b. Dấu hiệu pháp lý
- Khách thể: Hành vi phạm tội giết người xâm phạm tính mạng của người khác.
- Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách trái pháp luật.
+ Hành vi tước đoạt tính mạng được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của họ. Những hành vi không có khả năng này không thể coi là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người có thể là hành động như bắn, chém, đâm... Hành vi khách quan của tội giết người cũng có thể là không hành động - đó là những trường hợp chủ thể có nghĩa vụ phải hành động, phải làm một số việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng cho người khác nhưng họ đã không hành động, không thực hiện những việc làm đó. Không hành động của họ trong trường hợp này có khả năng gây ra cái chết cho người khác. Chẳng hạn, để trả thù người có thai đến thời kỳ sinh nở, không thể sinh bình thường mà phải mổ, bác sĩ phụ sản trực tiếp xử lý ca mổ đã cố ý trì hoãn không cho mổ với mục đích giết hại người đó và dẫn đến người đó chết.
+ Hành vi tước đoạt tính mạng được coi là hành vi khách quan của tội giết người phải là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi tước đoạt tính mạng của chính mình không phải là hành vi khách quan của tội giết người. Hành vi gây ra cái chết cho người khác được pháp luật cho phép cũng không phải là hành vi khách quan của tội giết người, như hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc thi hành hình phạt tử hình…
+ Trong thực tiễn xét xử còn gặp những trường hợp tước đoạt tính mạng của người khác do được sự đồng ý của nạn nhân. Động cơ của những hành vi này có thể khác nhau, trong đó có những động cơ mang tính nhân đạo. Ví dụ, tước đoạt tính mạng của người mắc bệnh hiểm nghèo nhằm tránh đau đớn kéo dài cho họ theo sự yêu cầu của nạn nhân và gia đình nạn nhân. Dù với động cơ gì, theo Luật hình sự Việt Nam những trường hợp này cùng bị coi là trái pháp luật theo Luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, một số nước trên thế giới lại cho phép và công nhận việc tước đoạt tính mạng người khác trong những trường hợp đó là hợp pháp.
Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội này. Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra thì tội phạm có thể đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc chưa đạt.
Quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan - hành vi tước đạt sinh mạng của người khác - đã thực hiện và hậu quả chết người đã xảy ra cũng là một dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm tội giết người.
Việc xác định mối quan hệ nhân quả là điều kiện cần thiết để có thể buộc người có hành vi tước đoạt tính mạng người khác phải chịu trách nhiệm về hậu quả chết người đã xảy ra. Người có hành vi tước đoạt tính mạng người khác một cách trái pháp luật chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những hậu quả chết người đã xảy ra, ra nếu hành vi họ đã thực hiện là nguyên nhân của hậu quả chết người đã xảy ra đó. Việc xác định này trong nhiều trường hợp cũng hết sức phức tạp, đòi hỏi có sự hỗ trợ của giám định pháp y.
- Mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm tội giết người là lỗi cố ý. Lỗi cố ý ở đây có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
+ Trong trường hợp lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra (hoặc tất nhiên sẽ xảy ra), nhưng vì mong muốn hậu quả đó nên đã thực hiện hành vi phạm tội.
+ Trong trường hợp lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể nguy hiểm đến tính mạng của người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng để đạt được mục đích của mình, người phạm tội có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, hay nói một cách khác, họ chấp nhận hậu quả đó.
Trong trường hợp hậu quả chết người đã xảy ra, việc xác định lỗi là cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp không có ý nghĩa trong việc định tội. Nhưng trong trường hợp hậu quả chết người chưa xảy ra, việc xác định lỗi này có ý nghĩa rất quan trọng. Cụ thể là:
- Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp
thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người nhưng ở giai đoạn chưa
đạt;
- Nếu hậu quả chết người chưa xảy ra và lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp thì người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích (nếu có thương tích xảy ra) hay các tội phạm khác mà người phạm tội đã thực hiện (không mong muốn hậu quả chết người nhưng có ý thức để mặc hậu quả đó xảy ra nhưng nó chưa xảy ra), mà không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người chưa đạt.
Trong thực tiễn, việc xác định lỗi cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp không phải luôn đơn giản, mà trong nhiều trường hợp hết sức phức tạp. Việc xác định lỗi còn đặc biệt phức tạp hơn trong những trường hợp xác định lỗi cố ý gián tiếp hay chỉ là lỗi vô ý do quá tự tin đối với hậu quả chết người.
Đứng trước tình hình nạn chuột phá lúa và hoa màu, bà con nông dân đã áp dụng rất nhiều phương pháp khác nhau để diệt chuột, trong đó có biện pháp giăng bẫy điện xung quanh ruộng lúa,
hoa màu.Do vườn mía phía sau nhà bị chuột cắn phá, Nguyễn Thị Sơn đã nhiều lần dùng thuốc diệt chuột, keo diệt chuột nhưng không có hiệu quả. Thấy nhiều gia đình dùng điện diệt chuột có hiệu quả, Sơn đã dùng điện giăng xung quanh vườn mía nhà mình bằng dây điện trần. Xung quanh vườn mía có hàng rào cao khoảng 1-1,5m và không có lối đi tắt, qua cho những người hàng xóm. Thường thường, Sơn cắm điện vào 22 giờ đêm hôm trước và rút phích cắm vào 5 giờ sáng hôm sau. Khi cắm điện diệt chuột, Sơn có nói với mọi người xung quanh, hàng xóm biết việc này và thường cho họ những con chuột đã bẩy được.
Khoảng 24 giờ ngày 29/7/2001, có một thanh niên khác xã với Sơn (cách đó khoảng 2,5 km) đã trèo qua rào để vào vườn mía của Sơn và bị điện giật chết.
Trong trường hợp này, có hai quan điểm khác nhau: Sơn phạm tội giết người (lỗi cố ý gián tiếp) và Sơn phạm tội vô ý làm chết người (lỗi vô ý vì quá tự tin). Tuy nhiên, nếu phân tích chính xác, chúng ta có thể khẳng định Sơn gây ra hậu quả chết người với lỗi vô ý vì quá tự tin.
- Mục đích, động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm tội giết người. Hành vi giết người nếu có mục đích chống chính quyền nhân dân sẽ cấu thành tội theo Điều 84 Bộ luật hình sự. Động cơ phạm tội tuy không có ý nghĩa về mặt định tội nhưng có một số động cơ phạm tội được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hay giảm nhẹ.
- Chủ thể: Là bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự.
c. Hình phạt:
Điều 93 quy định 2 khung hình phạt:
- Khoản 1 quy định các tình tiết định khung tăng nặng; khoản 2 là cấu thành cơ bản.
+ Khung tăng nặng có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình được áp dụng cho những trường hợp phạm tội giết người sau đây:
@Giết nhiều người: là trường hợp giết (cố ý giết người hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra) từ hai người trở lên, có thể cùng một lần hoặc nhiều lần khác nhau. Nếu người phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp thì hậu quả chết người có thể chỉ là chết một người (chỉ cần người phạm tội mong muốn giết nhiều người) cũng xem là “giết nhiều người”. Tuy nhiên, nếu là lỗi cố ý gián tiếp thì hậu quả “chết nhiều người” là dấu hiệu bắt buộc để áp dụng tình tiết này.
Trong trường hợp người phạm tội chỉ giết một người do cố ý, người khác là làm chết người do vô ý thì người phạm tội sẽ bị xét xử theo khoản 2 Điều này, hậu quả chết người do vô ý sẽ xét xử người phạm tội theo tội danh khác (vô ý làm chết người, sẽ bàn sau). Ngoài ra, nếu có từ hai người chết trở lên, nhưng chỉ có một người chết do sự cố ý của người phạm tội, những người còn lại chết do người phạm tội giết người trong trường hợp tinh thần bị kích động mạnh, hoặc giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng...thì người phạm tội cũng không bị áp dụng tình tiết “giết nhiều người”, trường hợp này sẽ định nhiều tội.
@Giết phụ nữ mà biết là có thai: là trường hợp nạn nhân bị giết là người đang mang thai và bản thân kẻ giết người khi thực hiện hành vi giết người đã nhận thức được điều đó (không kể nạn nhân có thai bao lâu). Cũng áp dụng tình tiết này nếu người phạm tội tưởng nhầm một người phụ nữ đang có thai dù thực tế người này không đang có thai. Ngược lại, nếu giết phụ nữ có thai nhưng người phạm tội không nhận thức được thì không áp dụng tình tiết này.
Trường hợp nạn nhân là người tình hay người mà kẻ phạm tội muốn giết để trốn tránh trách nhiệm thì còn có thể viện dẫn tình tiết “giết người vì động cơ đê hèn”. Giết phụ nữ mà
biết là có thai là dấu hiệu thuộc ý thức chủ quan của người phạm tội. Tình tiết này khác với tình tiết tăng nặng (tại khoản 1 Điều 48) “người bị hại là phụ nữ có thai”. Đối với tình tiết tăng nặng, chỉ cần nạn nhân là phụ nữ có thai thì có thể áp dụng, không cần biết người phạm tội có biết dấu hiệu này hay không.
@Giết trẻ em: là trường hợp người phạm tội cố ý tước đoạt tính mạng của trẻ em. Theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc,và giáo dục trẻ em thì trẻ em là người dưới 16 tuổi. Như vậy, những hành vi giết người dưới 16 tuổi, theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, đều bị coi là tình tiết định khung tăng nặng theo khoản 1 Điều 93, bất kể người phạm tội có nhận thức được điều đó hay không (tình tiết mang tính khách quan).
Khi áp dụng tình tiết này, chúng ta cần hết sức chú ý phải xác định tuổi của bị hại theo các tài liệu liên quan đến này sinh của bị hại. Trường hợp không có tài liệu để xác định và việc xác minh cũng không chính xác thì áp dụng cách tính tuổi của bị hại theo hướng có lợi cho người phạm tội.
Theo công văn số 81/2002/TANDTC (10/6/2002) của Toà án nhân dân tối cao về việc giải đáp các vấn đề về nghiệp vụ, tại mục 11 phần II, khi không có cơ sở chính xác để xác định tuổi của bị hại thì theo quy tắc sau:4
- Nếu chỉ biết được tháng sinh của bị hại thì lấy ngày đầu tiên của tháng đó làm ngày sinh của bị hại;
- Nếu chỉ biết được năm sinh của bị hại thì lấy ngày đầu tiên của tháng đầu tiên của năm đó làm ngày sinh của bị hại.
Năm 1998, Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã xét xử vụ án trong đó Hội đồng xét xử phân vân không biết định tội danh nào đối với hành vi của bị cáo. Tóm tắt vụ án cho thấy, Lâm Thị T là trẻ
em sống mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Ngày 05/10/1997, Trần Văn H, 27 tuổi, đã dụ T ra vườn và thực hiện hành vi giao cấu. Đến khi T có thai thì cậu của T phát hiện và hỏi T mới biết rõ mọi chuyện. T bị khởi tố. Qua điều tra, cậu của T cho biết T sinh vào tháng 10/1984. Nếu xác định T sinh vào ngày 31 tháng 10 năm 1984 (theo cách xác định tuổi của bị cáo) thì khi bị giao cấu, T chưa đủ 13 tuổi và H phải bị truy cứu về “tội hiếp dâm trẻ em” (Điều 112a BLHS năm 1985, Điều 112 BLHS năm 1999). Nếu xác định theo hướng có lợi cho bị cáo, tức là lấy ngày đầu tháng để tính tuổi cho người bị hại, thì T được xác định sinh ngày 01/10/1984. Khi đó, T bị giao cấu lúc 13 tuổi 5 ngày và H bị truy cứu về “tội giao cấu với trẻ em” (Điều 114 BLHS năm 1985, Điều 115 BLHS năm 1999). Cuối cùng, các Thẩm phán đã quyết định áp dụng cách tính tuổi thứ hai và xét xử H về “tội giao cấu với trẻ em”. Tôi đồng ý với quan điểm này của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long.
Thực tiễn có một số ý kiến cho rằng, không nên tính tuổi theo hướng có lợi cho bị cáo trong trường hợp này. Nghĩa là, khi đã làm hết cách mà không xác định được ngày tháng sinh của người bị hại thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của năm sinh. Nếu theo cách này, trong vụ án trên, H phải bị truy cứu về “tội hiếp dâm trẻ em”, hình phạt nặng hơn rất nhiều so với “tội giao cấu với trẻ em”. Tôi không đồng ý với quan điểm này. Theo nguyên tắc của tố tụng hình sự cũng như các văn bản có liên quan đến việc xác định tuổi của bị cáo bao giờ cũng theo hướng có lợi cho bị cáo. Điều này là hợp lý, bởi nếu ta xác định theo hướng bất lợi cho bị cáo thì quyền lợi của người bị hại vẫn không đổi. Nghĩa là, trong vụ án trên, dù bị cáo bị truy tố về “tội hiếp dâm trẻ em” hay “tội giao cấu với trẻ em” thì các thiệt hại về vật chất và tinh thần của người bị hại bị cáo cũng phải bồi thường như nhau. Thế tại sao chúng ta không làm lợi cho bị cáo. Xét ở nguyên tắc tố tụng, khi tính tuổi cho bị cáo thì theo hướng có lợi cho bị cáo, cho nên khi xác định tuổi cho người bị hại cũng phải theo hướng có lợi cho bị cáo. Chúng ta không thể chấp nhận một nguyên tắc mà khi này thì theo hướng có lợi cho bị cáo, khi khác thì theo hướng bất lợi cho bị cáo.
4 Cũng áp dụng để tính tuổi đối với người bị hại là người chưa thành niên.
@Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân:
Giết người đang thi hành công vụ là trường hợp giết người mà nạn nhân là người đang thi hành công vụ. Người đang thi hành công vụ có thể đang thực hiện một công việc đương nhiên theo quy định của nghề nghiệp (chiến sĩ công an đang làm nhiệm vụ, thầy thuốc đang chữa bệnh, thầy giáo đang giảng bài...), cũng có thể là người tình nguyện đang tham gia bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nạn nhân bị chết phải là đang làm nhiệm vụ và nhiệm vụ đó phải hợp pháp thì tình tiết “giết người đang thi hành công vụ” mới được viện dẫn.
Giết người vì lý do công vụ của nạn nhân là trường hợp giết người mà động cơ của hành vi giết người gắn liền với việc thi hành công vụ của nạn nhân: giết nạn nhân để không cho nạn nhân thi hành công vụ hay giết nạn nhân để trả thù việc nạn nhân đã thi hành công vụ. Trường hợp này, người phạm tội giết nạn nhân không phải đang thi hành công vụ mà có thể trước hoặc sau khi thi hành công vụ.
Công vụ ở đây được hiểu là những công việc mà việc thực hiện những công việc đó đòi hỏi người thi hành công vụ phải có những quyền hành nhất định với những công dân khác. Tính nguy hiểm của hành vi giết người này là ở chỗ nó không chỉ xâm phạm đến tính mạng của con người mà đồng thời còn xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự công cộng, cản trở đến hoạt động chung của xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an.
@Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình:
- Giết ông, bà: có thể là ông bà nội hay ông, bà ngoại của người phạm tội;
- Giết cha, mẹ: cha mẹ ruột hay cha mẹ nuôi, cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng của người có hành vi phạm tội; người nuôi dưỡng là người có công chăm nuôi, giáo dục và dạy dỗ người phạm tội như cô, chú, cậu, mợ ... nuôi cháu.
- Thầy cô giáo của mình: là những người đã hoặc đang dạy dỗ mình theo quy định của Luật giáo dục và việc giết người đó phải xuất phát từ mối quan hệ tình thầy trò. Nếu người phạm tội giết thầy, cô vì một động cơ khác ngoài mối quan hệ thầy trò trò không áp dụng tình tiết này.
Ví dụ, Trần Quang T là sinh viên một trường Đại học X. Do có mâu thuẫn với Nguyễn Đăng K là giảng viên của trường vì T và K đều yêu Phan Cẩm H - là học viên cùng lớp với T. Vì K là giảng viên trẻ được trường giữ lại và không có dạy T giờ nào ở lớp. Để ngăn cản K yêu H nên T gây chuyện và giết chết K. Trong trường hợp này thì T đã giết chết K nhưng T không phạm tội thuộc vào điểm đ khoản 1 điều 93 Bộ luật hình sự.
@Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác: đây là trường hợp giết người mà liền trước hoặc ngay sau hành vi giết người, kẻ giết người đã phạm thêm một hoặc nhiều tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng khác. Với việc liên tiếp phạm tội như vậy chứng tỏ kẻ phạm tội là phần tử nguy hiểm, có ý thức phạm tội sâu sắc. Điều đó làm tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội giết người, cũng như phản ánh khả năng khó cải tạo, giáo dục người phạm tội. Không có văn bản xác định như thế nào là “liền trước” hoặc “liền sau”. Tuy nhiên, theo thực tiễn xét xử, “liền trước” hoặc “liền sau” được xác định là trong khoảng thời gian vài giờ hoặc hai hành vi được thực hiện trong ngày. Nếu thời gian dài hơn thì không áp dụng tình tiết này.
@Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác:
- Giết người để thực hiện tội phạm khác là những trường hợp giết người mà động cơ thúc đẩy người phạm tội có hành vi giết người là việc thực hiện một tội phạm khác (Ví dụ, muốn trốn khỏi nơi giam nên đã giết người canh gác). Tội phạm khác là bất kỳ tội phạm nào được quy định trong Bộ luật hình sự. Khác với tình tiết “giết người mà liền sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” ở chỗ: thời gian giết người và sau đó phạm tội khác có thể có khoảng thời gian dài nhất định; vả lại, hành vi giết người có mối quan hệ mật thiết với và là tiền đề của “tội phạm khác”.
- Giết người để che giấu một tội phạm khác đã thực hiện nên mới giết người (ví dụ, muốn che giấu tội trộm cắp mà mình đã thực hiện có nguy cơ bị lộ nên đã giết người để bịt đầu mối).
Giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong thời đại hiện nay, một số bộ phận trong cơ thể con người có thể cấy, ghép, thay thế được như gan, tim, thận, mắt... Do nhu cầu cần thay thế thì nhiều mà các bộ phận cơ thể để thay thế thì rất hạn chế, một số người có rất nhiều tiền nhưng không thể mua được các bộ phận cơ thể để thay thế, do đó không loại trừ khả năng giết người chỉ để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. Trong những trường hợp này thường có sự thông đồng với bác sĩ phẫu thuật. Hiện nay, ở nước ta chưa xảy ra hành vi này nhưng trên thế giới đã có xảy ra nên Bộ luật hình sự 1999 đã dự liệu. Cần xác định rằng, nếu người phạm tội giết người không phải vì lý do để lấy các bộ phận cơ thể của người đó, song vì quá căm tức nên đã lấy bộ phận cơ thể người đó ném đi hoặc cho thú ăn...thì không áp dụng tình tiết này.
@Thực hiện tội phạm một cách man rợ: là trường hợp giết người một cách đặc biệt tàn ác, dã man làm cho nạn nhân đau đớn rất nhiều trước khi chết (giết bằng cách hành hạ, tra tấn cho đến chết...); hoặc gây ra cho người khác sự khủng khiếp, rùng rợn vì căm tức nạn nhân hay nhằm che giấu tội phạm (sau khi giết người chặt rời chân, tay, đầu nạn nhân ra thành từng mảng và vứt ở những nơi khác nhau).
Đây là trường hợp giết người một cách đặc biệt tàn ác, dã man, làm cho nạn nhân đau đớn, quằn quại trước khi chết như: mổ bụng, môi gan, khoét mắt, chặt chân tay, xẻo thịt, lột da, tra tấn cho tới chết,... hoặc gây cho người khác sự khủng khiếp, rùng rợn vì căm tức nạn nhân hay nhằm che giấu tội phạm như: chặt rời chân tay, đầu nạn nhân ra thành từng mảng và vứt ra ở những nơi khác nhau. Các hành vi trên người phạm tội thực hiện trước khi phạm tội hoàn thành, tức là trước khi nạn nhân bị chết.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng đã coi các hành vi nêu trên là những hành vi có tính man rợ, nhưng không phải là thực hiện tội phạm mà là để che giấu tội phạm, là trường hợp “thực hiện tội phạm một cách man rợ”. Ví dụ, sau khi nạn nhân đã chết, người phạm tội cắt xác nạn nhân ra thành nhiều phần đem vứt ra khắp nơi để phi tang.
Đây là vấn đề lý luận cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nếu coi cả những hành vi có tính chất man rợ nhằm che giấu tội giết người cũng là “thực hiện tội phạm một cách man rợ” thì nên quy định trường hợp phạm tội này là “phạm tội một cách man rợ” vì phạm tội bao hàm cả hành vi che giấu tội phạm, còn thực hiện tội phạm mới chỉ mô tả những hành vi khách quan và ý thức chủ quan của cấu thành tội giết người.
@Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp: là trường hợp người phạm tội bằng cách lợi dụng nghề nghiệp của mình để có thể dễ dàng thực hiện hoặc che giấu hành vi giết người. Ví dụ, bác sĩ lợi dụng nghề nghiệp để giết người là bệnh nhân của mình, bảo vệ bắn chết người khác rồi vu cho là kẻ cướp...
@Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người: là trường hợp người phạm tội đã sử dụng những công cụ, phương tiện cũng như những thủ đoạn phạm tội mà những công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội này đặt trong hoàn cảnh cụ thể có khả năng làm chết nhiều người (Ví dụ, ném lựu đạn vào chỗ đông người, bỏ thuốc độc vào bể nước...để giết người mà người phạm tội muốn giết. Hậu quả xảy ra có thể là chết người mà người phạm tội mong muốn nhưng cũng có thể là người khác.
@Thuê giết người hoặc giết người thuê:
- Thuê người giết: là trường hợp người phạm tội trả cho người khác một khoản tiền hay lợi ích vật chất khác để người này giết người mà người phạm tội mong muốn.
- Giết người thuê: là trường hợp người phạm tội nhận tiền hoặc một khoản lợi ích vật chất khác để giết người theo ý muốn của người khác này.
Trước đây, những hành vi phạm tội thuê giết người hoặc giết người thuê bị coi là phạm tội có động cơ đê hèn, nhưng nay, Bộ luật hình sự 1999 quy định hành vi này nên chúng ta không coi trường hợp này là giết người có động cơ đê hèn nữa mà chỉ coi là trường hợp thuê giết người hoặc giết người thuê.
Thông thường, thuê giết người hoặc giết người thuê được xem là trường hợp giết người có tổ chức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, hành vi này chỉ xem là đồng phạm bình thường.
@Giết người có tính chất côn đồ: là trường hợp phạm tội mà tất cả các tình tiết của vụ án thể hiện người phạm tội là người có tính hung hãn cao độ, rất coi thường tính mạng của người khác mà sẵn sàng giết người vì những nguyên cớ nhỏ nhặt.
Ví dụ, Đặng Quang H đi xe khách, vì y hút thuốc lá trên xe nên mọi người rất khó chịu. Trần Minh T thấy thế nên góp ý. Do có sẵn trong người máu côn đồ, xe vừa đến bến H xuống xe và rút dao đâm vào ngực T và làm cho T chết tại chỗ.
Việc xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ hay không không phải bao giờ cũng dễ dàng như những trường hợp khác được quy định tại khoản 1 điều 93 Bộ luật hình sự 1999. Thực tế công tác xét xử không ít trường hợp giết người không thuộc các trường hợp khác quy định trong điều luật này, thì Toà án thường xác định giết người có tính chất côn đồ để áp dụng khoản 1 điều 93 Bộ luật hình sự. Trong công tác xét xử, nhiều bản án đã bị kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm hoặc Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao sửa bản án sơ thẩm chỉ vì xác định không đúng tình tiết này. Đây cũng là vấn đề còn nhiều vướng mắc và phức tạp, đồng thời có nhiều ý kiến khác nhau. Việc tổng hợp kinh nghiệm xét xử về vấn đề này chưa đáp ứng tình trạng tội phạm xảy ra; vì thế ảnh hưởng không nhỏ đến việc áp dụng pháp luật.Do đó cần xác định trường hợp giết người có tính chất côn đồ cần phải có quan điểm xem xét
toàn diện, tránh xem xét một cách phiến diện như: chỉ quan tâm nhấn mạnh nhân thân người phạm tội hoặc chỉ nhấn mạnh đến địa điểm gây án, hay chỉ nhấn mạnh đến hành vi cụ thể gây ra cái chết cho nạn nhân, thái độ của người phạm tội khi gây án, nguyên nhân nào là nguyên nhân dẫn đến việc người phạm tội giết người…
@Giết người có tổ chức: là trường hợp đồng phạm giết người một cách chặt chẽ, ở hình thức có tổ chức, có sự sắp xếp, bàn bạc, thỏa thuận trước về việc giết người.
@Giết người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm: là những trường hợp phạm tội giết người mà người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích.
@Giết người vì động cơ đê hèn: là những trường hợp giết người mà tính chất của động cơ phạm tội đã làm mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm tăng lên một cách đáng kể so với những trường hợp bình thường khác. Qua tổng kết công tác xét xử, những hành vi giết người vì động cơ sau đây sẽ bị xem là động cơ đê hèn:
- Giết vợ hoặc chồng để tự do lấy vợ hoặc chồng khác;
- Giết vợ hoặc chồng để lấy chồng hoặc vợ nạn nhân;
- Giết người tình mà biết là có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm;
- Giết chủ nợ để trốn nợ;
- Giết người để cướp tài sản;
- Giết ân nhân của mình…
+ Những trường hợp giết người không thuộc khoản 1 thì sẽ rơi vào khoản 2 Điều 93 và có thể bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.
Người phạm tội này có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; quản chế hoặc cấm cư trú từ 1 đến 5 năm.
Chúng tôi trên mạng xã hội