Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 230 Bộ luật hình sự)

Thứ ba - 03/06/2014 23:01
a. Dấu hiệu pháp lý
 
- Khách thể: tội phạm này xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Đối tượng tác động của tội phạm là vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. 
Theo Thông tư liên ngành số 01/TTLN (07/01/1995) của TANDTC, VKSNDTC, BNV hướng dẫn áp dụng Điều 95, 96 Bộ luật hình sự 1985:
+ Vũ khí quân dụng bao gồm các loại súng ngắn, súng trường, súng liên thanh các cỡ, các loại súng lớn, các loại vũ khí tự động, các loại đạn dùng cho các loại vũ khí trên và các thứ bom, mìn, lựu đạn, kíp mìn, thuốc nổ được quy định tại điểm a Điều 1 Nghị định số 175/CP ngày 11-12-1964 của Hội đồng Chính phủ về quản lý vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao quốc phòng và các loại vũ khí khác mà theo quy định của Nhà nước là vũ khí quân dụng.
Các loại đạn được coi là vũ khí quân dụng ở dạng nguyên viên và cả ở dạng rời từng bộ phận mà khi sử dụng mới lắp chúng như vỏ đạn còn hạt nổ, đầu đạn còn ngòi nổ.
Theo quy định tại điểm b Điều 1 Nghị định số 175/CP nói trên, thì vũ khí thể thao quốc phòng, và các loại vũ khí khác như: súng săn, súng kíp, súng hoả mai, dao găm, mã tấu, giáo mác, thuốc nổ và kíp mìn dùng trong sản xuất đều không coi là vũ khí quân dụng.
Do đó, cần lưu ý chỉ có kíp mìn, thuốc nổ, dây nổ dùng vào mục đích quốc phòng mới được coi là vũ khí quân dụng, còn nếu được dùng trong sản xuất (kể cả trang bị cho lực lượng vũ trang để làm kinh tế) thì được coi là chất nổ - đối tượng của tội phạm quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự.
+ Phương tiện kỹ thuật quân sự là các loại xe, khí tài, phương tiện khác được thiết kế, chế tạo và trang bị cho lực lượng vũ trang để huấn luyện, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
 
 Vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự đã được thanh lý theo đúng quy định của cơ quan Nhà nước về việc thanh lý vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự hoặc thực tế hoàn toàn không còn giá trị sử dụng theo chức năng của chúng thì không phải là đối tượng của tội phạm quy định tại Điều 230 Bộ luật hình sự.
Đối với vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự đã có quyết định thanh lý, nhưng không được tiến hành thanh lý hoặc việc thanh lý không được thực hiện đúng quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự vẫn còn giá trị sử dụng theo chức năng của chúng thì vẫn được coi là đối tượng của tội phạm quy định tại Điều 230 Bộ luật hình sự.
 
- Khách quan: hành vi đã được thể hiện rõ trong tên điều luật, bao gồm:
+ Hành vi chế tạo vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, là làm mới hoàn toàn hoặc lắp ráp từ những bộ phận của vũ khí, phương tiện và có giá trị sử dụng theo tính năng tác dụng của chúng. Đối với hành vi làm mới hoàn toàn súng được coi là chế tạo vũ khí quân dụng nếu đạn sử dụng cho súng được làm mới đó là đạn dùng cho các loại vũ khí quân dụng.
Chỉ những cơ sở sản xuất vũ khí của lực lượng vũ trang và những cơ sở khác có giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp mới được sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng; do đó, mọi trường hợp không được phép sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng mà sản xuất, lắp ráp hoặc được phép sản xuất, lắp ráp vũ khí quân dụng loại này lại sản xuất lắp ráp loại khác đều được coi là chế tạo vũ khí trái phép. Hành vi sản xuất, lắp ráp phương tiện kỹ thuật thuộc các trường hợp tương tự cũng được coi là chế tạo trái phép phương tiện kỹ thuật quân sự.
+ Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là cất giữ chúng mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Nơi tàng trữ có thể là nơi ở, nơi làm việc, mang theo trong người, trong hành lý hoặc cất giấu bất kỳ ở một vị trí nào khác mà người phạm tội đã chọn. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc định tội.
Ngoài ra bất cứ ai có được vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự không kể do nguồn gốc nào mà có (như được tặng, cho, đào bới được, nhặt được...) mà không khai và nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì hành vi cất giữ các đối tượng đó của họ cũng được coi là tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng phương tiện kỹ thuật quân sự.
+ Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là sử dụng không có giấy phép hoặc không được phép của người hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hành vi sử dụng là lên đạn, bóp cò; hành vi sử dụng lựu đạn là rút chốt, giật nụ xuỳ...
 
Đối với trường hợp sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự có giấy phép hoặc được phép của người hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nếu chủ thể là những người được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự có hành vi vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “vi phạm các quy định về sử dụng vũ khí” theo Điều 333 Bộ luật hình sự; nếu chủ thể không phải là những người được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “vô ý làm chết người” mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 230 Bộ luật hình sự.
Đối với người được trang bị vũ khí quân dụng đã sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được trang bị thực hiện tội phạm hoặc người tuy không được trang bị nhưng đã dùng vũ khí quân dụng thực hiện tội phạm thì đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: “tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 230 Bộ luật hình sự và tội phạm đã thực hiện theo điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự. Nếu tội phạm đã thực hiện mà điều luật có quy định “sử dụng vũ khí” là tình tiết định khung hình phạt, thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự về khoản tương ứng của điều luật.
 
+ Mua bán trái pháp vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là mua hoặc bán chúng mà không có giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Theo tinh thần quy định tại Điều 3 Nghị định số 175/CP ngày 11-12-1984 của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) thì chỉ những cơ quan được Chính phủ cho phép mới được mua, bán vũ khí quân dụng, chất nổ; do đó, được coi là mua, bán vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự trái phép, các hành vi mua bán không có giấy phép hoặc không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không đòi hỏi phải có đầy đủ cả hai hành vi mua và bán mà chỉ cần có một trong hai hành vi đó người phạm tội cũng phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 230 Bộ luật hình sự.
+ Chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm các hành vi cướp, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, tham ô, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt.
Cũng được coi là chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự các hành vi của quân nhân, nhân viên, công nhân quốc phòng và những người khác được trang bị vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự để huấn luyện chiến đấu, để thực hiện nhiệm vụ trong thời gian công tác, khi xuất ngũ, phục viên, nghỉ việc về hưu hoặc chuyển sang công tác khác mà không còn được phép sử dụng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, nhưng đã không giao nộp lại theo quy định của Nhà nước.
Tội phạm hoàn thành kể từ khi người phạm tội có một trong các hành vi trên, không cần xảy ra hậu quả.
- Chủ quan: là lỗi cố ý (trực hoặc gián tiếp). Động cơ, mục đích không là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Vì thế, nếu hành vi này để phạm một tội khác thì người phạm tội bị truy cứu về nhiều tội (truy cứu thêm về tội phạm tương ứng bên cạnh tội phạm này).
- Chủ thể: bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định.
 
b. Hình phạt chia làm 4 khung:
 
- Khung 1: phạm tội này không có các tình tiết định khung tăng nặng, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 1 năm đến 7 năm.
Theo Thông tư số 01 nói trên, người nào chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng với số lượng sau đây thì phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 95 Bộ luật hình sự 1985:
a) Súng bộ binh bắn phát một: từ 1 đến 5 khẩu.
b) Súng liên thanh cá nhân như trung liên, tiểu liên các loại: 1 khẩu hoặc 2 khẩu.
c) Súng bộ binh khác như thượng liên, đại liên, B40, B41, 12 ly 7, 14 ly 5: 1 khẩu.
d) Lựu đạn, đạn cối, đạn pháo đến 100 ly: từ 1 đến 10 quả.
đ) Đạn cối, đạn pháo trên 100 ly: từ 1 đến 5 quả.
e) Từ 50 viên đến 300 viên đạn súng bộ binh (từ đại liên trở xuống).
g) Từ 30 viên đến 200 viên đối với các loại đạn 12 ly 7, 14 ly 5, 23 ly, 24 ly (không phải là đạn pháo).
h) Thuốc nổ các loại từ 1kg đến 15kg.
i) Từ 200 cái đến 1000 cái đối với kíp mìn, nụ xuỳ.
k) Từ 500m đến 3000m dây cháy chậm, dây nổ.
l) Đối với người có hành vi chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng với số lượng dưới mức hướng dẫn tại các điểm e, g, h, i, k trên đây, nhưng đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi này hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xoá án về tội cố ý hoặc trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 230 Bộ luật hình sự.
- Khung 2: phạm tội này thuộc một trong các trường hợp sau, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm:
+ Có tổ chức.
+ Vật phạm pháp có số lượng lớn.
Theo Thông tư số 01, số lượng dưới đây là số lượng lớn:
a) Súng bộ binh bắn phát một: từ 6 khẩu đến 25 khẩu.
b) Súng liên thanh cá nhân như trung liên, tiểu liên các loại: từ 3 khẩu đến 15 khẩu.
c) Súng bộ binh khác như thượng liên, đại liên, B40, B41, 12 ly 7, 14 ly 5: từ 2 khẩu đến 10 khẩu.
d) Lựu đạn, đạn cối, đạn pháo đến 100 ly: từ 11 quả đến 50 quả.
đ) Đạn cối, đạn pháo trên 100 ly: từ 6 đến 15 quả.
e) Đạn bộ binh (từ đại liên trở xuống): từ trên 300 viên đến 1.500 viên.
g) Đạn 12 ly 7, 14 ly 5, 23 ly, 24 ly (không phải là đạn pháo): từ trên 200 viên đến 1000 viên.
h) Thuốc nổ các loại từ trên 15kg đến 75kg.
i) Kíp mìn, nụ xuỳ: từ trên 1000 cái đến 5000 cái.
k) Dây cháy chậm, dây nổ: từ trên 3000m đến 15.000m.
+ Vận chuyển, mua bán qua biên giới.
+ Gây hậu quả nghiêm trọng.
+ Tái phạm nguy hiểm.
- Khung 3: phạm tội này thuộc một trong các trường hợp sau, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
+ Vật phạm pháp có số lượng rất lớn.
Thông tư trên không có hướng dẫn mức tối đa của “vật phạm pháp có số lượng rất lớn. Tuy nhiên, căn cứ vào Thông tư này và thực tiễn áp dụng, có thể coi số lượng phạm pháp sau đây là số lượng lớn:
a) Súng bộ binh bắn phát một: từ 26 khẩu đến 45 khẩu.
b) Súng liên thanh cá nhân như trung liên, tiểu liên các loại: từ 16 khẩu đến 30 khẩu.
c) Súng bộ binh khác như thượng liên, đại liên, B40, B41, 12 ly 7, 14 ly 5: từ 11 khẩu đến 20 khẩu.
d) Lựu đạn, đạn cối, đạn pháo đến 100 ly: từ 51 quả đến 100 quả.
đ) Đạn cối, đạn pháo trên 100 ly: từ 16 đến 30 quả.
e) Đạn bộ binh (từ đại liên trở xuống): từ trên 1.500 viên đến 3.000 viên.
g) Đạn 12 ly 7, 14 ly 5, 23 ly, 24 ly (không phải là đạn pháo): từ trên 1.000 viên đến 1.500 viên.
h) Thuốc nổ các loại từ trên 75kg đến 150kg.
i) Kíp mìn, nụ xuỳ: từ trên 5000 cái đến 10.000 cái.
k) Dây cháy chậm, dây nổ: từ trên 15.000m đến 30.000m.
+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
- Khung 4: phạm tội này thuộc một trong các trường hợp sau, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm, hoặc tù chung thân:
 + Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn. Đây là trường hợp mà số lượng vật phạm
phạm trên mức tối đa được xác định trong trường hợp “vật phạm pháp có số lượng rất lớn”.
+ Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm. 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây