Tội trốn tránh nhiệm vụ (Điều 326 Bộ luật hình sự)

Thứ hai - 02/06/2014 01:13
a. Dấu hiệu pháp lý
 
- Khách thể: tội phạm này xâm phạm chế độ nghĩa vụ quân sự và chế độ phục vụ của sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam.
- Khách quan: thể hiện ở hành vi tự gây thương tích, tự gây tổn hại cho sức khoẻ của mình hoặc dùng bất cứ thủ đoạn gian dối khác để trốn tránh nhiệm vụ (nghĩa vụ quân sự). 

Hành vi tự gây thương tích (cắt ngón tay, bàn chân, gây lảng tai, cận thị…) hoặc gây tổn hại sức khoẻ của mình (uống thuốc để khiến mình bị bệnh, nhịn ăn…) có thể được thực hiện tự mình hay nhờ người khác giúp đỡ. Cũng có thể dùng hành vi gian dối khác (giả đau ốm, bệnh tật, gia đình khó khăn, vợ đẻ con đau…) để chứng tỏ mình không thể thực hiện được nhiệm vụ được giao (trong chiến đấu hoặc công tác). Các hành vi tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình để trốn tránh nhiệm vụ được thực hiện khi quân nhân đang ở trong đơn vị quân đội hoặc đã được đơn vị nhận từ địa phương. Bởi vì, nếu hành vi này thực hiện trước khi đơn vị quân đội nhận quân thì hành vi sẽ cấu thành tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự với tình tiết định khung tăng nặng “tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của mình” (điểm a, khoản 2, Điều 259 Bộ luật hình sự).
Hành vi cấu thành tội phạm khi quân nhân có một trong các hành vi nói trên mà không cần hậu quả.
- Chủ quan: là lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích trốn tránh nhiệm vụ là dấu hiệu bắt buộc.
- Chủ thể: là quân nhân nói ở phần đầu.
 
b. Hình phạt:
 
- Khung 1: người tự gây thương tích, gây tổn  hại cho sức khoẻ của mình hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác để trốn tránh nhiệm vụ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Khung 2: phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy  năm:
 Là chỉ huy hoặc sĩ quan.
 Lôi kéo người khác phạm tội.
 Phạm tội trong thời chiến.
 Gây hậu quả nghiêm trọng.
Khung 3: phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm.
 
 
Theo Thông tư liên tịch của Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ Tư pháp - Bộ quốc phòng số 01/2003:
Về các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại các điều từ Điều 326 đến Điều 339 Bộ luật Hình sự. Khi áp dụng các tình tiết này cần chú ý:
Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra, tức là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
phạm tội và hậu quả xảy ra. Hậu quả đó có thể là hậu quả vật chất (như thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ, về tài sản, về vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự…) hoặc phi vật chất như gây ảnh hưởng xấu
đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về an ninh quốc phòng; ảnh hưởng
đến khả năng và tình trạng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội; ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ
của đơn vị; ảnh hưởng đến quan hệ đoàn kết trong nội bộ Quân đội; mối quan hệ quân dân v.v…
Để xác định thế nào là phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng phải xem xét đánh giá một cách tổng hợp, toàn diện các loại hậu quả do hành vi phạm tội gây ra gồm thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, thiệt hại về vũ khí, trang bị và thiệt hại phi vật chất.
Việc xác định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, về tài sản được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999.
Việc xác định thiệt hại về vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự như sau:
a) Gây thiệt hại về vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự thuộc một trong các trường hợp sau được coi là gây hậu quả nghiêm trọng:
- Từ 3 đến 10 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên;
- Từ 1 đến 5 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 ly đến 25 ly, súng B40, B41;
- Từ 5 đến 15 quả mìn, lựu đạn;
- Từ 3 đến 10 quả đạn cối, đạn pháo;
- Từ 300 đến 1.000 viên đạn bộ binh cỡ 11,43 ly trở xuống;
- Từ 200 đến 600 viên đạn súng máy cao xạ cỡ 12,7 ly đến 25 ly;
- Từ 10 đến 30 kg thuốc nổ các loại;
- Từ 1.000 đến 3.000 nụ xuỳ hoặc ống nổ;
- Từ 3.000 đến 10.000 m dây cháy chậm, dây nổ v.v…
b) Gây thiệt hại về vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự thuộc một trong các trường hợp sau được coi là gây hậu quả rất nghiêm trọng:
- Từ 11 đến 30 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên;
- Từ 6 đến 20 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 ly đến 25 ly, súng B40, B41;
- Từ 16 đến 45 quả mìn, lựu đạn;
- Từ 11 đến 30 quả đạn cối, đạn pháo;
- Từ 1.001 đến 3000 viên đạn bộ binh cỡ 11,43 ly trở xuống;
- Từ 601 đến 2.000 viên đạn súng máy cao xạ cỡ 12,7 ly đến 25 ly;
- Từ trên 31 kg đến 100 kg thuốc nổ các loại;
- Từ 3.001 đến 10.000 xuỳ nổ hoặc ống nổ;
- Từ 10.000 đến 30.000 m dây cháy chậm, dây nổ v.v…
c) Gây thiệt hại về vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự với số lượng trên mức tối đa được hướng dẫn tại điểm b là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
d) Trường hợp gây thiệt hại các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự khác nhau mà mỗi loại chưa đến mức được hướng dẫn tại điểm a thì được coi là gây hậu quả nghiêm trọng nếu tổng thiệt hại tương ứng với mức được hướng dẫn tại điểm a. Ví dụ: phạm tội gây thiệt hại 2 khẩu súng trường (66% mức hướng dẫn tối thiểu), 3 kg thuốc nổ (30% mức hướng dẫn tối thiểu) và 300 nụ xuỳ (30% mức hướng dẫn tối thiểu) được coi là phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng (tổng cộng thiệt hại các loại là 126%, trên mức tối thiểu được hướng dẫn).
Sử dụng cách tính tương tự như vậy để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với trường hợp gây thiệt hại các loại vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự khác nhau mà mỗi loại chưa đến mức được hướng dẫn tại các điểm b hoặc c.
đ) Đối với thiệt hại phi vật chất thì tuỳ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể để xác định hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Khi đánh giá cần chú ý đến các hậu quả như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về an ninh quốc phòng; khả năng, sức mạnh và tình trạng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị; việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị; uy tín, danh dự của Quân đội; mối quan hệ đoàn kết trong nội bộ Quân đội; mối quan hệ quân dân v.v… 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây