- Khách quan:
Người phạm tội có hành vi gây rối trật tự công cộng. Hành vi gây rối có thể là tập trung đông người gây náo động, đuổi đánh nhau, hò hét, đập phá các công trình công cộng, ở những nơi ăn uống, vui chơi, giải trí, đốt pháo…v.v…
Trên thực tế, nếu người có hành vi gây rối trật tự công cộng nhưng đã đủ yếu tố cấu thành
một tội phạm khác thì người có hành vi gây rối chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương
ứng đó. Ví dụ, trước hoặc sau khi có hành vi gây rối mà có hành vi giết người, cố ý gây thương tích
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì sẽ bị truy cứu về các tội phạm tương ứng đó. Một người chỉ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này khi hành vi gây rối mà chưa đến mức cấu thành một tội phạm
cụ thể nào khác.
Hành vi này cấu thành tội phạm khi đã gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội phạm này mà còn vi phạm.
Theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP (17/4/2003) hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự, hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là “gây hậu quả nghiêm trọng” và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật Hình sự:
a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
b. Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;
d. Chết người;
đ. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;
e. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;
g. Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;
h. Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội...Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phải là nghiêm trọng hay không.
- Chủ quan: là lỗi cố ý (trực hoặc gián tiếp). Động cơ, mục đích không là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
- Chủ thể: bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định.
b. Hình phạt chia làm 2 khung:
Khung 1: phạm tội này, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 10 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 2 năm, phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm.
- Khung 2: gây rối trật tự công cộng thuộc một trong các trường hợp sau, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:
+ Có dùng vũ khí hoặc hành vi phá phách.
Có dùng vũ khí là trường hợp người phạm tội có mang theo (sử dụng hoặc không sử dụng) vũ khí quân dụng hoặc vũ khí thô sơ. Hành vi phá phách thể hiện ở chỗ đập phá bàn ghế, đồ vật, cửa hiệu, nhà hàng. Nếu hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản thì bị truy cứu về tội phạm quy định tại Điều 143 (huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản) mà không bị truy cứu về tội phạm này.
+ Có tổ chức.
+ Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng.
Theo Nghị quyết trên, đây là trường hợp gây cản trở giao thông từ 2 giờ trở lên hoặc gây cản trở giao thông ở những tuyến giao thông quan trọng, làm ách tắc giao thông trên diện rộng (không phân biệt thời gian bao lâu).
+ Xúi giục người khác gây rối.
+ Hành hung người can thiệp bảo vệ công cộng.
Hành hung là hành dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc bất kỳ thủ đoạn khác nhằm vào “người can thiệp” để người này không thể “can thiệp” mình gây rối trật tự công cộng, nhưng chưa gây ra hậu quả thương tích đến mức cấu thành tội phạm. Người can thiệp bảo vệ công cộng là bất kỳ ai đến khuyên can, góp ý kiến, giải thích…để người phạm tội dừng lại hành vi gây rối. Nếu “người can thiệp” là người thi hành công vụ thì người phạm tội còn bị truy cứu thêm tội độc lập (Điều 257).
+ Tái phạm nguy hiểm.
Điều luật không quy định trường hợp hành vi gây rối trật tự công cộng gây ra hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì xử lý thế nào. Như vậy, dù người gây rối trật tự công cộng có gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cũng chỉ bị xét xử theo khoản 2 Điều này.
Chúng tôi trên mạng xã hội