b. Dấu hiệu pháp lý
- Khách thể: tội phạm này xâm phạm chế độ nghĩa vụ quân sự do Nhà nước quy định. Đối tượng tác động của tội phạm này chính là hành vi của người phạm tội. Người phạm tội tự tác động lên hành vi của mình, khiến cho hành vi của mình vi phạm các quy định về nghĩa vụ quân sự của mọi công dân.
- Khách quan:
Người phạm tội có hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Có lệnh tổng động viên;
+ Lệnh động viên cục bộ;
+ Có chiến tranh;
+ Có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội để chiến đấu bảo vệ địa phương, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Lệnh gọi này chỉ xảy ra trong những trường hợp nói trên, bởi vì đây là “quân nhân dự bị” nên thời bình hoặc không có nhu cầu thì không cần đến. Quân nhân dự bị theo Luật nghĩa vụ quân sự là nam từ 18 - 45 tuổi, nữ từ 18 - 40 tuổi.
Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội có hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ trong những tường hợp nêu trên.
Tương tự hành vi “trốn tránh nghĩa vụ quân sự” nếu hành vi “không chấp hành…” thực hiện trước khi địa phương giao quân cho đơn vị quân đội tiếp nhận thì mới cấu thành tội phạm này. Nếu hành vi này xảy ra sau đó thì cấu tội đào ngũ.
- Chủ quan: là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội thực hiện một trong số các hành vi trên khi nhận thức được rằng mình đang không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và mong muốn mình không bị nhập ngũ.
- Chủ thể: là công dân Việt Nam, nam từ đủ 18 tuổi đến hết 45 tuổi, nữ đến hết 40 tuổi (ngạch quân nhân dự bị).
c. Hình phạt chia làm 2 khung:
- Khung 1: không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ không có tình tiết định khung tăng nặng, người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
- Khung 1: không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ thuộc một trong các trường hợp sau, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:
+ Tự gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của mình.
+ Lôi kéo người khác phạm tội.
Hai tình tiết định khung này vừa đã được phân tích rồi.
Chúng tôi trên mạng xã hội