào?

Câu hỏi:

Trong vụ án giải quyết yêu cầu ly hôn mà người vợ hoặc chồng đã bỏ đi khỏi nơi cư trú, không có tin tức và không rõ địa chỉ mới. Vậy Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ mới của bị đơn (theo điểm h khoản 1 Điều 217 BLTTDS) hay Tòa án thực hiện tống đạt văn bản thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn theo đoạn 2 khoản 5 Điều 177 BLTTDS và tiếp tục giải quyết vụ án?

Trả lời:

Trả lời:
(1) Khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04 ngày 05/5/2017 của HĐTP TANDTC5 hướng dẫn giải quyết trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo thụ lý vụ án do bị đơn không còn cư trú, làm việc tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp, tại điểm c có quy định như sau: Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015...
Khoản 4 Điều 6 Nghị quyết nêu trên quy định: Trường hợp vụ án bị đình chỉ giải quyết theo hướng dẫn tại điểm c khoản 2 Điều này thì theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án đó khi cung cấp được đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện...
Như vậy, nếu vụ án ly hôn thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04 ngày 05/5/2017 của HĐTP TANDTC thì Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án là đúng. Người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án khi cung cấp được đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc của người bị kiện.
(2) Tuy nhiên, để người vợ hoặc chồng có thể được chấm dứt hôn nhân trong trường hợp này thì có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là mất tích trước khi yêu cầu giải quyết ly hôn (theo Điều 387 - Điều 389 BLTTDS, khoản 2 Điều 56 Luật HN và GĐ); hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã chết (theo Điều 391 - Điều 394 BLTTDS). Thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết ghi trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án (khoản 2 Điều 68 BLDS, Điều 65 Luật HN và GĐ).


Bạn muốn tìm hiểu thêm các vấn đề liên quan. Hãy tham khảo các bài viết khác tại website chúng tôi hoặc gọi tổng đài tư vấn 0978845617 để được luật sư tư vấn trực tiếp.

QC Phải

Gọi 0978845617 hoặc gởi yêu cầu trực tuyến

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây