Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hoá

Thứ sáu - 14/11/2025 09:06
Khi một hợp đồng mua bán hàng hóa bị vi phạm, xuất phát từ các lý do, như: giao hàng chậm trễ, sai chất lượng, hoặc không thanh toán,... thì chế tài bồi thường thiệt hại là quyền pháp lý cơ bản của bên bị vi phạm. Chế tài này là nghĩa vụ chứng minh thiệt hại thực tế, bao gồm tổn thất trực tiếp và khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ, cũng như mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi vi phạm và thiệt hại đó, nhằm khôi phục nguyên trạng lợi ích kinh tế cho bên bị vi phạm. Bài viết dưới đây sẽ tập trung phân tích bồi thường thiệt hại trong mua bán hàng hoá thuộc lĩnh vực thương mại.
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Mục lục

1. Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hoá là gì?

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 302 thì định nghĩa bồi thường thiệt hại trong hoạt động mua bán hàng hoá, như sau:

"Điều 302. Bồi thường thiệt hại

1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm."

- Ngoài ra, theo quy định tại Điều 13 Bộ luật Dân sự 2015 thì định nghĩa về bồi thường thiệt hại như sau:

"Điều 13. Bồi thường thiệt hại

Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác."

Từ các quy định trên thì có thể hiểu bồi thường thiệt hại trong hoạt động mua bán hàng hóa là việc bên vi phạm hợp đồng phải trả một khoản tiền để bù đắp những tổn thất vật chất thực tế mà bên bị vi phạm phải gánh chịu do hành vi vi phạm đó gây ra. Đây là một chế tài nhằm mục đích bù đắp các thiệt hại về kinh tế, đưa bên bị vi phạm trở lại tình trạng mà lẽ ra họ đã có nếu hợp đồng được thực hiện đúng.

>> Tham khảo thêm: Tư vấn pháp luật ủy thác mua bán hàng hóa

2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hoá

- Bồi thường thiệt hại là một chế tài do luật định.

+ Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định, tự động phát sinh theo quy định của pháp luật khi có vi phạm. Nguyên tắc này không chỉ xuất hiện trong hoạt động mua bán hàng hoá thuộc lĩnh vực thương mại mà bất cứ khi nào người gây thiệt hại cho người khác thì phải có trách nhiệm bồi thường. Có thể thấy, nó còn xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực khác trong đời sống như hành chính, hình sự và dân sự khi người bị vi phạm yêu cầu.

+ Theo quy định tại Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015, như sau:

"Điều 360. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ

Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác."

Quy định này đặt ra nghĩa vụ pháp lý áp dụng cho các loại hợp đồng, trong đó bao gồm cả hợp đồng mua bán hàng hoá. Điều luật này đã cho thấy bồi thường thiệt hại là một chế định pháp lý được luật định, khi nào xuất hiện vi phạm gây tổn thất thì phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại.

- Bồi thường thiệt hại mang tính chất về tài sản

+ Mục đích của chế tài bồi thường thiệt hại không phải là trừng phạt hay răn đe như phạt vi phạm mà hướng tới khôi phục tình trạng tài sản của bên bị vi phạm. Hoặc có thể nói, chế tài này được áp dụng nhằm bù đắp những tổn thất, những mất mát về vật chất, như: tiền bạc, hàng hoá, chí phí thất thoát,... do hành vi vi phạm gây ra.

+ Cách thức bồi thường thiệt hại thường lại bằng tiền hoặc các tài sản khác.

- Bên bị vi phạm có quyền lựa chọn và áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.

+ Bên bị vi phạm có quyền lựa chọn và áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại hoặc không áp dụng chế tài này. Điều này xuất phát từ việc họ có quyền yêu cầu, chứ không phải là nghĩa vụ bắt buộc của họ.

+ Quy định trong Luật Thương mại, cũng như Bộ luật Dân sự quy định bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Pháp luật trao cho bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, còn việc họ có sử dụng hay không thì đó là lựa chọn và không thể bị bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào ép buộc phải thực hiện.

- Chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng để khôi phục, bù đắp những tổn thất về lợi ích vật chất.

+ Chế tài bồi thường thiệt hại tập trung vào những thiệt hại có thể cân, đo, đong, đếm được, như:

• Tổn thất trực tiếp: Giá trị lô hàng bị hỏng, chi phí sửa chữa máy móc...

• Khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ: Đây cũng là một lợi ích vật chất (tiền) mà đáng lẽ doanh nghiệp đã nhận được.

+ Nếu có hành vi vi phạm hợp đồng, nhưng bên bị vi phạm không chứng minh được là mình bị tổn thất vật chất (không mất tiền, không hỏng hàng, không mất lợi nhuận...), thì cơ quan tài phán sẽ không chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại.

3. Điều kiện áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp dồng mua bán hàng hoá

Theo quy định tại Điều 303 Luật Thương mại 2005 thì căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, như sau:

"Điều 303. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:

1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;

2. Có thiệt hại thực tế;

3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại."

Việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa phụ thuộc vào việc bên bị vi phạm đáp ứng đầy đủ các điều kiện do luật định. Theo đó, bắt buộc phải chứng minh được ba yếu tố: có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế xảy ra, và tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại đó:

- Có hành vi vi phạm hợp đồng.

Hành vi vi phạm hợp đồng dẫn tới áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại là hành vi không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết, mà hành vi đó trực tiếp gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm.

- Có thiệt hại thực tế. Thiệt hại đó có thể là tổn thất về vật chất cụ thể, khoản lợi nhuận không nhận được,... do có hành vi vi phạm gây ra. Biểu hiện:

+ Giá trị tài sản bị mất mát, hư hỏng: Bên vận chuyển làm hỏng lô hàng trị giá 100 triệu đồng. 100 triệu đồng này là tổn thất vật chất trực tiếp.

+ Chi phí để hạn chế thiệt hại xảy ra: Do hàng bị hỏng, bên mua phải bỏ ra 5 triệu đồng chi phí thuê kho lạnh khẩn cấp để bảo quản phần còn lại. 5 triệu đồng này là thiệt hại trực tiếp.

+ Chi phí khắc phục hậu quả: Bên bán giao máy móc sai quy cách. Bên mua phải bỏ ra 20 triệu đồng để thuê kỹ sư sửa chữa lại cho đúng. 20 triệu đồng này là thiệt hại trực tiếp.

- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế xảy ra.

+ Thiệt hại phải là hậu quả ngay sau hành vi vi phạm. Hành vi vi phạm là nguyên nhân gây ra thiệt hại.

+ Thiệt hại xảy ra do một nguyên nhân khác, như do lỗi của chính bên bị thiệt hại, do sự kiện bất khả kháng, hoặc do một yếu tố bên ngoài không liên quan,... thì bên vi phạm sẽ không phải bồi thường cho thiệt hại đó. Vì trong trường hợp này thiệt hại xảy ra không xuất phát trực tiếp từ hành vi vi phạm của bên vi phạm.

>> Tham khảo thêm: Giải quyết tranh chấp mua bán hàng hóa


Chuyên đề trên đây là chia sẻ của chúng tôi về vấn đề Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hoá nhằm hỗ trợ người đọc có thêm kiến thức về pháp luật, không nhằm mục đích thương mại. Các thông tin trong chuyên đề Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hoá chỉ là quan điểm cá nhân người viết, người đọc chỉ tham khảo. Chúng tôi đề nghị Quý Khách hàng nên tham khảo ý kiến chuyên môn từ Luật sư của chúng tôi đối với các vấn đề cụ thể. Các yêu cầu giải đáp thắc mắc hãy liên hệ trực tiếp với Văn phòng của chúng tôi theo địa chỉ phía trên hoặc liên hệ qua Hotline: 0978845617, Email: info@luatsuhcm.com.

Tác giả: Thảo Phan Kim

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây