Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104 Bộ luật hình sự)

Thứ hai - 02/06/2014 00:50
a. Định nghĩa: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi cố ý gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác dưới dạng những thương tích hoặc tỷ lệ tổn hại sức khoẻ cụ thể.
 
b. Dấu hiệu pháp lý
 
- Khách thể:
Tội phạm này xâm phạm đến sức khoẻ của người khác một cách trái pháp luật.
- Mặt khách quan:
Tội phạm này có cấu thành tội phạm vật chất, đòi hỏi các dấu hiệu sau:
+ Hành vi phạm tội là sự tác động đến thân thể người khác một cách trái pháp luật. Những hành vi này có khả năng gây ra những thương tích nhất định, làm tổn hại đến sức khoẻ của con người. Những hành vi này có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện phạm tội (đâm, chém, bắn, đốt, ném đá, đầu độc...) hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội (đấm, đá, cắn...) hoặc có thể thông qua súc vật (thả chó cắn, trâu chém, bò đá...) hay cơ thể người khác (nắm chân người khác làm côn đánh, ôm người này ném người khác…).
+ Hậu quả: 
Tội cố ý gây thương tích có dấu hiệu bắt buộc là phải có hậu quả thương tích, là vết thương để lại trên cơ thể của con người; tội cố ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác phải có hậu quả xảy ra là làm tổn hại các chức năng, bộ phận trên cơ thể của con người (ví dụ: làm rối loạn hệ tuần hoàn, rối loạn hệ tiêu hoá...)
Mức độ thương tích cần xét xử về hình sự:
+ Tỉ lệ thương tích: là tỉ lệ mất sức lao động vĩnh viễn dựa trên kết quả của giám định pháp y, nhưng trong trường hợp cần thiết có thể dựa trên kết luận của bác sĩ điều trị khi tiếp nhận bệnh nhân.
Về thực tiễn, nếu tỉ lệ thương tật dưới 11%, không gây cố tật thì được coi là thương tích nhẹ, chưa phải chịu trách nhiệm hình sự. Tỉ lệ thương tật từ 11% trở lên là tỉ lệ cần thiết để  truy cứu trách nhiệm hình sự.11
+ Có một số trường hợp tỉ lệ thương tật không đến 11% nhưng vẫn xét xử về hình sự (khoản 1 Điều 104):12
@Dùng hung khí nguy hiểm  (như dao, súng, thuốc nổ, acid...) hoặc dùng thủ đoạn có thể gây nguy hại cho nhiều người;
 
Dùng hung khí nguy hiểm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Đó là:
- Vũ khí là một trong các loại vũ khí được quy định tại khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ
khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính
phủ).
- Phương tiện nguy hiểm là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công.
+ Về công cụ, dụng cụ, như búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...;
+ Về vật mà người phạm tội chế tạo ra, như thanh sắt mài nhọn, côn gỗ...;
+ Về vật có sẵn trong tự nhiên, như gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt...
 
@Gây cố tất nhẹ cho nạn nhân;
Tình tiết “gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự đã được hướng dẫn tại điểm 1 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự”; cụ thể là: “Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân” là hậu quả của hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân để lại trạng thái bất thường, không thể chữa được cho một bộ phận cơ thể của nạn nhân với tỷ lệ thương tật dưới 11% khi thuộc một trong các trường hợp: làm mất một bộ phận  cơ thể của nạn nhân; làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân; làm giảm chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân. Có thể lấy một số trường hợp sau đây trong Bản quy định tiêu chuẩn thương tật (ban hành kèm theo Thông tư số 12/TTLB ngày 26/7/1995 của Liên Bộ Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội “quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh tật mới”) để làm ví dụ:
+ Về trường hợp làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân. Ví dụ, gây thương tích làm mất đốt ngoài (đốt 2) của ngón tay cái hoặc làm mất hai đốt ngoài (2+3) của ngón tay trỏ có tỷ lệ thương tật từ 8% đến 10% (các điểm a và b mục 5, phần IV, Chương I);
+ Về trường hợp làm mất chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân. Ví dụ, gây thương tích làm cứng khớp các khớp liên đốt ngón tay giữa (III) ở tư thế bất lợi có tỷ lệ thương tật từ 7% đến 9% (điểm c mục 5, phần IV, Chương I);
+ Về trường hợp làm giảm chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân. Ví dụ, gây thương tích làm một mắt giảm thì lực từ 4/10 đến 5/10, mắt kia bình thường có tỷ lệ thương tật từ 8% đến 10% (mục 7, phần II, Chương VIII);
+ Về trường hợp làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân. Ví dụ, gây thương tích để lại sẹo to, xấu ở vùng trán, thái dương có tỷ lệ thương tật từ 6% đến 10% (điểm b, mục 1, phần I, Chương
IV). 
@Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc với nhiều người;
 
- Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS được hiểu là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên hoặc của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) và trong các lần đó chưa có lần nào bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu xử lý hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng tình tiết "phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người" để xét xử bị cáo theo khoản 1, khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 104 của BLHS được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm b, c và d tiểu mục 3.2 này.
- Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây:
+ Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên.
Trường   hợp   trong   các   lần   đó   chỉ   có   một   lần   tỷ   lệ   thương   tật   từ 11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của BLHS.
+  Cố  ý  gây  thương  tích  hoặc  gây  tổn  hại  cho  sức  khoẻ  của  hai  người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) mà mỗi lần tỷ lệ thương tật dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các lần từ 11% trở lên.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 11% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 104 của
BLHS.
- Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây:
+ Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%. Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của BLHS. 
+ Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 31% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều 104 của
BLHS.
- Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người quy định tại điểm c khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của BLHS trong các trường hợp sau đây:
+ Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một người từ hai lần trở lên mà có ít nhất hai lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của BLHS.
+ Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của hai người trở lên (có thể một lần, có thể nhiều lần đối với mỗi người) mà trong đó có ít nhất hai người và mỗi người một lần tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
Trường hợp trong các lần đó chỉ có một người một lần tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên, còn các lần khác tỷ lệ thương tật đều dưới 61% thì bị cáo cũng chỉ bị xét xử theo khoản 3 Điều 104 của
BLHS. 
@Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
@Phạm tội đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
 
- Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện
sau đây:
+ Nạn nhân phải là thầy giáo, cô giáo tức là người đã hoặc đang làm công tác giảng dạy theo biên chế hoặc theo hợp đồng tại cơ quan, tổ chức có chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
+ Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân là vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, dạy nghề của họ đối với bị cáo, không phân biệt nhiệm vụ đó đã được thực hiện hay đang được thực hiện và không kể thời gian dài hay ngắn;
+ Tỷ lệ thương tật của nạn nhân dưới 11%.
- Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 2 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện
sau đây:
+ Các điều kiện được hướng dẫn tại các điểm a.1 và a.2 tiểu mục 3.3 này;
+ Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 11% đến 30%.
- Chỉ áp dụng tình tiết “đối với thầy giáo, cô giáo của mình” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 104 của BLHS để xét xử bị cáo theo khoản 3 Điều 104 của BLHS khi có đầy đủ các điều kiện
sau đây:
+ Các điều kiện được hướng dẫn tại các điểm a.1 và a.2 tiểu mục 3.3 này;
+ Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 31% đến 60%.
@ Có tổ chức;
@Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
@Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
@Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
@Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
 
Điều luật quy định tỷ lệ thương tật dưới 11%, kèm theo một trong số các điểm trên đây sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều này. Tuy nhiên, “dưới 11%” là bao nhiêu? Không có văn bản nào hướng dẫn cụ thể dưới 11% là bao nhiêu. Có hai quan điểm về vấn đề này. “Dưới 11%” được hiểu là có tỷ lệ thương tật, bao nhiêu cũng được, có thể là 1%, 2%...cũng được. Quan điểm khác cho rằng, “dưới 11%” thì cũng phải gần 11%, như 7%, 8%, 9%, 10%, kèm với một trong số các điểm từ điểm a - k khoản 1 Điều 104 thì người phạm tội mới có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Thực tiễn cùng thường làm như vậy.
 
Như vậy, những trường hợp gây thương tích có tỷ lệ thương tật chưa đến 11% và không thuộc những trường hợp nêu trên là những trường hợp không cấu thành tội phạm. Ở đây cần phân biệt với trường hợp phạm tội chưa đạt là trường hợp ý thức chủ quan của người phạm tội muốn gây ra hậu quả thương tích lớn, nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn nên thương tích gây ra có tỷ lệ thương tật dưới 11%.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thương tích: đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Khi đã xác định có hành vi thương tích và hậu quả thương tích, đòi hỏi phải xác định hậu quả đó có phải do chính hành vi gây thương tích đã thực hiện gây ra hay không. Người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những thương tích do chính hành vi của họ đã gây ra.
- Mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là có thể gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nhưng vẫn mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra. Ở đây, người phạm tội chỉ có ý thức và mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ xảy ra chứ không phải hậu quả chết người. Nếu người phạm tội ý thức được và mong muốn hay để mặc hậu quả chết người xảy ra thì người phạm tội phải bị xác định là “giết người chưa đạt”.
- Chủ thể: là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định. Tuy nhiên, người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi trở chỉ chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3, 4 Điều này.
 
c. Hình phạt chia làm 4 khung:
 
- Khung 1: gây thương tích hoặc tổn hại cho sứ khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ đủ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp liệt kê tại khoản 1 Điều 104, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
- Khung 2: gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc dưới 31% nhưng thuộc các trường hợp liệt kê tại khoản 1 Điều 104, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 2 năm  đến 7 năm.
+ Khung 3: gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60% nhưng thuộc các trường hợp liệt kê tại khoản 1 Điều 104, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 5 năm  đến 15 năm.
+ Khung 4: gây hậu quả chết nhiều người hoặc trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc tù chung thân. Thực tiễn xét xử thường xem các trường hợp sau là trường hợp đặc biệt nghiêm trọng:
@Gây thương tích cho rất nhiều người trong đó có người bị thương tích nhẹ, có người bị cố tật nặng hoặc có tỷ lệ thương tật trên 60%;
@ Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người mà mỗi người đều có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.
Ngoài ra, tuỳ trường hợp cụ thể khác, xét đến tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm, bị cáo cũng có thể bị áp dụng theo khoản 4 Điều 104.
 

Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 2 phiếu bầu
Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây