1. Khi nào thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế?
Từ các quy định tại Điều 87, 88 và 89 của Luật Đất đai 2024, cơ quan có thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế trong các trường hợp sau:
a. Cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc
Theo quy định tại Điều 88 của luật đất đai 2024, Chủ tịch UBND cấp huyện ra quyết định cưỡng chế trong trường hợp:
- Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định kiểm đếm bắt buộc sau khi đã được vận động, thuyết phục bởi UBND cấp xã, Mặt trận Tổ quốc cấp xã và đơn vị thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
- Quyết định cưỡng chế đã niêm yết công khai, có hiệu lực, và người bị cưỡng chế đã nhận được hoặc bị lập biên bản do không nhận hoặc vắng mặt.
b. Cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất
Theo quy định tại Điều 89 của luật đất đai 2024, Chủ tịch UBND cấp huyện ra quyết định cưỡng chế trong trường hợp:
“2. Việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành mà người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và cơ quan có chức năng quản lý đất đai hoặc đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã vận động, thuyết phục;
b) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi;
c) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi hành;
d) Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất có hiệu lực thi hành.
Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận quyết định cưỡng chế hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên bản.”
Như vậy, Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế khi đã có quyết định kiểm đếm bắt buộc hoặc quyết định thu hồi đất có hiệu lực mà người có đất thu hồi không chấp hành hoặc vận động, thuyết phục không thành công trong thời gian luật định, hay các điều kiện về niêm yết, thông báo và hiệu lực của quyết định cưỡng chế đã được đáp ứng.
2. Có được tự ý cưỡng chế khi chưa đồng ý bồi thường?
Theo quy định tại khoản 6 và khoản 7 Điều 87 Luật Đất đai 2024, trong trường hợp người có đất thu hồi không đồng ý hoặc không phối hợp thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, thì cơ quan nhà nước vẫn có thể tiến hành cưỡng chế thu hồi đất. Tuy nhiên, việc cưỡng chế chỉ được thực hiện khi đã hoàn tất đầy đủ các bước theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật.
Căn cứ quy định tại khoản 6 điều 87 luật Đất đai 2024 quy định như sau:
“6. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mà người có đất thu hồi không đồng ý hoặc không phối hợp thì thực hiện như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp xã chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vận động, thuyết phục để tạo sự đồng thuận trong thực hiện;
b) Việc tổ chức vận động, thuyết phục được tiến hành trong thời gian 10 ngày và phải được thể hiện bằng văn bản. Quá thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc vận động, thuyết phục mà người có đất thu hồi vẫn không đồng ý hoặc không phối hợp thực hiện thì Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất.”
Tại khoản 7 điều 87 luật Đất đai 2024 quy định liên quan đến ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế như sau:
“7. Trường hợp người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không bàn giao đất cho đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì thực hiện như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp xã chủ trì, phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bàn giao đất cho đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
b) Việc tổ chức vận động, thuyết phục được tiến hành trong thời gian 10 ngày và phải được thể hiện bằng văn bản. Quá thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc vận động, thuyết phục mà người có đất thu hồi vẫn không chấp hành việc bàn giao đất cho đơn vị, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại Điều 89 của Luật này.”
Cụ thể, trước khi ban hành quyết định cưỡng chế, Ủy ban nhân dân cấp xã phải chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và đơn vị thực hiện bồi thường để vận động, thuyết phục người có đất thu hồi đồng thuận thực hiện phương án bồi thường. Quá trình vận động này kéo dài 10 ngày, được thể hiện bằng văn bản, và chỉ khi hết thời hạn mà người dân vẫn không hợp tác thì mới được xem xét thực hiện bước tiếp theo.
Sau khi quá trình vận động, thuyết phục không đạt kết quả, Chủ tịch UBND cấp huyện mới được quyền ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định tại Điều 89 Luật Đất đai 2024. Việc cưỡng chế cũng phải đảm bảo về thành phần tham gia, thủ tục lập biên bản và các điều kiện thi hành cưỡng chế theo đúng quy định pháp luật.
Như vậy, việc cưỡng chế vẫn có thể được thực hiện dù người dân không đồng ý phương án bồi thường, nhưng chỉ khi đã hoàn tất đúng trình tự theo luật định. Mọi hành vi cưỡng chế không đúng quy định, chẳng hạn như cưỡng chế khi chưa vận động, chưa có quyết định của cơ quan có thẩm quyền đều là hành vi trái pháp luật và có thể bị xử lý theo quy định.
>> Tham khảo: Tư vấn về mức bồi thường khi nhà đất bị thu hồi ở tp.hcm
3. Trách nhiệm của người sử dụng đất và quy trình bồi thường khi thu hồi đất
a. Trách nhiệm phối hợp của người sử dụng đất
Theo khoản 3 Điều 85 Luật Đất đai 2024, người sử dụng đất có trách nhiệm phối hợp với cơ quan nhà nước và các tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Điều này bao gồm việc cung cấp thông tin về diện tích đất, tài sản gắn liền với đất để xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Việc không phối hợp trong các bước điều tra, khảo sát, đo đạc có thể dẫn đến quyết định kiểm đếm bắt buộc và thậm chí bị cưỡng chế nếu người sử dụng đất không tuân thủ yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
b. Quy trình bồi thường khi thu hồi đất
Điểm đ khoản 2 Điều 87 Luật Đất đai 2024 yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã và các tổ chức bồi thường phải vận động, thuyết phục người có đất thu hồi tham gia hợp tác trong việc kiểm đếm và lập phương án bồi thường. Điều này không chỉ giúp giảm bớt xung đột, mà còn đảm bảo rằng người dân có thể tham gia đầy đủ vào quá trình bồi thường, hỗ trợ. Nếu sau 15 ngày mà người dân vẫn không phối hợp, quyết định kiểm đếm bắt buộc sẽ được ban hành. Việc cưỡng chế sẽ chỉ xảy ra khi người có đất thu hồi vẫn không tuân thủ.
Điểm a khoản 3 Điều 87 Luật Đất đai 2024 quy định rằng phương án bồi thường phải được niêm yết và lấy ý kiến của người dân trước khi triển khai thực hiện. Việc này thể hiện rõ cam kết của Nhà nước trong việc đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong quá trình thu hồi đất. Người dân có quyền bày tỏ ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, và ý kiến của họ phải được tiếp thu và giải trình nếu có sự không đồng thuận.
Phương án bồi thường sẽ không thể thực hiện ngay lập tức mà cần phải qua quy trình thẩm định, đối thoại và công khai trước khi UBND cấp có thẩm quyền ra quyết định thu hồi đất. Điều này đảm bảo rằng các quyết định được thực hiện trên cơ sở sự đồng thuận của cộng đồng và người dân bị ảnh hưởng.
Quy trình đối thoại với người dân và giải trình ý kiến không đồng ý là bước quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người dân. Nếu có sự không đồng ý về phương án bồi thường, cơ quan nhà nước phải tiếp thu và giải trình những ý kiến đóng góp, đồng thời hoàn chỉnh phương án trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Quy định này thể hiện cam kết của Nhà nước trong việc tôn trọng quyền lợi của người dân, đồng thời tạo điều kiện để người dân có thể đóng góp ý kiến vào phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Điều này không chỉ giúp giảm thiểu xung đột mà còn giúp tăng cường sự hợp tác giữa cơ quan nhà nước và người dân trong các dự án thu hồi đất.
Việc thực hiện thu hồi đất không chỉ liên quan đến các quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, mà còn phải bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ trong việc bồi thường và tái định cư. Quá trình này được quy định rõ ràng trong Luật Đất đai 2024, yêu cầu cơ quan nhà nước phải tổ chức lấy ý kiến của người dân, đối thoại khi có ý kiến không đồng ý và thực hiện minh bạch, công bằng trong suốt quá trình bồi thường, hỗ trợ.
4. Khiếu nại quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế
Khi cho rằng quyết định thu hồi đất hoặc quyết định cưỡng chế thu hồi đất được ban hành không đúng thẩm quyền, không đúng trình tự thủ tục theo quy định pháp luật, xác định sai đối tượng, sai diện tích hoặc nội dung quyết định làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì người bị ảnh hưởng có quyền thực hiện khiếu nại để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét lại.
Tại Nghị định 102/2024 quy định về khiếu tại quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế tại điều 40:
“ Điều 40. Khiếu nại quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế
1. Người có đất thu hồi, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền khiếu nại về việc kiểm đếm bắt buộc, cưỡng chế thực hiện kiểm đếm bắt buộc, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
Trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp tục thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc, cưỡng chế thực hiện kiểm đếm bắt buộc, quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi đất là trái pháp luật thì phải dừng cưỡng chế nếu việc cưỡng chế chưa hoàn thành; hủy bỏ quyết định thu hồi đất đã ban hành và bồi thường thiệt hại do quyết định hành chính gây ra (nếu có).
2. Đối với trường hợp việc thu hồi đất có liên quan đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân khác trong việc sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn tiến hành kiểm đếm bắt buộc, cưỡng chế thực hiện kiểm đếm bắt buộc, thu hồi đất, cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất theo quy định mà không phải chờ cho đến khi giải quyết xong quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng đất giữa người có đất thu hồi và tổ chức, cá nhân đó theo quy định của pháp luật có liên quan.”
Như vậy, theo quy định tại Điều 40 Nghị định 102/2024, người có đất bị thu hồi và các cá nhân, tổ chức có liên quan có quyền khiếu nại quyết định thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất cũng như các quyết định kiểm đếm bắt buộc. Đây là quyền hợp pháp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng khi cho rằng quyết định hành chính được ban hành không đúng quy định, xâm phạm quyền sử dụng đất của mình.
Do đó, trong trường hợp người dân không đồng ý với quyết định thu hồi đất hoặc cưỡng chế, họ hoàn toàn có thể thực hiện thủ tục khiếu nại. Tuy nhiên, việc nộp đơn khiếu nại không làm tạm dừng hiệu lực của quyết định thu hồi hay cưỡng chế, nghĩa là các quyết định này vẫn tiếp tục được thực hiện trong khi chờ cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Vậy nên chỉ khi cơ quan giải quyết khiếu nại có kết luận xác định việc thu hồi đất là trái pháp luật thì mới dừng thực hiện cưỡng chế (nếu chưa hoàn thành), hủy bỏ quyết định thu hồi đất và bồi thường thiệt hại (nếu có). Đây là cơ chế pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa quyền lợi của người dân và yêu cầu triển khai dự án của Nhà nước.
Người bị ảnh hưởng cần cân nhắc việc khiếu nại sớm và cung cấp đầy đủ căn cứ chứng minh quyết định hành chính có vi phạm, đồng thời theo dõi tiến độ giải quyết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp một cách kịp thời.
Trong mọi trường hợp, quyền khiếu nại luôn được pháp luật bảo đảm, nhưng việc thu hồi và cưỡng chế vẫn được tiếp tục thực hiện theo kế hoạch của Nhà nước nếu chưa có kết luận sai phạm. Tranh chấp dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất giữa các bên thứ ba cũng không làm ảnh hưởng đến trình tự thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
>> Tham khảo: Luật sư giỏi giải quyết tranh chấp bồi thường giải tỏa ở
Chuyên đề trên đây là chia sẻ của chúng tôi về vấn đề “Có được tự ý cưỡng chế khi chưa đồng ý bồi thường?” nhằm hỗ trợ người đọc có thêm kiến thức về pháp luật, không nhằm mục đích thương mại. Các thông tin trong chuyên đề chỉ là quan điểm cá nhân người viết, người đọc chỉ tham khảo. Chúng tôi đề nghị Quý Khách hàng nên lắng nghe ý kiến chuyên môn từ Luật sư của chúng tôi đối với các vấn đề cụ thể. Các yêu cầu giải đáp thắc mắc hãy liên hệ trực tiếp với Văn phòng của chúng tôi qua Hotline: 0978845617, Email: info@luatsuhcm.com.
Chúng tôi trên mạng xã hội