b. Dấu hiệu pháp lý
- Khách thể: tội phạm này xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người phụ nữ. Ngoài ra, tội phạm này còn gây khủng hoảng tinh thần của nạn nhân và trong một số trường hợp, ảnh hưởng đến sức khoẻ của nạn nhân.
- Mặt khách quan:
Đây là tội phạm có cấu thành hình thức, tội phạm có kết cấu bởi một trong các dạng hành vi sau đây:
+ Dùng vũ lực: dùng sức mạnh vật chất đè bẹp sự kháng cự của nạn nhân chống lại việc giao cấu như xô ngã, bóp cổ, giữ, vật lộn, bịt miệng, đánh...nạn nhân. Những hành vi đó nhằm làm tê liệt sự kháng cự của nạn nhân để người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu. Trong thực tế, nếu người phạm tội đã dùng vũ lực làm cho nạn nhân bất tỉnh và giao cấu, đồng thời sau đó để nạn nhân chết (dù không có hành vi dùng vũ lực tiếp theo), người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự thêm về tội giết người. Tương tự như vậy, nếu bằng mọi cách để giao cấu mà người phạm tội đã giết chết nạn nhân rồi sau đó giao cấu với nạn nhân thì người phạm tội sẽ bị truy cứu thêm tội giết người.
+ Đe doạ dùng vũ lực: người phạm tội chưa thực hiện những hành vi dùng vũ lực, chưa có bất kỳ một sự tác động vật chất nào lên người nạn nhân, mà thực hiện các hành vi đe doạ dùng vũ lực nhằm uy hiếp về mặt tinh thần. Sự uy hiếp này mang tính chất mạnh mẽ khiến cho người phụ nữ không dám chống cự, bị tê liệt ý chí và để người phạm tội giao cấu mình.
+ Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân: tình trạng này có thể có sẵn ở nạn nhân (nạn nhân bị bệnh động kinh, bệnh tâm thần) hoặc người thứ ba gây ra, hoặc do người phạm tội tạo ra (người phạm tội cho nạn nhân uống thuốc mê), hoặc do các nguyên nhân khách quan khác (nạn nhân bị say xỉn, bị bất tỉnh, bị ốm đau bệnh tật mà sức khoẻ yếu...).
+ Thủ đoạn khác: là những thủ đoạn ngoài những trường hợp đã phân tích trên đây, như: cho nạn nhân uống thuốc kích thích, lợi dụng sự kém hiểu biết của nạn nhân để dụ dỗ nạn nhân giao cấu. Đây là một quy định mở nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống có hiệu quả hành vi phạm tội hiếp dâm.
Dấu hiệu giao cấu trái ý muốn của nạn nhân là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Để xác định việc giao cấu có trái ý muốn của nạn nhân hay không, chúng ta cần xem xét nhiều yếu tố: mối quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân, thủ đoạn thực hiện tội phạm, hoàn cảnh thực hiện hành vi giao cấu, nhân thân của hai bên, ý kiến của những người xung quanh, hậu quả sau giao cấu để lại... v.v…
Tội phạm được hoàn thành khi can phạm thực hiện một trong số các hành vi khách quan nói trên. Nếu can phạm mới thực hiện được hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác nhằm giao cấu với nạn nhân nhưng chưa thực hiện được hành vi giao cấu thì được coi là phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, chỉ cần người phạm tội đã thực hiện hành vi đưa dương vật của mình vào âm hộ của nạn nhân, không cần việc giao cấu hoàn thành về mặt sinh lý thì tội phạm được coi như đã hoàn thành.
- Mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, người phạm tội biết hành vi giao cấu của mình là trái ý muốn của người phụ nữ hoặc không cần biết là nạn nhân có đồng ý hay không nhưng vẫn mong muốn thực hiện được hành vi giao cấu bằng một trong những thủ đoạn nói trên.
Nên nhớ rằng, đối với tội hiếp dâm, việc dùng vũ lực phải bao hàm mục đích giao cấu trái ý muốn với họ. Thực tế, có một số trường hợp, vì một lý do nào đó mà người phạm tội giết chết nạn nhân. Sau đó, thấy thân thể nạn nhân vẫn còn hấp dẫn nên đã tiến hành giao cấu với nạn nhân đã chết và người phạm tội biết điều đó thì không phải là tội hiếp dâm. Trong trường hợp đó, có thể truy cứu người phạm tội về tội xâm phạm thi thể (Điều 246).
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt. Người thực hiện hành vi phạm tội này là nam giới. Nữ giới chỉ có thể tham gia trong trường hợp đồng phạm tội hiếp dâm với vai trò là người xúi giục, giúp sức hay tổ chức. Tuy nhiên, nam từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2,3,4 Điều này.
c. Hình phạt chia làm 4 khung:
- Khung 1: hiếp dâm một người từ đủ 18 tuổi trở lên, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm. Trong trường hợp này, Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định, phải có đơn yêu cầu của người bị hại thì người phạm tội mới bị khởi tố. Tuy nhiên, trong những trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát vẫn quyết định truy tố người phạm tội.
+ Khung 2: hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người phạm tội có thể bị hoặc phạt tù từ 5 năm đến 10 năm. Tuy nhiên, nếu phạm tội đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng lại thuộc trường hợp nói tại khung 3 hoặc 4 thì xét xử theo các khung đó. Việc xác định tuổi của nạn nhân là mang tính khách quan, không phụ thuộc vào thái độ tâm lý của người phạm tội (không cần biết người phạm tội có biết được điều đó hay không).
+ Khung 3: hiếp dâm thuộc một trong các trường hợp sau, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:
@Phạm tội có tổ chức;
@Phạm tội đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
Ví dụ, cha ghẻ hiếp dâm con của vợ, thầy hiếp dâm trò, bác sĩ hiếp dâm bệnh nhân...Khi xem xét tình tiết này, chúng ta cần xác định rõ là người phạm tội phải vì lợi dụng quan hệ chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh để hiếp dâm. Nếu hành vi hiếp dâm không liên quan đến một trong các quan hệ đó thì không áp dụng tình tiết này.
@Nhiều người hiếp dâm một người.
Đây là trường hợp có từ hai người trở lên tiến hành giao cấu với một người. Nếu có nhiều người nhưng chỉ có một người giao cấu, những người còn lại chỉ là đồng phạm giúp sức, tổ chức…thì không áp dụng tình tiết này. Nếu có thể thì áp dụng tình tiết “phạm tội có tổ chức”.
@Phạm tội nhiều lần.
Đây là trường hợp người phạm tội giao cấu với cùng một nạn nhân từ hai lần trở lên;
@ Phạm tội đối với nhiều người.
Đây là trường hợp người phạm tội (có thể có nhiều người cùng phạm tội) hiếp dâm từ hai người trở lên.
@Phạm tội có tính chất loạn luân.
Loạn luân thể hiện ở chỗ, giữa người phạm tội và nạn nhân có cùng dòng máu trực hệ (cha với con, ông với cháu, anh với em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha).
@ Hiếp dâm làm nạn nhân có thai.
@Hiếp dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
Về bản chất, việc gây ra tỷ lệ thương tật này phải do hành vi hiếp dâm mà ra. Nếu tỷ lệ thương tật là do dùng vũ lực một cách cố ý thì phải truy cứu thêm về tội cố ý gây thương tích. Tuy nhiên, thực tiễn chỉ truy cứu về tội hiếp dâm với tình tiết định khung này dù việc gây ra tỷ lệ thương tật là do cố ý hay vô ý.
@Hiếp dâm thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.
Đây là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý chưa được xoá án tích hoặc đã tái phạm chưa được xoá án tích mà còn phạm tội hiếp dâm.
- Khung 4: hiếp dâm thuộc một trong các trường hợp sau, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân:
@ Hiếp dâm gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.
@ Biết mình nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
Đây là tình tiết thuộc yếu tố chủ quan, vì thế, để áp dụng tình tiết này, chúng ta cần xác định người phạm tội đã biết mình bị nhiễm HIV mà còn hiếp dâm. Nếu người phạm tội không biết mình nhiễm HIV và đã hiếp dâm khiến nạn nhân bị nhiễm HIV thì không áp dụng tình tiết này. Chỉ cần người phạm tội biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn hiếp dâm, bất kể nạn nhân có bị nhiễm HIV hay không, chúng ta vẫn có thể áp dụng tình tiết này đối với người phạm tội.
@ Hiếp dâm làm nạn nhân chết.
Nạn nhân trong trường hợp này chết là do bị hiếp dâm và hậu quả chết là nằm ngoài ý thức của người phạm tội. Nếu người phạm tội vì sợ lộ mà giết nạn nhân hay vẫn cứ giao cấu dù biết rằng nạn nhân sắp chết (để mặc hậu quả chết người) thì người phạm tội phải bị truy cứu thêm tội giết người.
@Hiếp dâm làm nạn nhân tự sát.
Đây là trường hợp nạn nhân vì bị hiếp dâm nên đã tự sát. Đa số nạn nhân của tội hiếp dâm là phụ nữ chưa chồng. Đối với người phụ nữ Á Đông, chữ “trinh” là rất quan trọng. Vì vậy, một khi đã bị hiếp dâm, họ cảm thấy mình mất tất cả, khủng hoảng tâm lý nặng nề. Nếu nạn nhân không có tâm lý vững vàng sẽ dễ dẫn đến tự sát. Chỉ cần nạn nhân có hành vi tự sát, bất kể có chết hay không, người phạm tội vẫn bị áp dụng tình tiết này.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Chúng tôi trên mạng xã hội