Sau 14 năm thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì thực tế đã bộc lộ nhiều quy định không còn phù hợp với thực tế. Có thể kể ra: - Một số quy định còn cứng nhắc như Luật quy định chế độ tài sản của vợ chồng chỉ gồm chế độ tài sản chung và chế độ tài sản riêng , tức là vợ chồng không thể có lựa chọn chế độ tài sản khác.
Mục lục
- Một số quy định có tính khả thi chưa cao như việc Luật quy định tài sản chung của vợ chồng phải đăng ký quyền sở hữu thì trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả hai vợ chồng nhưng thực tế chưa áp dụng được với xe, với chứng khoán… - Một số quan hệ đang có trong thực tiễn nhưng Luật chưa quy định hoặc quy định chưa cụ thể như việc kết hôn đồng giới, mang thai hộ... - Một số quy định chưa đáp ứng yêu cầu giao lưu dân sự, hội nhập quốc tế của Việt Nam như việc vợ chồng tham gia đầu tư, kinh doanh… - Một số quy định chưa tính thống nhất với các văn bản luật khác, đặc biệt là về độ tuổi kết hôn... Chính vì thế mà ngày 19/6/2014, Quốc hội đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2014 thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật mới chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình. Trong bài viết, tôi xin giới thiệu một số quy định đáng chú ý của Luật mới này. Về kết cấu, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 gồm có 133 điều và chia thành 9 chương. Gồm các chương sau: Chương 1. Những quy định chung Chương 2. Kết hôn Chương 3. Quan hệ vợ chồng Chương 4. Chấm dứt hôn nhân Chương 5. Quan hệ cha mẹ và con Chương 6. Quan hệ giữa các thành viên khác của gia đình Chương 7. Cấp dưỡng Chương 8. Quan hệ HN và GĐ có yếu tố nước ngoài Chương 9. Điều khoản thi hành. So với Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Luật mới tăng thêm 23 điều, bỏ bớt Lời nói đầu và bỏ bớt 04 chương sau: - Xác định cha, mẹ, con - Giám hộ giữa các thành viên trong gia đình - Con nuôi - Xử lý vi phạm. Về nội dung, các quy định đáng chú ý của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có thể nhắc đến:
1. Về vấn đề kết hôn
Thứ nhất, Luật mới đã bỏ quy định: “Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở vùng sâu, vùng xa”. Đồng nghĩa với việc từ 01/01/2015, việc đăng ký kết hôn đã được thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Thứ hai, về độ tuổi kết hôn, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên; còn Luật mới quy định: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên và nữ từ đủ 18 tuổi trở lên. Thay đổi này nhằm khắc phục sự mâu thuẫn với các quy định tại các luật khác như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự… Dù vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về chênh lệch tuổi kết hôn giữa nam và nữ nhưng Luật mới vẫn giữ nguyên khoảng cách là 2 tuổi như Luật cũ vì theo Tổng điều tra dân số năm 2009 thì độ tuổi trung bình kết hôn lần đầu ở Việt Nam của nam giới là 26,2 tuổi và của nữ giới là 22,8 tuổi. Thứ ba, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “cấm kết hôn đồng giới” còn luật mới quy định “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính”. Theo quy định này, Nhà nước ta đã có thái độ cởi mở hơn về vấn đề kết hôn đồng giới. Đây cũng là xu hướng của nhiều quốc gia trên thế giới (nhiều nước trong quá khứ cũng từng quy định cấm kết hôn đồng giới, tiến tới là không thừa nhận hôn nhân đồng giới và hiện nay là thừa nhận kết hôn giữa những người có cùng giới tính). Quy định “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” tại Luật HN&GĐ năm 2014 hoàn toàn phù hợp với điều 36 Hiến pháp năm 2013: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn”. Theo quy định này, Hiến pháp đã để ngỏ khảnăng cho phép kết hôn đồng giới có thể được quy định tại Luật Luật HN&GĐ.
2. Chế độ tài sản của vợ chồng
Ngoài quy định chế độ tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng như trước đây thì luật mới còn quy định chế độ tài sản theo thỏa thuận. Theo đó, vợ chồng có quyền lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận. Thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Nội dung thỏa thuận cơ bản: Tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục, nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản… Với chế độ tài sản theo thỏa thuận, vợ chồng sẽ có thêm sự lựa chọn trong việc toàn quyền quyết định chế độ tài sản theo ý chí của mình. Quy định này cũng đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân dễ dàng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản hợp pháp mà Hiến pháp và B ộ luật Dân sự đã quy định.
3. Về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Đây là lần đầu tiên, pháp luật nước ta quy định về vấn đề này. Khoản 22 điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình giải thích: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Để tránh những hệ lụy đáng tiếc có thể xảy ra, Luật đã có những quy định hết sức chặt chẽ. Về phía vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đảm bảo những điều kiện sau: - Có xác nhận của cơ sở y tế về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; - Vợ chồng đang không có con chung và - Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Về phía người mang thai hộ phải đảm bảo những điều kiện sau: - Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ (trong phạm vi 3 đời); - Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế về khả năng mang thai hộ; - Nếu người mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của chồng; - Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Tuy nhiên để việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên thực tế sẽ có các văn bản dưới luật hướng dẫn làm rõ nhiều nội dung như: Tổ chức y tế nào có quyền xác nhận? Độ tuổi nào là phù hợp để mang thai hộ? Cơ quan nào có trách nhiệm tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý? Cơ sở y tế nào có chức năng thực hiện việc mang thai hộ? Trên thực tế, các tình huống có thể phát sinh như: Lợi dụng việc mang thai hộ để trục lợi; những tranh chấp có thể phát sinh: người mang thai hộ không giao con, người nhờ mang thai không nhận con khi con sinh ra bị dị tật, các chi phí phát sinh trong quá trình mang thai do người mang thai bị bệnh, chế tài xử lý khi các bên vi phạm.v.v… sẽ được Nhà nước ta quan tâm theo dõi và có các văn bản điều chỉnh kịp thời để cho việc mang thai hộ được thực hiện theo đúng ý nghĩa vì mục đích nhân đạo.
4. Về vấn đề ly thân
Trong giai đoạn soạn thảo Luật thì Bộ Tư pháp và nhiều chuyên gia có quan điểm ủng hộ quy định về ly thân với những lý do: - Ly thân là giải pháp mà nhiều vợ chồng lựa chọn khi chưa muốn ly hôn; - Đây là giải pháp hữu ích cho cộng đồng người Công giáo vì theo giáo lý, họ không được phép ly hôn; - Ly thân là biện pháp giúp vợ, chồng tránh tình trạng bạo lực gia đình; - Ly thân tạo điều kiện cho vợ chồng có thời gian cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định có ly hôn không; - Ly thân giúp minh bạch các giao dịch dân sự, kinh tế do một bên vợ, chồng thực hiện trong thời kỳ ly thân. Nhưng khi thông qua Luật thì vấn đề ly thân đã không được đề cập đến. Tuy nhiên, điều 19 Luật HN&GĐ lại có quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”. Đây có thể coi là bước đi đầu tiên để trong tương lai pháp luật nước ta có thể chính thức quy định về ly thân. Nhưng với quy định tại điều 19 cũng đã tạo sự linh động giúp vợ chồng có thể thỏa thuận về việc không sống chung mà hoàn toàn không trái luật.
5. Về vấn đề ly hôn
Hai điểm mới của vấn đề ly hôn có thể kể đến đó là - Mở rộng đối tượng có quyền làm đơn xin ly hôn: Cha, mẹ, người thân thích có thể yêu cầu ly hôn khi vợ/chồng bị bệnh tâm thần, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng/vợ gây ra ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ (Điều 51). - Khi ly hôn, con từ đủ 07 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của con (giảm 02 tuổi so với Luật HN&GĐ năm 2000. Trên đây là một số nội dung đáng chú ý của Luật HN&GĐ có hiệu lực từ 01/01/2015. So với Luật HN&GĐ năm 2000 thì Luật mới có số điều luật tăng lên nhưng bố cục lại rõ ràng, khoa học hơn. Điểm tiến bộ nhất của Luật mới là đã có những quy định mới đáp ứng mong đợi của người dân và phù hợp với thực tế cuộc sống. Điều này đảm bảo cho Luật HN&GĐ năm 2014 có sức sống ổn định lâu dài, điều chỉnh hữu hiệu nhất các quan hệ xã hội về hôn nhân và gia đình, qua đó cũng góp phần đảm bảo cho mọi người thực hiện tốt các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận tại Chương 2 của Hiến pháp sửa đổi năm 2013./.
Chúng tôi trên mạng xã hội