Tham luận công tác xét xử hình sự của TANDTC năm 2011

Thứ ba - 11/03/2014 11:03
Năm 2011 (tính từ ngày 01-10-2010 đến ngày 30-9-2011), Tòa hình sự tiếp nhận 3.038 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm cộng với 778 đơn từ năm 2010 chuyển sang, tổng cộng là 3.816 đơn. Qua phân loại, xử lý và giải quyết, cụ thể như sau:
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI  CAO
               TOÀ HÌNH SỰ
                           ***
                                             
 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
              Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

 
 
 

              Hà Nội, ngày 26 tháng 12  năm 2011
 
 
 
THAM LUẬN
 VỀ CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG NĂM 2011
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
                                                              -------
I - KHÁI QUÁT CÔNG TÁC GIÁM ĐỐC VIỆC XÉT XỬ HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
1. Về công tác thụ lý, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm
1.1. Thụ lý
Năm 2011 (tính từ ngày 01-10-2010 đến ngày 30-9-2011), Tòa hình sự tiếp nhận 3.038 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm cộng với 778 đơn từ năm 2010 chuyển sang, tổng cộng là 3.816 đơn. Qua phân loại, xử lý và giải quyết, cụ thể như sau:
+ Đơn có nội dung khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa hình sự là 1.668 đơn;
+ Đơn có nội dung trùng với đơn đã giải quyết là 1.929 đơn;
+ Đơn có nội dung không thuộc thẩm quyền giải quyết, phải chuyển cho các cơ quan, đơn vị khác giải quyết theo thẩm quyền là 219 đơn.
Qua các con số thống kê nêu trên, nhận thấy mặc dù số đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm năm 2011 giảm so với năm 2010 (năm 2010 Tòa hình sự thụ lý mới 3.313 đơn) nhưng qua việc xử lý đơn Tòa hình sự nhận thấy tính chất, đối tượng, phạm vi khiếu nại ngày càng đa dạng, phức tạp. Có nhiều vụ án được xét xử từ những năm 80, 90 của thế kỷ trước, hồ sơ vụ án đã bị tiêu hủy theo quy định về thời hạn lưu trữ, nhưng vẫn có đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm; đây là một vấn đề cần phải tính đến sau này.
1.2. Giải quyết
Trong số 1.668 đơn thuộc thẩm quyền giải quyết, Tòa hình sự đã giải quyết được 707 đơn, đạt tỷ lệ 42,38%; còn lại 961 đơn chuyển sang năm 2012 tiếp tục giải quyết. Trong đó:
- Trả lời đơn là 698 trường hợp,
- Đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị 09 vụ.
Ngoài ra, Tòa hình sự còn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị 37 vụ do có kiến nghị của các Tòa án.
2. Về công tác thụ lý và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
2.1. Thụ lý
Tổng số vụ án Tòa hình sự tiếp nhận, giải quyết trong năm 2011 là 108 vụ (57 vụ do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị, 51 vụ do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị), trong đó thụ lý mới 73 vụ, chuyển từ năm 2010 sang 35 vụ.
Đã giải quyết 82 vụ, trong đó đưa ra xét xử 76 vụ, rút kháng nghị 06 vụ (của Chánh án 02 vụ, của Viện trưởng 04 vụ); còn lại 26 vụ chưa giải quyết chuyển sang năm 2012.
2.2. Xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
-  Trình Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm 29 vụ (trong đó 22 vụ do Chánh án kháng nghị, 07 vụ do Viện trưởng kháng nghị), chấp nhận kháng nghị 27 vụ, không chấp nhận kháng nghị 02 vụ (do Viện trưởng kháng nghị).
- Tòa hình sự xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm 47 vụ (trong đó 26 vụ do Chánh án kháng nghị, 21 vụ do Viện trưởng kháng nghị), chấp nhận kháng nghị 43 vụ, không chấp nhận kháng nghị 04 vụ (do Viện trưởng kháng nghị).
 
II - MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN TRAO ĐỔI RÚT KINH NGHIỆM :
Trong năm qua, bên cạnh các cố gắng, thành tích mà các Tòa án đã đạt được; Tòa hình sự xin nêu một vài vấn đề để Hội nghị cùng trao đổi, rút kinh nghiệm chung; trên cơ sở đã có quyết định giám đốc thẩm đối với các vụ án được nêu làm ví dụ.
1. Cho hưởng án treo không đúng
Trong số 26 quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì có đến 12 quyết định giám đốc thẩm hủy án phúc thẩm, bản án sơ thẩm để xét xử lại với lý do cho hưởng án treo không đúng. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hình sự cũng đã có 14 quyết định giám đốc thẩm trên tổng số 43 quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm hủy án phúc thẩm và án sơ thẩm để xét xử lại vì lý do nêu trên.
Như vậy, có thể thấy tỷ lệ án bị hủy do sai lầm trong việc cho hưởng án treo không đúng năm qua là rất cao (chiếm khoảng 40 %). Sai lầm phổ biến khi cho hưởng án treo không đúng là Tòa án các cấp cho bị cáo hưởng án treo khi không đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; quá nhấn mạnh đến tình tiết bị cáo đã nộp tiền phạt, hay tình tiết gia đình, người thân thích của bị cáo là người có công với nước mà không căn cứ vào nhân thân của bị cáo, nên có trường hợp Tòa án cho cả người phạm tội thuộc trường hợp có nhân thân rất xấu, phạm tội nhiều lần được hưởng án treo.
Ví dụ 1: Do có mâu thuẫn với ông Tiến trong việc thu mua phế thải, Hoa Anh Tuấn (đối tượng có nhân thân xấu (ngày 27-5-2005, Tuấn cùng đồng phạm chống người thi hành công vụ và bị xử phạt 12 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, nhưng cho hưởng án treo tại bản án hình sự sơ thẩm số 33/HSST ngày 14-4-2006)) đã nhờ một số đối tượng đánh dằn mặt ông Tiến. Tuấn chỉ nhà, chỉ mặt ông Tiến để các đồng phạm đánh, chém ông Tiến gây thương tích với tỉ lệ 23%.
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Tuấn 36 tháng tù đã là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm và vai trò người chủ mưu, khởi xướng của bị cáo. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “có tính chất côn đồ”, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng điểm i khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự là thiếu sót.
Tòa án cấp phúc thẩm không phát hiện ra sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm mà còn cho Tuấn hưởng án treo là đánh giá không đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự về chế định án treo và trái với hướng dẫn  tại các điểm b và d tiểu mục 6.1 Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, vì chỉ trong một thời gian ngắn bị cáo đã nhiều lần vi phạm pháp luật.
 Ví dụ 2: Trong thời gian từ tháng 01/2008 đến tháng 02/2009, lợi dụng việc đã từng làm bảo vệ Trụ sở Báo Công an nhân dân, biết vị trí các phòng làm việc và sự lỏng lẻo trong quản lý tài sản của các cán bộ, Cấn Xuân Hưng đã 07 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 191.689.400 đồng (gần mức cao nhất theo điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự). Với hành vi phạm tội của Hưng, dù có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ thì cũng phải xử phạt Hưng mức hình phạt cao trong khung hình phạt thì mới tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xử phạt Hưng 20 tháng tù là quá nhẹ, chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm lại cho bị cáo hưởng án treo là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng chế định án treo.
Ví dụ 3: Đỗ Minh Toàn là đối tượng có nhân thân xấu (ngày 09-02-2004 bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, nhưng cho hưởng án treo). Ngày 08-10-2008, Toàn có hành vi sử dụng số tiền 60.000 nhân dân tệ (tương đương với 146.000.000 đồng) để đánh bạc với nhiều người. Theo hướng dẫn tại mục 6 phần I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán thì số tiền Toàn dùng để đánh bạc là có giá trị đặc biệt lớn. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Toàn 02 năm 03 tháng tù (xấp xỉ mức thấp nhất của khung hình phạt) đã là nhẹ. Khi xét xử phúc thẩm, cho rằng Toàn là một Giám đốc doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả (được chính quyền địa phương và Hội doanh nghiệp trẻ của tỉnh xác nhận), nên Tòa án cấp phúc thẩm cho bị cáo hưởng án treo là đánh giá không đúng vai trò, tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo và áp dụng không đúng quy định của Bộ luật hình sự về chế định án treo, đồng thời trái với hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 6.1 Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Ví dụ 4: Vào các ngày 24-8-2008 và 07-4-2009, Nguyễn Thị Tươi bị bắt quả tang 02 lần cho các đôi nam nữ mua bán dâm tại các phòng ngủ, phòng hát do mình quản lý. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định Tươi tự khai ra hành vi chứa mại dâm vào ngày 24-8-2008 và áp dụng tình tiết giảm nhẹ là “người phạm tội tự thú” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là không đúng, vì việc bán dâm nêu trên bị bắt quả tang, hành vi phạm tội của bị cáo đã bị phát hiện. Từ việc xác định tình tiết giảm nhẹ không đúng này nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt Tươi 03 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt) trong khi bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ là “người phạm tội thành khẩn khai báo” là không đúng và có phần nhẹ.
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng sau khi xét xử Tươi đã nộp xong tiền phạt, bố, mẹ chồng bị cáo được tặng thưởng Huân, Huy chương... nên đã cho bị cáo hưởng án treo là không đúng quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự và điểm d tiểu mục 6.1 Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, vì sau khi bị bắt quả tang vào ngày 24-8-2008 về hành vi chứa mại dâm, trong thời gian chờ xử lý Tươi lại tiếp tục vi phạm pháp luật.
2. Không cho hưởng án treo không đúng
Ở chiều ngược lại, trong năm 2011, số sai lầm về không cho hưởng án treo không đúng cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ (04 vụ/43 vụ Tòa hình sự xét xử giám đốc thẩm). Các sai lầm thường gặp trong trường hợp này là quá cứng nhắc trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nên buộc những người phạm tội có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có việc làm ổn định và nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, người bị hại có đơn xin bãi nại và xin giảm án cho bị cáo phải chịu hình phạt tù giam, mặc dù họ có đầy đủ điều kiện để được hưởng án treo hoặc được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
Ví dụ 1: Do có tranh chấp về nhà, đất, Nguyễn Văn Hữu và Nguyễn Văn Hựu đã có hành vi hủy hoại tài sản của gia đình người bị hại với trị giá tài sản bị hư hỏng là 3.217.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Hữu 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và xử phạt Hựu 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, đều về tội “Hủy hoại tài sản” là phù hợp.
Tòa án cấp phúc thẩm không cho Hữu và Hựu được hưởng án treo mà xử phạt các bị cáo tù giam, mặc dù các bị cáo đều là những người làm ruộng, có nhân thân tốt, nhận thức pháp luật còn hạn chế, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, gây hậu quả không lớn, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại trước khi bị truy tố, xét xử là không cần thiết.
Ví dụ 2: Do bức xúc vì bị người bị hại là anh Nguyễn Văn Vũ và Nguyễn Hữu Phước đến tận nhà gây sự, dùng cuốc đe dọa, dùng tay, chân đánh gây thương tích cho bố mình, Nguyễn Trung Hiếu và Nguyễn Quang Trung đã chạy vào nhà lấy dao đánh lại, gây thương tích cho anh Vũ với tỉ lệ là 23%. Vụ việc xảy ra từ ngày 02-02-2006 nhưng đến ngày 30-6-2009 (sau 03 năm 04 tháng), Cơ quan điều tra mới khởi tố vụ án và khởi tố bị can đối với Nguyễn Trung Hiếu và Nguyễn Quang Trung. Sau khi khởi tố vụ án, anh Vũ đã đề nghị Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự đối với Hiếu và Trung vì lý do vụ án xảy ra đã quá lâu, quan hệ giữa các bên đã bình thường, nguyên nhân dẫn đến xô xát là do anh Vũ đã tự ý đến nhà các bị cáo gây sự trước, gia đình Hiếu đã bồi thường toàn bộ tiền điều trị thương tích theo thỏa thuận. Về phía các bị cáo, từ sau khi xảy ra vụ án các bị cáo đã tiếp tục đi học cao đẳng và đại học, cả hai đã tốt nghiệp ra trường (Hiếu đã tốt nghiệp cao đẳng vào tháng 12-2007, còn Trung tốt nghiệp đại học vào tháng 6-2010) và có công việc ổn định tại địa phương.
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Nguyễn Trung Hiếu và Nguyễn Quang Trung mỗi bị cáo 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận mà chỉ giảm hình phạt cho Trung xuống 24 tháng tù.
Như vậy, sau khi xảy ra vụ án đến khi điều tra, truy tố, xét xử, trong một thời gian dài các bị cáo không vi phạm pháp luật; đã ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn; tích cực bồi thường; có công việc ổn định; phía bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho các bị cáo...; lẽ ra Tòa án các cấp cần áp dụng Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự; điểm d tiểu mục 6.1 Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho các bị cáo hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục chung và phòng ngừa riêng.
Ví dụ 3: Do bức xúc vì bố bị người bị hại là ông Trần Văn Trang dùng đá đánh gây thương tích phải đi bệnh việc cấp cứu, Nguyễn Hồng Sơn và Nguyễn Hồng Hải đã dùng sống rựa và cây gỗ đánh ông Trang gây thương tích với tỷ lệ 55,19%.
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Hồng Hải 36 tháng tù; xử phạt Nguyễn Hồng Sơn 36 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, đều về tội “Cố ý gây thương tích” là phù hợp, vì các bị cáo chỉ có một tình tiết tăng nặng định khung là “dùng hung khí nguy hiểm”, nhưng lại có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực bồi thường cho người bị hại, có nhân thân tốt, phạm tội vì bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân...
Tòa án cấp phúc thẩm tăng mức hình phạt tù đối với Sơn lên 05 năm tù và không cho Hải được hưởng án treo là quá nặng và không cần thiết, bởi Sơn có đủ các điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự và hướng dẫn tại Mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02-10-2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
3. Áp dụng hình phạt hình tiền đối với người chưa thành niên phạm tội
Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật hình sự thì: “Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đối với mỗi tội phạm: 1. Cảnh cáo; 2. Phạt tiền; 3. Cải tạo không giam giữ; 4. Tù có thời hạn
Khoản 5 Điều 69 Bộ luật hình sự quy định: “Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội”.
Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, có trường hợp Tòa án lại áp dụng hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung đối với bị cáo là người chưa thành niên.
Ví dụ: Ngày 10-02-2009, Nguyễn Tấn Trọng Nhơn (sinh ngày 10-10-1991) cùng với Đặng Kim Hồng và Đỗ Minh Trí đi giao 11 chỉ hêrôin (có trọng lượng 4,5842 gram) cho một người tên Liên mà Hồng quen từ trước (không rõ lai lịch). Trong khi đang ngồi chờ Liên thì cả nhóm bị Công an phát hiện, bắt giữ. Trong quá trình điều tra, Hồng và Nhơn còn khai trước đó các bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi mua bán tổng số 28 tép hêrôin.
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Tấn Trọng Nhơn 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự phạt bổ sung Nhơn 5.000.000 đồng để sung quỹ nhà nước.
Nhận thấy: khi phạm tội Nguyễn Tấn Trọng Nhơn mới 17 tuổi 3 tháng 22 ngày, là người chưa thành niên phạm tội. Theo quy định đã nêu ở trên thì Nhơn không bị áp dụng hình phạt bổ sung. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là không đúng pháp luật.
4. Tòa án cấp phúc thẩm hủy, sửa án của Tòa án cấp sơ thẩm không có căn cứ
Theo quy định tại các Điều  249, 250 Bộ luật tố tụng hình sự thì Tòa án cấp phúc thẩm chỉ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại nếu việc điều tra không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được; hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại khi Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; và sửa bản án sơ thẩm theo hướng miễn trách nhiệm hình sự, miễn hoặc giảm hình phạt, giảm bồi thường, tăng hình phạt, tăng bồi thường...
Tuy nhiên, trong năm qua có những trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại cả những vấn đề đã được điều tra đầy đủ, tỷ mỷ hoặc yêu cầu điều tra những vấn đề không liên quan đến việc giải quyết vụ án. Có trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm mặc dù Tòa án cấp sơ thẩm đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, hoặc có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng không phải là vi phạm nghiêm trọng.
Ví dụ 1: Đặng Hồng Cừu (không có giấy phép lái xe) điều khiển xe mô tô không làm chủ tốc độ để xe đâm vào xe mô tô đi ngược chiều do anh Nguyễn Thanh Mùi điều khiển (trên xe có chở mẹ là bà Võ Thị Thiên), làm bà Thiên ngã xuống đường chấn thương sọ não dẫn đến tử vong.
Tòa án cấp sơ thẩm kết án Cừu 04 năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.
Mặc dù các tài liệu như sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, các biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn giao thông và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện đây là vụ tai nạn giao thông do lỗi hỗn hợp, trong đó Cừu có lỗi nhiều hơn, nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự Cừu là cần thiết. Mặc khác, vụ án xảy ra đã lâu, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhiều lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhưng không thể điều tra được gì thêm; việc xác định mức độ lỗi là thuộc trách nhiệm của Tòa án, không phải trách nhiệm của Cơ quan điều tra; Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết thấu đáo các vấn đề về trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn quyết định hủy án của Tòa án cấp sơ thẩm để điều tra lại, nhưng lại không nêu là cần phải điều tra lại vấn đề gì. Đây là sai lầm nghiêm trọng của Tòa án cấp phúc thẩm.
Ví dụ 2: Lợi dụng nhiệm vụ được giao quản lý phương tiện là chiếc máy xúc mà Công ty 889 giao cho để phục vụ việc thi công công trình của Công ty, Nguyễn Văn Đảng đã bán chiếc máy xúc này và chiếm đoạt toàn bộ tiền để chi tiêu cá nhân, gây thiệt hại cho Công ty 450.000.000 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 3 Điều 278 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Văn Đảng 15 năm tù về tội “Tham ô tài sản”.
Khi xét xử phúc thẩm, mặc dù các chứng cứ như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của của nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện việc Tòa án cấp sơ thẩm kết án Đảng phạm tội “Tham ô tài sản” là đúng. Tuy nhiên Tòa án cấp phúc thẩm lại căn cứ vào việc Đảng thay đổi lời khai (cho rằng mình không có ý thức chiếm đoạt tài sản của Công ty) và căn cứ vào một số chứng cứ không phù hợp do Luật sư của Đảng cung cấp tại phiên tòa sơ thẩm để hủy án sơ thẩm điều tra lại những vấn đề mà trước đó đã được điều tra làm rõ. Đây cũng là sai lầm nghiêm trọng của Tòa án cấp phúc thẩm.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa án của Tòa án cấp sơ thẩm trong năm qua (đặc biệt là sửa từ hình phạt tù giam sang cho hưởng án treo một cách thiếu căn cứ) gây bức xúc đối với cấp sơ thẩm và đây cũng là sai lầm mà cấp phúc thẩm bị kháng nghị nhiều nhất. (Nội dung này đã được nêu ở trên).
5. Tòa án cấp phúc thẩm bỏ sót kháng nghị không xem xét
Theo quy định tại các Điều 230, 241 Bộ luật tố tụng hình sự thì xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Tòa án cấp phúc thẩm xem xét trong phạm vi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án. Tuy nhiên, trong năm qua, có trường hợp Tòa án câp phúc thẩm bỏ sót kháng nghị của Viện kiểm sát không xem xét.
Ví dụ: Trong vụ án Nguyễn Tiến Long bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án 06 năm tù về tội “Giết người”, sau khi xét xử sơ thẩm trong thời hạn luật định người đại diện hợp pháp của người bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt và tăng bồi thường; Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đề nghị chuyển sang tội danh nhẹ hơn và giảm hình phạt cho bị cáo. Tuy nhiên, sau đó người đại diện hợp pháp của người bị hại lại rút toàn bộ kháng cáo. Do không cẩn thận trong khâu thụ lý và lập hồ sơ phúc thẩm (bộ phận chức năng không chuyển kháng nghị của Viện kiểm sát cho Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ), nên khi người đại diện hợp pháp của người bị hại rút toàn bộ kháng cáo tại phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, bỏ sót kháng nghị của Viện kiểm sát không xem xét. Đây là sai lầm nghiên trọng, vi phạm quy định tại Điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự.
III - MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG CÔNG TÁC XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
Qua công tác giám đốc việc xét xử và hướng dẫn Toà án các cấp áp dụng pháp luật trong năm qua, Toà hình sự thấy có một số vướng mắc mà Tòa án các cấp thường mắc phải trong việc áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Toà hình sự xin trình bày một số vấn đề có tính phổ biến, có nhiều ý kiến khác nhau để Hội nghị cùng trao đổi.
1. Định tội danh đối với hành vi chiếm đoạt tài sản mà bọn tội phạm sử dụng công cụ, phương tiện là thiết bị công nghệ cao, mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet
Trong thời gian gần đây có một số Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng trao đổi về việc xác định tội danh đối với các hành vi chiếm đoạt tài sản mà bọn tội phạm sử dụng công cụ, phương tiện là thiết bị công nghệ cao, mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet (hành vi khách quan cụ thể như: đánh cắp thông tin thẻ tín dụng sau đó sử dụng trái phép thông tin này để chuyển tiền từ tài khoản thẻ tín dụng vào tài khoản trực tuyến khác rồi chiếm đoạt; hoặc sử dụng trái phép thông tin tài khoản của cá nhân, tổ chức mở tại các ngân hàng để mua vé máy bay và các tài sản khác trên các trang web trực tuyến để chiếm đoạt tiền từ các tài khoản...).
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng trước đây các hành vi này vẫn được xét xử về tội phạm chiếm đoạt tài sản tương ứng quy định trong Chương các tội xâm phạm sở hữu. Từ ngày 01-01-2010, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự có hiệu lực, trong đó bổ sung Điều 226b “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Đây là loại tội phạm mới nhưng hiện nay các cơ quan có thẩm quyền chưa có văn bản hướng dẫn hay giải thích nên thực tiễn xét xử còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng hành vi nêu trên dù cũng có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản, nhưng do tính chất của tội phạm này không chỉ xâm phạm quan hệ sở hữu, mà còn xâm phạm nghiêm trọng an toàn công cộng, trật tự công cộng, nên các nhà làm luật đã tách ra thành một tội phạm mới và xếp vào Chương các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, nên phải xét xử và kết án theo tội phạm mới - “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Ý kiến khác lại cho rằng vẫn xét xử hành vi trên về tội phạm tương ứng như tội trộm cắp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Chương các tội xâm phạm sở hữu.
Trong khi chờ văn bản giải thích, hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, để tạm thời giải quyết những vướng mắc, Tòa hình sự xin nêu một số ý kiến để Hội nghị cùng trao đổi:
Thứ nhất, so sánh “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” với các tội chiếm đoạt tài sản trong Chương các tội xâm phạm sở hữu (như tội trộm cắp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) thì thấy các dấu hiệu trong cấu thành cơ bản của hai loại tội này là tương đối giống nhau. Điểm khác lớn nhất để phân biệt giữa tội phạm này với các tội phạm chiếm đoạt tài sản trong Chương các tội xâm phạm sở hữu chính là công cụ, phương tiện mà tội phạm này sử dụng để chiếm đoạt tài sản là các thiết bị kỹ thuật cao như mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, hoặc thiết bị số (đã được liệt kê cụ thể trong điều luật).
Thứ hai, so sánh về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” có tính chất, mức độ nguy hiểm ngang với các tội chiếm đoạt tài sản trong Chương các tội xâm phạm sở hữu. Do đó, khi giải quyết các vụ án mà người phạm tội có sử dụng các thiết bị kỹ thuật cao như mạng máy tính, mạng internet, hoặc thiết bị số  làm công cụ, phương tiện để chiếm đoạt tài sản thì các Tòa án cần kết án các bị cáo về tội “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo Điều 226b Bộ luật hình sự, thay vì kết án các bị cáo về tội chiếm đoạt tài sản tương ứng trong Chương các tội xâm phạm sở hữu như trước đây.
2. Định tội danh đối với hành vi mua bán hóa đơn giá trị gia tăng
Cũng trong thời gian gần đây, một số Tòa án vướng mắc trong việc định tội danh khi giải quyết các vụ án mua bán hóa đơn giá trị gia tăng (hay còn gọi là hóa đơn VAT). Trong các vụ án này hành vi khách quan phổ biến của các đối tượng là lập công ty hoặc được thuê làm Giám đốc công ty, không hoạt động kinh doanh mà chỉ lấy danh nghĩa công ty để bán hóa đơn giá trị gia tăng, hưởng chênh lệnh (dưới hình thức mua hóa đơn của cơ quan thuế, sau đó bán hóa đơn cho khách mua hàng hóa khống nhằm hợp thức hóa việc xuất khẩu hoặc bán hàng nội địa). Có trường hợp hóa đơn giá trị gia tăng mà các đối tượng mua bán đã ghi đầy đủ nội dung (như giá trị hàng hóa mua bán và thuế giá trị gia tăng), nhưng có trường hợp thì chưa ghi nội dung.
Sau khi nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan, Tòa hình sự có ý kiến trao đổi như sau:
Giải quyết các vụ án liên quan đến hóa đơn giá trị gia tăng từ trước đến nay chúng ta đã có Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT/BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 23-11-2004 của liên ngành Tư pháp trung ương. Theo hướng dẫn tại Thông tư này thì: đối với trường hợp hóa đơn giá trị gia tăng đã ghi đầy đủ nội dung, căn cứ vào quy định tại điểm a tiểu mục 1.4 Mục 1 và điểm a tiểu mục 2.2 Mục 2 của Thông tư liên tịch thì người mua, bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả” theo Điều 181 Bộ luật hình sự; đối với trường hợp hóa đơn giá trị gia tăng chưa ghi nội dung, căn cứ vào quy định tại điểm b tiểu mục 1.4 Mục 1 và điểm b tiểu mục 2.2 Mục 2 của Thông tư liên tịch thì người mua, bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước” theo Điều 268 Bộ luật hình sự.
Từ ngày 01-01-2010, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự có hiệu lực, trong đó bổ sung Điều 164a “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” thì những hành vi trước đây truy cứu theo Điều 268 Bộ luật hình sự thì nay truy cứu theo Điều 164a.
3. Phân biệt giữa các tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy” với tội “Vô ý làm chết người”
Cũng trong năm qua, Tòa án nhân dân tối cao còn nhận được ý kiến của một số Tòa án đề nghị hướng dẫn về việc phân biệt các tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy” với tội “Vô ý làm chết người” trong một số trường hợp cụ thể.
+ Trường hợp thứ nhất: Sau khi sửa xe, Phan Phước Lào điều khiển xe ôtô buýt (là “phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 17, khoản 18 Điều 3 Luật giao thông đường bộ) chạy thử trong Bến xe 19-5 (thuộc “kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật giao thông đường bộ) trong tình trạng để nắp hầm máy nhô ra khỏi thành xe 82cm, cho xe chạy quá tốc độ so với quy định trong Nội quy của Bến xe gây tai nạn làm bà Nguyễn Thị Thua bị chết.
Tòa án cấp sơ thẩm kết án Lào về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, kết án Lào về tội “Vô ý làm chết người”.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Tòa hình sự thấy trong hồ sơ không có bản Nội quy bến xe. Mặt khác, trong cấu thành của tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự đòi hỏi hành vi phạm tội phải “vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ”. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào bản Nội quy bến xe (không xác định do cơ quan nào ban hành) để kết luận Lào vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (vi phạm về tốc độ), từ đó kết án Lào về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự là chưa phù hợp. Tòa án cấp phúc thẩm kết án bị cáo về tội “Vô ý làm chết người” theo quy định tại khoản 1 Điều 98 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
+ Trường hợp thứ hai: Võ Văn Thịnh dùng thuyền không đảm bảo chất lượng chở người đi chơi trên Hồ Sen (một địa danh tại Đăk Lăk). Do không cẩn thận Thịnh làm lật thuyền gây chết người.
Theo Luật giao thông đường thủy nội địa năm 2004, thì Hồ Sen nói trên không phải là tuyến giao thông đường thủy nội địa. Do đó, hành vi của Thịnh không thuộc sự điều chỉnh của Luật giao thông đường thủy nội địa. Do đó, trong trường hợp này việc truy tố, xét xử Thịnh về tội “Vô ý làm chết người” là đúng pháp luật.
Từ hai trường hợp nêu trên thấy rằng khi xét xử các bị cáo bị truy tố về các tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường thủy”, các Tòa án cần chú ý nghiên cứu kỹ các quy định của luật nội dung (như Luật giao thông đường bộ, Luật giao thông đường thủy). Chỉ khi hành vi cơ quan tố tụng chỉ ra được hành vi của bị cáo vi phạm quy tắc hoặc quy định pháp luật cụ thể về giao thông thì mới kết án bị cáo về tội phạm giao thông tương ứng. Các trường hợp không chứng minh được hành vi của bị cáo vi phạm quy tắc hoặc quy định nào cụ thể của pháp luật về an toàn giao thông, thì cần xem xét, kết án bị cáo về tội “Vô ý làm chết người”.
4. Vấn đề phân biệt chất gây nghiện, chất hướng thần với thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần trong các vụ án ma túy và việc kiểm tra, rà soát việc thực hiện Thông tư liên tịch số 17 của liên ngành Tư pháp trung ương.
Ngày 24-12-2007, liên ngành Tư pháp Trung ương ban hành Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP “Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XVIII “Các tội phạm về ma tuý” của Bộ luật hình sự năm 1999” (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 17. Tại tiểu mục 3.5 mục 3 Phần II và mục 3 Phần III Thông tư liên tịch số 17 hướng dẫn:
3.5. Chất gây nghiện, chất hướng thần là chất ma túy; còn thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là để chữa bệnh (chỉ chứa một hàm lượng nhất định chất ma túy) và được quản lý theo quy chế quản lý dược phẩm của Bộ Y tế. Người nào không thuộc đối tượng quy định tại Điều 201 BLHS mà vi phạm trong việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần nhằm mục đích kinh doanh thuốc chữa bệnh hoặc để chữa bệnh thì bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác không phải là tội phạm về ma túy (ví dụ: tội kinh doanh trái phép, tội buôn lậu…). Trường hợp sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần trái phép nhằm thỏa mãn nhu cầu về sử dụng trái phép chất ma túy cho mình hoặc cho người khác thì bị xử lý về tội phạm ma túy tương ứng (nếu thỏa mãn điều kiện về trọng lượng chất ma túy theo quy định của pháp luật)” (tiểu mục 3.5 mục 3 Phần II).
“3. Đối với các trường hợp mà người phạm tội đã bị kết án đúng theo các văn bản trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì không áp dụng các hướng dẫn trong Thông tư này để kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ kháng nghị khác. Nếu theo Thông tư này, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn chấp hành hình phạt” (mục 3 Phần III).
Hướng dẫn này đặt ra ba vấn đề:
- Thứ nhất là đối với các vụ án ma túy đang hoặc chưa giải quyết thì khi giải quyết, căn cứ vào hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 17, bắt buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải trưng cầu giám định ý kiến của cơ quan chuyên môn để xác định vật chứng thu giữ được của người phạm tội (nghi là “chất ma túy”) có phải là “chất ma túy” hay không? Trường hợp kết quả giám định của cơ quan chuyên môn xác định đó là “chất ma túy” thì xử lý theo tội phạm ma túy tương ứng. Nếu cơ quan chuyên môn xác định đó là thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần để chữa bệnh (chỉ chứa một hàm lượng nhất định chất ma túy) thì căn cứ vào hướng dẫn nêu trên để xem xét, xử lý trách nhiệm theo đúng quy định của pháp luật.
- Thứ hai là đối với các vụ án ma túy đã giải quyết sau khi Thông tư liên tịch số 17 có hiệu lực thì các Tòa án cần tổ chức, phối hợp với liên ngành rà soát, nếu phát hiện có trường hợp kết án về tội phạm ma túy tương ứng đối với các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, thì cần báo cáo xin ý kiến cấp trên hoặc đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để giải quyết lại vụ án đúng pháp luật.
- Thứ ba là đối với các vụ án ma túy đã giải quyết trước khi Thông tư liên tịch số 17 có hiệu lực thì các Tòa án cần tổ chức, phối hợp với liên ngành rà soát, nếu phát hiện có trường hợp kết án về tội phạm ma túy tương ứng đối với các hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, nhưng họ chưa hoặc đang chấp hành hình phạt, thì cần xem xét, giải quyết, nếu hành vi của họ không cấu thành tội phạm khác thì cần làm thủ tục miễn chấp hành hình phạt hoặc miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cho họ, vì theo Thông tư này, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó nữa.
Về vấn đề này, tại Công văn số 160/TA-HS ngày 08-8-2011, Tòa án nhân dân tối cao đã yêu cầu các Tòa án tổ chức rà soát, báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để chỉ đạo giải quyết, nhưng cho đến nay mới chỉ có 41 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 05 Tòa án quân khu và tương đương báo cáo. Vì vậy, Tòa hình sự đề nghị sau Hội nghị này các Tòa án tiếp tục tổ chức rà soát, phối hợp liên ngành giải quyết dứt điểm những tồn tại nêu trên. Trường hợp có vướng mắc trong quá trình thực hiện thì báo cáo Tòa án nhân dân tối cao để hướng dẫn giải quyết.
TOÀ HÌNH SỰ
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
 
 
 
 

Tổng số điểm của bài viết là: 15 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 3 phiếu bầu
Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây