1. Khởi tố vụ án hình sự là gì?
Khởi tố là giai đoạn khởi đầu của việc giải quyết VAHS, giai đoạn này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc chống bỏ lọt tội phạm cũng như chống làm oan người vô tội. Giai đoạn khởi tố được bắt đầu từ khi tiếp nhận các thông tin về tội phạm và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ban hành quyết định khởi tố VAHS hoặc không khởi tố VAHS.
2. Thời hạn phải khởi tố vụ án hình sự?
Theo quy định tại khoản 1 điều 147 của BLTTHS năm 2015, thì trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định, đó là quyết định khởi tố VAHS; quyết định không khởi tố VAHS hoặc quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố là từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khi ra quyết định khởi tố VAHS.
Tuy nhiên, việc người bào chữa thực hiện quyền thu thập chứng cứ còn phụ thuộc vào trong giai đoạn khởi tố có xuất hiện sự tham gia của người bị buộc tội, tức là người bị bắt, bị tạm giữ có liên quan đến nguồn tin tội phạm mà cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phát hiện, tiếp nhận, giải quyết. Nếu không có sự xuất hiện của người bị buộc tội trong giai đoạn tố tụng này, thì cũng không có sự tham gia của người bào chữa.
>> Tham khải bài viết: Luật sư bào chữa và tranh luận tại tòa án
3. Luật sư có được tham gia vụ án hình sự từ giai đoạn khởi tố và các quyền liên quan?
Theo quy định tại điều 174 BLTTHS năm 2015, người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
người bị bắt có mặt tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Như vậy, người bào chữa tham gia tố tụng, thực hiện quyền thu thập chứng cứ trong giai đoạn khởi tố VAHS được thực hiện trong hợp giai đoạn này khi cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phát hiện, tiếp nhận nguồn tin tội phạm, bắt người hoặc tiếp nhận người bị bắt và ra quyết định tạm giữ người có liên quan đến nguồn tin tội phạm để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Khoản 1 điều 73 BLTTHS năm 2015 quy định về quyền của người bào chữa như sau:
“1. Người bào chữa có quyền:
a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;
b) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
…
h) . Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
i) Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên
quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;”.
Đây là những quyền nhằm cụ thể hóa quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa. Theo đó, để thu thập chứng cứ trong giai đoạn khởi tố thì người bào chữa có quyền:
(1) gặp, hỏi người bị buộc tội;
(2) có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai;
(3) được hỏi người bị bắt, tạm giữ nếu có sự đồng ý của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Việc hỏi người bị bắt, tạm giữ của người bào chữa được
thực hiện sau khi việc lấy lời khai của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kết thúc.
Quyền thu thập chứng cứ của Luật sư
Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa trong giai đoạn khởi tố còn được bảo đảm thông qua việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị bắt, tạm giữ có liên quan đến nguồn tin tội phạm, vụ việc mà cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã phát hiện, tiếp nhận và giải quyết. Khoản 3 điều 22 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 quy định: “Người bào chữa có quyền được gặp người bị tạm giữ để thực hiện bào chữa theo quy định của BLTTHS và luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ đang khám bệnh, chữa bệnh; người bào chữa phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa”.
Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 của Bộ Công an quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (sau đây viết là Thông tư số 46/2019/TT-BCA). Trong đó, tại điểm b mục 2 điều 4 Thông tư số 46/2019/TT-BCA quy định:
“Điều tra viên hoặc cán bộ điều tra có trách nhiệm thống nhất về thời gian với người bào chữa để trực tiếp gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam, xác nhận việc từ chối và phải lập biên bản.
Trường hợp người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và có lệnh tạm giam của người có thẩm quyền thì điều tra viên hoặc cán bộ điều tra vẫn phải thống nhất
về thời gian với người bào chữa để gặp người bị tạm giữ đã có lệnh tạm giam.
Trường hợp người bị tạm giữ bị khởi tố bị can nhưng không bị áp dụng biện pháp tạm giam thì việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa được thực hiện theo quy định tại khoản 3 điều 3 Thông tư này”.
Nếu như trước đây, việc lấy lời khai của người bị tạm giữ về việc có đồng ý nhờ người bào chữa do người thân thích mời hay không được thực hiện bởi Điều tra viên, cán bộ điều tra tự tiến hành dẫn đến rất nhiều trường hợp người bị tạm giữ có thể do không hiểu biết hoặc do những giải thích, tác động nhất định của điều tra viên, cán bộ điều tra mà từ chối người bào chữa được người thân ở bên ngoài mời, thì nay việc từ chối này phải có sự tham gia, chứng kiến trực tiếp của người bào chữa. Thậm chí, điều tra viên hoặc cán bộ điều tra có trách nhiệm thống nhất về thời gian với người bào chữa để trực tiếp gặp người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam xác nhận việc từ chối này. Đây là quy định mang tính bảo đảm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, với quy định này người tiến hành tố tụng có nghĩa vụ bảo đảm để người bào chữa thực hiện quyền thu thập chứng cứ của mình.
>> Tham khảo bài viết: Dịch vụ tư vấn pháp luật hình sự
Từ những quy định pháp luật nêu trên cho thấy quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa được bảo đảm và thể hiện qua những nội dung sau:
Thứ nhất, gặp người bị buộc tội là quyền của người bào chữa được BLTTHS quy định.
Như vậy, trong giai đoạn khởi tố VAHS gặp người bị bắt, tạm giữ là quyền của người bào chữa. Việc pháp luật quy định cho người bào chữa có quyền gặp người bị bị bắt, bị tạm giữ là công nhận quyền cho người bào chữa được tiếp xúc, gặp gỡ, hỏi người bị bắt, tạm giữ để thu thập thông tin có liên quan của người bị bắt, tạm giữ với nguồn tin tội phạm, với vụ việc mà cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang tiếp nhận, giải quyết. Qua đó, làm rõ những tình tiết xác định người bị bắt, bị tạm giữ không có liên quan đến việc bắt, tạm giữ hoặc làm rõ những tình tiết có lợi, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của người bị bắt, tạm giữ trong quá trình giải quyết vụ việc, VAHS.
Thứ hai, người bào chữa có quyền được có mặt khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ.
Việc có mặt khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai người bị bắt, tạm giữ sẽ giúp cho người bào chữa thu thập được những thông tin, cũng như biết được hướng xác minh, điều tra của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra muốn nhắm tới giữa sự liên quan của người bị bắt, tạm giữ với nguồn tin tội phạm, vụ việc mà họ
đang giải quyết. Qua đó, người bào chữa có thể thu thập, tổng hợp được những chứng cứ bất lợi, có lợi có liên quan đến người bị bắt, tạm giữ từ đó làm tốt việc bào chữa của mình.
Thứ ba, người bào chữa được hỏi người bị bắt, tạm giữ nếu được sự đồng ý của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Việc hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ của người bào chữa chỉ được thực hiện sau khi việc lấy lời khai của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kết thúc. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập chứng cứ của người bào chữa, theo đó, người bào chữa không còn thụ động ngồi nghe người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai thân chủ của mình, mà có thể chủ động hỏi để làm rõ những tình tiết không liên quan của người bị bắt, tạm giữ với nguồn tin tội phạm, vụ việc; những tình tiết có lợi, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mặc dù, BLTTHS năm 2015 quy định người bào chữa có quyền được có mặt khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai người bị bắt, tạm giữ, nhưng người bào chữa muốn hỏi người bị bắt, bị tạm giữ thì lại phải được sự đồng ý của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tạo ra những hạn chế nhất định đối với quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, bởi nó phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
4. Sự cần thiết của Luật sư tại Giai đoạn điều tra
Luật sư tham gia bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự có ý nghĩa hết sức to lớn. Sự có mặt của luật sư nhằm mục đích bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, người bị tạm giữ. Luật sư tham gia ngay từ giai đoạn điều tra sẽ góp phần hạn chế các vi phạm pháp luật, đảm bảo cho các hoạt động điều tra được tiến hành khách quan, toàn diện, chính xác, đúng quy định của pháp luật cụ thể là:
Một là, luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hết quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự trực tiếp giám sát cơ quan (người) tiến hành tố tụng có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội hoặc tình nghi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện
tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh làm oan sai, bỏ lọt tội phạm;
Hai là, luật sư tham gia bào chữa từ giai đoạn điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua các kiến nghị có quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác của cơ quan điều tra thì có thể dẫn đến hậu quả tiêu cực hoặc làm oan cho người vô tội;
- Và cuối cùng, hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự, nhằm tăng cường giám sát việc thực hiện pháp luật của cơ quan điều tra trong giai đoạn này, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tam giam, bị can trong giai đoạn điều tra trước khi Viện kiểm sát truy tố và xét xử của Tòa án, tuy là giai đoạn điều tra vụ án hình sự chỉ là giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự nhưng góp phần vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội rất hiệu quả.
>> Tham khảo bài viết: Chi phí thuê luật sư bào chữa vụ án hình sự
Chuyên đề trên đây là chia sẻ của chúng tôi về vấn đề “Luật sư tham gia giai đoạn khởi tố vụ án hình sự” nhằm hỗ trợ người đọc có thêm kiến thức về pháp luật, không nhằm mục đích thương mại. Các thông tin trong chuyên đề chỉ là quan điểm cá nhân người viết, người đọc chỉ tham khảo. Chúng tôi đề nghị Quý Khách hàng nên tham khảo ý kiến chuyên môn từ Luật sư của chúng tôi đối với các vấn đề cụ thể. Các yêu cầu giải đáp thắc mắc hãy liên hệ trực tiếp với Văn phòng của chúng tôi theo địa chỉ phía trên hoặc liên hệ qua Hotline: 0978845617, Email: info@luatsuhcm.com.
Chúng tôi trên mạng xã hội