Giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
theo
bộ
luật
dân
sự
2015
Khái
niệm
về
giao
dịch
dân
sự
theo
Bộ
Luật
dân
sự
2015
(BLDS
2015)
vẫn
được
giữ
nguyên
như
Bộ
Luật
dân
sự
2005
(BLDS
2005);
điều
kiện
có
hiệu
lực
của
giao
dịch
cũng
không
khác
biệt
khi
chỉ
bổ
sung
chủ
thể
tham
gia
giao
dịch
phải
có
đầy
đủ
năng
lực
pháp
luật
dân
sự
bên
cạnh
năng
lực
hành
vi
như
trước
đây.
Tuy
nhiên,
với
mục
tiêu
hướng
đến
sự
ổn
định
các
giao
dịch,
tôn
trọng
ý
chí
của
các
bên
trong
việc
xác
lập
giao
dịch,
đảm
bảo
sự
an
toàn
pháp
lý
...,
các
điều
kiện
và
trường
hợp
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
được
quy
định
cụ
thể
và
phù
hợp
hơn.
Luật
sư
Tô
Đình
Huy |
|
1. Giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
do
người
chưa
thành
niên,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự người
có
khó
khăn
trong
nhận
thức,
làm
chủ
hành
vi,
người
bị
hạn
chế
năng
lực
hành
vi
dân
sự
Giao
dịch
dân
sự
do
người
chưa
thành
niên,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự,
người
có
khó
khăn
trong
nhận
thức,
làm
chủ
hành
vi,
người
bị
hạn
chế
năng
lực
hành
vi
dân
sự
xác
lập,
thực
hiện
sẽ
bị
tuyên
vô
hiệu.
BLDS
2015
bổ
sung
quy
định
làm
rõ
những
trường
hợp
giao
dịch
do
các
đối
tượng
nêu
trên
xác
lập
vẫn
có
hiệu
lực
nhằm
hướng
tới
vừa
bảo
vệ
quyền
lợi,
vừa
bảo
đảm
tôn
trọng
đầy
đủ
ý
chí
tự
nguyện
giao
kết
của
các
chủ
thể
này
trong
phạm
vi
năng
lực
họ
có
được.
Những
trường
hợp
giao
dịch
sẽ
không
bị
vô
hiệu
bao
gồm: (i)
Giao
dịch
dân
sự
của
người
chưa
đủ
sáu
tuổi,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự
nhằm
đáp
ứng
nhu
cầu
thiết
yếu
hàng
ngày
của
người
đó;
(ii)
Giao
dịch
dân
sự
chỉ
làm
phát
sinh
quyền
hoặc
chỉ
miễn
trừ
nghĩa
vụ
cho
người
chưa
thành
niên,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự,
người
có
khó
khăn
trong
nhận
thức,
làm
chủ
hành
vi,
người
bị
hạn
chế
năng
lực
hành
vi
dân
sự
với
người
đã
xác
lập,
thực
hiện
giao
dịch
với
họ;
(iii)
Giao
dịch
dân
sự
được
người
xác
lập
giao
dịch
thừa
nhận
hiệu
lực
sau
khi
đã
thành
niên
hoặc
sau
khi
khôi
phục
năng
lực
hành
vi
dân
sự.
|
Luật
sư Nguyễn
Thị
Ngọc
Dung |
|
1.
Giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
do
người
chưa
thành
niên,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự
người
có
khó
khăn
trong
nhận
thức,
làm
chủ
hành
vi,
người
bị
hạn
chế
năng
lực
hành
vi
dân
sự
Giao
dịch
dân
sự
do
người
chưa
thành
niên,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự,
người
có
khó
khăn
trong
nhận
thức,
làm
chủ
hành
vi,
người
bị
hạn
chế
năng
lực
hành
vi
dân
sự
xác
lập,
thực
hiện
sẽ
bị
tuyên
vô
hiệu.
BLDS
2015
bổ
sung
quy
định
làm
rõ
những
trường
hợp
giao
dịch
do
các
đối
tượng
nêu
trên
xác
lập
vẫn
có
hiệu
lực
nhằm
hướng
tới
vừa
bảo
vệ
quyền
lợi,
vừa
bảo
đảm
tôn
trọng
đầy
đủ
ý
chí
tự
nguyện
giao
kết
của
các
chủ
thể
này
trong
phạm
vi
năng
lực
họ
có
được.
Những
trường
hợp
giao
dịch
sẽ
không
bị
vô
hiệu
bao
gồm:
(i)
Giao
dịch
dân
sự
của
người
chưa
đủ
sáu
tuổi,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự
nhằm
đáp
ứng
nhu
cầu
thiết
yếu
hàng
ngày
của
người
đó;
(ii)
Giao
dịch
dân
sự
chỉ
làm
phát
sinh
quyền
hoặc
chỉ
miễn
trừ
nghĩa
vụ
cho
người
chưa
thành
niên,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự,
người
có
khó
khăn
trong
nhận
thức,
làm
chủ
hành
vi,
người
bị
hạn
chế
năng
lực
hành
vi
dân
sự
với
người
đã
xác
lập,
thực
hiện
giao
dịch
với
họ;
(iii)
Giao
dịch
dân
sự
được
người
xác
lập
giao
dịch
thừa
nhận
hiệu
lực
sau
khi
đã
thành
niên
hoặc
sau
khi
khôi
phục
năng
lực
hành
vi
dân
sự.
-
Giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
do
bị
nhầm
lẫn
Điều
131
BLDS
2005
quy
định
khi
một
bên
có
lỗi
vô
ý
làm
cho
bên
kia
nhầm
lẫn
về
nội
dung
của
giao
dịch
dân
sự
mà
xác
lập
giao
dịch
thì
bên
bị
nhầm
lẫn
có
quyền
yêu
cầu
bên
kia
thay
đổi
nội
dung
của
giao
dịch
đó,
nếu
bên
kia
không
chấp
nhận
thì
bên
bị
nhầm
lẫn
có
quyền
yêu
cầu
Toà
án
tuyên
bố
giao
dịch
vô
hiệu...
Điều
126
BLDS
2015
bỏ
yếu
tố
lỗi
trong
quy
định
về
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
do
bị
nhầm
lẫn
bởi
trường
hợp
lỗi
cố
ý
theo
quy
định
Điều
131
BLDS
2005
đã
bị
bãi
bỏ
bởi
BLDS
2015
vì
nhầm
lẫn
do
lỗi
cố
ý
thì
người
nhầm
lẫn
bị
lừa
dối
và
đã
được
quy
định
tại
Điều
127
BLDS
2015.
Do
đó,
lỗi
dẫn
đến
nhầm
lẫn
trong
giao
kết
hợp
đồng
là
vô
ý.
Việc
bỏ
quy
định
về
lỗi
không
đương
nhiên
là
không
xem
xét
lỗi
bởi
đây
là
yếu
tố
để
phân
biệt
nhầm
lẫn
hay
bị
lừa
dối.
Ngoài
ra,
Khoản
2
Điều
126
BLDS
2015
còn
quy
định
bổ
sung
trường
hợp
giao
dịch
dân
sự
được
xác
lập
có
sự
nhầm
lẫn
nhưng
không
vô
hiệu
nếu:
(i)
mục
đích
xác
lập
giao
dịch
dân
sự
của
các
bên
đã
đạt
được
hoặc
(ii)
các
bên
có
thể
khắc
phục
ngay
được
sự
nhầm
lẫn
làm
cho
mục
đích
của
việc
xác
lập
giao
dịch
dân
sự
vẫn
đạt
được.
Quy
định
này
nhằm
tôn
trọng
quyền
tự
do
thỏa
thuận
của
các
bên
trong
trường
hợp
nhầm
lẫn
không
gây
ảnh
hưởng
tới
kết
quả,
mục
đích
giao
dịch.
3.
Giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
do
không
tuân
thủ
quy
định
về
hình
thức
Theo
Điều
134
Bộ
Luật
dân
sự
2005,
trường
hợp
pháp
luật
quy
định
hình
thức
là
điều
kiện
có
hiệu
lực
của
giao
dịch
mà
các
bên
không
tuân
thủ,
Tòa
án
hoặc
cơ
quan
có
thẩm
quyền
khác
“quyết
định
buộc”
các
bên
phải
thực
hiện
về
hình
thức
giao
dịch
trong
thời
hạn
nhất
định
khi
có
yêu
cầu
của
một
hoặc
các
bên;
nếu
không
thực
hiện
thì
giao
dịch
vô
hiệu.
Qua
hơn
10
năm
triển
khai
thực
hiện,
quy
định
này
thể
hiện
nhiều
bất
cập
vì
khi
đã
có
tranh
chấp,
một
bên
không
muốn
tiếp
tục
thực
hiện
giao
dịch
thì
việc
buộc
các
bên
hoàn
thiện
hình
thức
giao
dịch
là
thiếu
tính
khả
thi.
Hơn
nữa,
thuật
ngữ
“quyết
định
buộc”
trong
ngữ
cảnh
này
không
mang
tính
cưỡng
chế
nên
việc
tuân
thủ
cũng
hạn
hữu.
Do
đó,
nhiều
trường
hợp
giao
dịch
được
giao
kết
trên
tinh
thần
tự
nguyện,
nội
dung
không
trái
pháp
luật
và
đã
tiến
hành
thực
hiện
nhưng
một
bên
không
hợp
tác,
giao
dịch
bị
vô
hiệu.
Giải
quyết
hậu
quả
giao
dịch
vô
hiệu
kéo
theo
nhiều
hệ
lụy.
BLDS
2015
vẫn
ghi
nhận
hình
thức
là
một
điều
kiện
có
hiệu
lực
của
giao
dịch
dân
sự
theo
tinh
thần
của
BLDS
năm
2005.
Tuy
nhiên,
quy
định
tại
Điều
129
BLDS
2015
đã
làm
rõ
cách
thức
xử
lý
trong
trường
hợp
giao
dịch
vi
phạm
về
hình
thức,
cụ
thể:
giao
dịch
vi
phạm
về
hình
thức
thì
vô
hiệu,
trừ
trường
hợp
một
hoặc
các
bên
đã
thực
hiện
ít
nhất
hai
phần
ba
nghĩa
vụ
trong
giao
dịch
thì
Tòa
án
quyết
định
công
nhận
hiệu
lực
của
giao
dịch
theo
yêu
cầu
của
một
hoặc
các
bên
và
không
phải
thực
hiện
công
chứng,
chứng
thực
trong
trường
hợp
pháp
luật
yêu
cầu
văn
bản
có
công
chứng,
chứng
thực.
Quy
định
này
hướng
đến
tính
tuân
thủ
pháp
luật,
đồng
thời
bảo
đảm
tốt
hơn
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
chủ
thể
xác
lập
quan
hệ
hợp
đồng.
Việc
sửa
đổi
này
đặc
biệt
đã
tạo
cơ
chế
để
buộc
bên
thiếu
thiện
chí
phải
thực
hiện
đúng
cam
kết
của
mình
vì
tại
thời
điểm
xác
lập
giao
dịch,
quyết
định
là
do
sự
tự
nguyện
của
họ.
Quy
định
một
cách
cụ
thể,
rõ
ràng
cũng
giúp
hạn
chế
trường
hợp
tùy
tiện
của
các
cơ
quan
thực
thi
pháp
luật
trong
việc
tuyên
bố
giao
dịch
vô
hiệu.
-
Thời
hiệu
yêu
cầu
Tòa
án
tuyên
bố
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
BLDS
2005
quy
định
thời
hiệu
yêu
cầu
Tòa
án
tuyên
bố
giao
dịch
vô
hiệu
là
02
năm
kể
từ
ngày
giao
dịch
được
xác
lập.
Điều
132
BLDS
2015
quy
định
thời
hiệu
yêu
cầu
tuyên
bố
giao
dịch
vô
hiệu
chi
tiết
hơn
về
thời
điểm
tính
thời
hiệu
02
năm
là
kể
từ
ngày
(i) Người
đại
diện
của
người
chưa
thành
niên,
người
mất
năng
lực
hành
vi
dân
sự,
người
có
khó
khăn
trong
nhận
thức,
làm
chủ
hành
vi,
người
bị
hạn
chế
năng
lực
hành
vi
dân
sự
biết
hoặc
phải
biết
người
được
đại
diện
tự
mình
xác
lập,
thực
hiện
giao
dịch; (ii)
Người
bị
nhầm
lẫn,
bị
lừa
dối
biết
hoặc
phải
biết
giao
dịch
được
xác
lập
do
bị
nhầm
lẫn,
do
bị
lừa
dối;
(iii)
Người
có
hành
vi
đe
dọa,
cưỡng
ép
chấm
dứt
hành
vi
đe
dọa,
cưỡng
ép;
(iv) Người
không
nhận
thức
và
làm
chủ
được
hành
vi
của
mình
xác
lập
giao
dịch; (v) Giao
dịch
dân
sự
được
xác
lập
trong
trường
hợp
giao
dịch
dân
sự
không
tuân
thủ
quy
định
về
hình
thức.
Bộ
Luật
dân
sự
năm
2015
cũng
bổ
sung
quy
định:
Hết
thời
hiệu
mà
không
có
yêu
cầu
tuyên
bố
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
thì
giao
dịch
dân
sự
có
hiệu
lực.
Quy
định
này
làm
rõ
hậu
quả
pháp
lý
của
giao
dịch
trong
trường
hợp
các
bên
không
thực
hiện
quyền
yêu
cầu
tuyên
bố
giao
dịch
vô
hiệu
trong
thời
hạn
luật
định,
hạn
chế
tranh
chấp.
-
Giao
dịch
vô
hiệu
đối
với
người
thứ
ba
ngay
tình
Điều
138
Bộ
Luật
dân
sự
2005
chỉ
bảo
vệ
quyền
lợi
của
người
thứ
ba
ngay
tình
trong
trường
hợp
họ
nhận
được
tài
sản
là
bất
động
sản
hoặc
động
sản
phải
đăng
ký
quyền
sở
hữu
thông
qua
bán
đấu
giá
hoặc
giao
dịch
với
người
mà
theo
bản
án,
quyết
định
của
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền
là
chủ
sở
hữu
tài
sản
nhưng
sau
đó
người
này
không
phải
là
chủ
sở
hữu
tài
sản
do
bản
án,
quyết
định
bị
huỷ,
sửa.
Đối
với
tài
sản
giao
dịch
mà
không
phải
đăng
ký
quyền
sở
hữu,
Bộ
Luật
dân
sự
2015
vẫn
giữ
quy
định
của
Bộ
Luật
dân
sự
2005.
Riêng
đối
với
tài
sản
phải
đăng
ký
quyền
sở
hữu,
ngoài
giữ
quy
định
của
Bộ
Luật
dân
sự
2005,
Điều
133
Bộ
Luật
dân
sự
2015
tạo
ra
cơ
chế
pháp
lý
hài
hòa,
công
bằng
hơn
trong
việc
bảo
vệ
quyền,
lợi
ích
hợp
pháp
của
cả
người
thứ
ba
ngay
tình
và
của
cả
chủ
sở
hữu,
tôn
trọng
quyền
của
chủ
sở
hữu
trong
giao
lưu
dân
sự.
Đồng
thời
quy
định
này
cũng
góp
phần
thúc
đẩy
việc
hoàn
thiện
hệ
thống
pháp
luật
và
hiệu
quả
của
công
tác
đăng
ký
tài
sản.
Cụ
thể:
(i)
trường
hợp
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
nhưng
tài
sản
đã
được
đăng
ký
tại
cơ
quan
nhà
nước
có
thẩm
quyền,
sau
đó
được
chuyển
giao
bằng
một
giao
dịch
khác
cho
người
thứ
ba
ngay
tình
và
người
này
căn
cứ
vào
việc
đăng
ký
đó
mà
xác
lập,
thực
hiện
giao
dịch
thì
giao
dịch
đó
không
bị
vô
hiệu;
(ii)
Chủ
sở
hữu
không
có
quyền
đòi
lại
tài
sản
từ
người
thứ
ba
ngay
tình,
nếu
giao
dịch
dân
sự
với
người
này
không
bị
vô
hiệu
nhưng
có
quyền
khởi
kiện,
yêu
cầu
chủ
thể
có
lỗi
dẫn
đến
việc
giao
dịch
được
xác
lập
với
người
thứ
ba
phải
hoàn
trả
những
chi
phí
hợp
lý
và
bồi
thường
thiệt
hại,
nếu
có;
(iii)
Chủ
sở
hữu
tài
sản
không
có
quyền
khởi
kiện
đòi
lại
tài
sản
từ
người
thứ
ba
ngay
tình
trong
trường
hợp
người
thứ
ba
ngay
tình
có
được
tài
sản
thông
qua
đấu
giá
hoặc
quyết
định/bản
án
của
cơ
quan
có
thẩm
quyền.
Quy
định
này
giúp
cơ
quan
tiến
hành
tố
tụng
giảm
bớt
áp
lực
về
số
vụ
tranh
chấp
liên
quan
đến
vấn
đề
nêu
trên.
-
Hậu
quả
pháp
lý
của
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
Để
giải
quyết
triệt
để
tranh
chấp
về
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu,
Điều
131
Bộ
Luật
dân
sự
2015
đã
bổ
sung
các
quy
định
xử
lý
giao
dịch
bị
tuyên
vô
hiệu,
cụ
thể:
i.
Các
bên
trị
giá
thành
tiền
để
hoàn
trả
nếu
không
thể
hoàn
trả
được
bằng
hiện
vật
trong
nghĩa
vụ
khôi
phục
lại
tình
trạng
ban
đầu,
hoàn
trả
lại
cho
nhau
những
gì
đã
nhận;
ii.
Bên
ngay
tình
trong
việc
thu
hoa
lợi,
lợi
tức
không
phải
hoàn
trả
lại
hoa
lợi,
lợi
tức
đó;
iii.
Việc
giải
quyết
hậu
quả
của
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
liên
quan
đến
quyền
nhân
thân
do
Bộ
Luật
dân
sự
2015,
luật
khác
có
liên
quan
quy
định.
Giải
quyết
thực
tế
không
phải
hậu
quả
nào
cũng
có
thể
khắc
phục
lại
tình
trạng
ban
đầu,
những
gì
đã
nhận
vẫn
còn
tồn
tại
để
hoàn
trả
nên
việc
trị
giá
thành
tiền
để
hoàn
trả
đã
được
áp
dụng
để
giải
quyết
hậu
quả
khi
tuyên
bố
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu.
Bộ
Luật
dân
sự
2015
ghi
nhận
phương
thức
xử
lý
này
góp
phần
tạo
cơ
sở
pháp
lý
rõ
ràng
để
áp
dụng.
Quy
định
nêu
trên
loại
trừ
trách
nhiệm
hoàn
trả
hoa
lợi,
lợi
tức
của
bên
thứ
ba
ngay
tình
xuất
phát
từ
hiệu
lực
của
giao
dịch
của
người
thứ
ba
ngay
tình
không
bị
tuyên
vô
hiệu
như
đã
nêu
tại
mục
5.
Giải
quyết
hậu
quả
giao
dịch
vô
hiệu
liên
quan
đến
quyền
nhân
thân,
Bộ
Luật
dân
sự
2015
không
quy
định
chi
tiết
mà
chỉ
dẫn
nguồn
điều
chỉnh.
Do
vậy,
tùy
vào
trường
hợp
sẽ
xem
xét
áp
dụng
quy
định
của
các
văn
bản
cụ
thể
hoặc
đợi
văn
bản
hướng
dẫn
cho
quy
định
này.
Liên
quan
đến
giao
dịch
dân
sự
vô
hiệu
và
xử
lý
hậu
quả
pháp
lý,
Bộ
Luật
dân
sự
2015
đã
điều
chỉnh,
bổ
sung
nhiều
quy
định
tiến
bộ
nhằm
khắc
phục
những
hạn
chế,
bất
cập
về
cả
thực
tế
và
quy
định
được
nhận
diện
trong
quá
trình
thực
thi
Bộ
Luật
dân
sự
2005.
Với
những
thay
đổi
này
sẽ
tạo
cơ
chế
đảm
bảo
tính
ổn
định,
hài
hòa
khi
xác
lập,
thực
hiện
giao
dịch
dân
sự
và
giải
quyết
tranh
chấp
(nếu
có)
trong
thời
gian
tới.