Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài – Bài học từ thực tiễn

Thứ tư - 12/11/2025 13:35
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài, vấn đề thời hiệu khởi kiện luôn là một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Không ít trường hợp, doanh nghiệp mất quyền yêu cầu trọng tài giải quyết tranh chấp chỉ vì đã quá thời hạn khởi kiện theo quy định pháp luật, dẫn đến việc tranh chấp không được xem xét về nội dungVăn phòng Luật sư Tô Đình Huy xin giới thiệu bài viết “Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Bài học từ thực tiễn”để bạn đọc tham khảo.
Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài – Bài học từ thực tiễn
Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài – Bài học từ thực tiễn
Mục lục

Tình tiết sự kiện:

Công ty N (Nguyên đơn – Bên thuê) ký hợp đồng thuê lại đất và Phụ lục vào năm 2004 với Công ty K (Bị đơn – Bên cho thuê). Sau đó các bên có tranh chấp và các Bên có đưa ra một số yêu cầu trong đó có yêu cầu về bồi thường thiệt hại và yêu cầu chấm dứt hợp đồng do có vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Đối với hai yêu cầu này, Hội đồng Trọng tài xác định thời hạn yêu cầu giải quyết đã hết nên Hội đồng Trọng tài không giải quyết.

Bài học kinh nghiệm:

Pháp luật trọng tài luôn đặt thời hiệu cho việc yêu cầu giải quyết tranh chấp (tức áp đặt một khoảng thời gian nhất định để các bên được đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài). Cụ thể, theo khoản 2 Điều 21 Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003,

“đối với vụ tranh chấp mà pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài là hai năm, kể từ ngày xảy ra tranh chấp”

Tương tự, theo Điều 33 Luật Trọng tài thương mại 2010,

“trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm”

Về hệ quả của hết thời hiệu, pháp luật về trọng tài không có quy định nhưng Bộ luật dân sự đã theo hướng là các bên mất quyền khởi kiện:

“nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện” (khoản 3 Điều 154).

Trong vụ việc trên, Bên thuê yêu cầu Bên cho thuê bồi thường thiệt hại với lý do “kết cấu hạ tầng chưa hoàn thiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Nguyên đơn”. Về chủ đề này, Hội đồng Trọng tài cho rằng thời hiệu yêu cầu là 2 năm nhưng “yêu cầu Bị đơn phải bồi thường toàn bộ các thiệt hại mình phải gánh chịu với tổng số tiền 5 tỷ đồng đã hết thời hiệu khởi kiện. Do yêu cầu này của Nguyên đơn đã hết thời hiệu nên Hội đồng Trọng tài không xem xét giải quyết”. Để có kết quả như vừa nêu, Hội đồng Trọng tài đã phân tích như sau: “Theo giải trình của Nguyên đơn thì các thiệt hại Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải bồi thường đều phát sinh trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến năm 2007. Cũng theo Nguyên đơn, lý do dẫn đến thiệt hại của Nguyên đơn là do Bị đơn vi phạm nghĩa vụ hoàn thiện cơ sở hạ tầng của khu đất Nguyên đơn thuê trong Khu công nghiệp Q. Lẽ ra, khi phát hiện mình phải gánh chịu các thiệt hại do cơ sở hạ tầng của khu đất thuê chưa hoàn thiện và sau khi yêu cầu Bị đơn phải hoàn thiện cơ sở hạ tầng và không được Bị đơn đáp ứng thì Nguyên đơn phải nộp đơn yêu cầu VIAC giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Nhưng đến tận ngày 28/11/2011 Nguyên đơn mới nộp Đơn khởi kiện tới VIAC, trong đó có nội dung yêu cầu Bị đơn bồi thường các thiệt hại phát sinh do cơ sở hạ tầng của khu đất thuê chưa hoàn thiện. Trước khi Nguyên đơn nộp Đơn khởi kiện tới VIAC thì không có bất cứ chứng cứ nào thể hiện Nguyên đơn đã yêu cầu Bị đơn phải bồi thường các thiệt hại cụ thể mà mình phải gánh chịu trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2007. Nếu tính từ ngày cuối cùng của năm 2007 (là năm cuối cùng của khoảng thời gian phát sinh thiệt hại cho Nguyên đơn) đến ngày nộp Đơn khởi kiện (ngày 28/01/2011) thì đã quá thời hạn 2 năm”. 

Vẫn trong vụ việc trên, Bên cho thuê có Đơn kiện lại theo hướng “chấm dứt hợp đồng thuê lại và Phụ lục hợp đồng”. Về chủ đề này, Hội đồng Trọng tài cho rằng “Bị đơn yêu cầu Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng thuê lại và Phụ lục hợp đồng thuê lại với lý do Nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán quá thời hạn quy định tại Điều 2.2 của Phụ lục hợp đồng thuê lại đất; Nguyên đơn cho người khác (Công ty TTV) sử dụng lô đất. Theo ý kiến của Bị đơn thì Nguyên đơn đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng, giai đoạn 2005 – 2009. Khi bị vi phạm tiến độ thanh toán, Bị đơn không chính thức gửi văn bản yêu cầu Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng thuê lại và Phụ lục hợp đồng thuê lại. Mặt khác, khi biết được (và buộc phải biết) người sử dụng diện tích đất thuê là Công ty TTV, Bị đơn cũng không yêu cầu Nguyên đơn phải chấm dứt hợp đồng để giao lại diện tích cho Bị đơn. Trong Đơn kiện lại ngày 02/06/2011, Bị đơn mới chính thức yêu cầu VIAC buộc Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng thuê lại và Phụ lục hợp đồng thuê lại, buộc Nguyên đơn nhanh chóng di dời nhà máy và các tài sản khác thuộc sở hữu của Nguyên đơn và/hoặc Công ty TTV ra khỏi diện tích đất mà Nguyên đơn đã thuê với lý do Nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán quá thời hạn quy định tại Điều 2.2 của Phụ lục hợp đồng thuê lại đất;

Nguyên đơn cho người khác sử dụng lô đất. Như vậy, yêu cầu của Bị đơn buộc Nguyên đơn chấm dứt hợp đồng thuê lại và Phụ lục hợp đồng thuê lại đã hết thời hiệu. Do đó, Hội đồng Trọng tài không xem xét yêu cầu này”.

Như vậy, yêu cầu của Nguyên đơn (về bồi thường thiệt hại) và yêu cầu của Bị đơn (về chấm dứt hợp đồng) không được Hội đồng xem xét (Hội đồng Trọng tài không phán xét là ai đúng, ai sai) với lý do đơn giản là thời hạn luật định để yêu cầu Trọng tài giải quyết là đã hết. Do đó, doanh nghiệp cần lưu ý về thời gian yêu cầu cơ quan tài phán giải quyết bất đồng. Doanh nghiệp cần yêu cầu trong thời hạn luật định nếu muốn được cơ quan tài phán giải quyết, nếu không thì yêu cầu không được xem xét mặc dù có yêu cầu và đóng các phí liên quan. 

Từ thực tiễn cho thấy, việc tuân thủ đúng quy định về thời hiệu khởi kiện không chỉ giúp đảm bảo quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp của các bên mà còn góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả của cơ chế trọng tài thương mại. Các bên trong hợp đồng cần thường xuyên rà soát, lưu trữ chứng cứ và chủ động thực hiện quyền khởi kiện trong thời hạn luật định, tránh tình trạng “mất cơ hội pháp lý” vì những sai sót về thời gian. Đồng thời, các trung tâm trọng tài và trọng tài viên cũng cần hướng dẫn rõ ràng hơn để giúp doanh nghiệp nhận diện và áp dụng đúng quy định về thời hiệu, bảo đảm cho quá trình giải quyết tranh chấp được công bằng và hiệu quả.

>>>Tham khảo bài viết:"Luật sư giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại"
"Tư vấn khởi kiện tranh chấp thương mại"

*Lưu ý: Các thông tin của bài viết trên được lấy từ nguồn “Giải quyết tranh chấp hợp đồng – Những điều doanh nhân cần biết” và đã được mã hóa dữ liệu. Đồng thời, mục đích của bài viết nhằm chia sẻ kiến thức pháp luật, đánh giá và nhận xét dựa trên quan điểm học thuật không nhằm công kích hay bảo vệ cho bất kì chủ thể nào.

 

Nguồn tin: Giải quyết tranh chấp hợp đồng – Những điều doanh nhân cần biết

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây