Phát sinh trách nhiệm bồi thường từ hành vi vi phạm

Thứ sáu - 14/11/2025 15:06
Trong thực tiễn kinh doanh và đời sống xã hội, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc thỏa thuận hợp đồng gây ra tổn thất cho bên bị thiệt hại. Việc xác định rõ có vi phạm hay không là bước nền tảng để các bên chủ động bảo vệ quyền lợi, giảm thiểu rủi ro pháp lý và tránh tranh chấp kéo dài. Thực tế cho thấy nhiều tranh chấp xảy ra không phải vì thiệt hại mà vì bất đồng về việc có hay không vi phạm.Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy xin giới thiệu bài viết “Phát sinh trách nhiệm bồi thường từ hành vi vi phạm.” để bạn đọc tham khảo khi soạn thảo và thực hiện hợp đồng. 
phát sinh trách nhiệm bồi thường từ hành vi vi phạm
phát sinh trách nhiệm bồi thường từ hành vi vi phạm
Mục lục

Tình tiết sự kiện:

Công ty Việt Nam (Nguyên đơn – Bên mua) xác lập hợp đồng mua bán với Công ty Hà Lan (Bị đơn – Bên bán). Sau đó, Bên mua yêu cầu Bên bán bồi thường thiệt hại do giao hàng không đúng chủng loại. Tuy nhiên, yêu cầu này không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận.

Bài học kinh nghiệm:

Trong thực tế, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp một bên trong hợp đồng cho rằng bên kia vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong điều kiện nào, yêu cầu này được chấp nhận?

Trong vụ việc trên, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa số 1661 và hợp đồng số 1663. Ngày 31/05/2013, toàn bộ 30 công-ten-nơ hàng về đến cảng Hải Phòng. Sau khi bốc dỡ hàng để thực hiện kiểm dịch và mở tờ khai hải quan điện tử vào ngày 03/06/2013, Nguyên đơn cho rằng hàng bị giao sai chủng loại so với hợp đồng và yêu cầu Bị đơn bồi thường thiệt hại. 

Sau khi xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các Bên là pháp luật Việt Nam,Hội đồng Trọng tài cho rằng “thông qua các chứng cứ trong hồ sơ cũng như các trình bày của Nguyên đơn, Nguyên đơn đã thực hiện thanh toán cho hai lô hàng bằng L/C qua Ngân hàng N. Nguyên đơn đã không thực hiện quyền từ chối nhận hàng nếu lô hàng sai chủng loại, mà trên thực tế đã tổ chức tiếp nhận, bốc dỡ toàn bộ lô hàng về kho bãi của mình. Đồng thời, trong khi chưa đạt được một thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với người có thẩm quyền của Bị đơn về phương thức giải quyết lô hàng có tranh chấp, Nguyên đơn đã đơn phương chỉ định tổ chức giám định lô hàng trong tình trạng hàng hóa đã bị bốc dỡ, không nguyên kiện. Do đó, không có cơ sở để xác định Bị đơn giao sai chủng loại các lô hàng là gỗ Bạch Dương theo hai hợp đồng số 1661/2013 và 1663/2013. Từ các căn cứ trên, Hội đồng Trọng tài xét thấy chưa có đủ căn cứ xác định hàng hóa do Bị đơn giao cho Nguyên đơn là sai chủng loại, không phù hợp với hợp đồng (…). Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của Nguyên đơn: do Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết, đồng thời Nguyên đơn cũng không chứng minh được các thiệt hại xảy ra là tổn thất thực tế, trực tiếp mà Nguyên đơn phải chịu do Bị đơn gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Căn cứ Điều 302 Luật Thương mại 2005, Hội đồng Trọng tài xét thấy không có căn cứ pháp lý để tuyên buộc Bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn”.

Như vậy, yêu cầu bồi thường thiệt hại của Bên mua không được chấp nhận và lý do chính của việc không chấp nhận này là do chưa có cơ sở để khẳng định Bên bán đã vi phạm hợp đồng: Theo Hội đồng Trọng tài, “do Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết”. Hướng giải quyết của Hội đồng Trọng tài được lý giải như sau: Đối với tranh chấp thương mại, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường đã được quy định tại Điều 303 Luật

Thương mại 2005 theo đó

“Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”.

Với quy định trên, điều kiện đầu tiên để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường là bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại “có hành vi vi phạm hợp đồng”, tức “là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này” (khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại 2005). Trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài cho rằng “Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết”. Do đó, chưa đủ cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Bên bán phát sinh nên yêu cầu bồi thường thiệt hại không được chấp nhận.

Từ vụ việc trên, doanh nghiệp rút ra bài học rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của họ không thể phát sinh nếu họ không có vi phạm hợp đồng. Đồng thời doanh nghiệp yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng biết rằng yêu cầu của họ không thể được chấp nhận nếu chưa chứng minh được rằng đối tác của họ đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.Như vậy, trong mọi trường hợp, việc xác lập trách nhiệm bồi thường phải dựa trên căn cứ có vi phạm. Bên vi phạm cần nhận thức rõ hành vi của mình để chủ động khắc phục thiệt hại, trong khi bên bị thiệt hại cần chứng minh được vi phạm nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Áp dụng chặt chẽ nguyên tắc này không chỉ giúp giải quyết tranh chấp nhanh chóng, mà còn nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và các cam kết trong quan hệ dân sự, thương mại.
>>>Tham khảo bài viết:"Tư vấn khởi tranh chấp thương mại"
"Phí luật sư giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại"

*Lưu ý: Các thông tin của bài viết trên được lấy từ nguồn “Giải quyết tranh chấp hợp đồng – Những điều doanh nhân cần biết” và đã được mã hóa dữ liệu. Đồng thời, mục đích của bài viết nhằm chia sẻ kiến thức pháp luật, đánh giá và nhận xét dựa trên quan điểm học thuật không nhằm công kích hay bảo vệ cho bất kì chủ thể nào.

 

 

Nguồn tin: Giải quyết tranh chấp hợp đồng – Những điều doanh nhân cần biết

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây