Thừa kế thế vị của con nuôi với cha mẹ nuôi

Thứ ba - 08/04/2025 22:34
Theo quy định tại điều 652 Bộ luật Dân sự 2015 quy định nếu con của người để lại di sản mất trước/mất cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu của người để lại di sản được hưởng di sản thừa kế mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống. Trong trường hợp con nuôi với cha mẹ nuôi có được áp dụng quy định này để cho hưởng thừa kế hay không? hiểu và áp dụng như thế nào?
Thua ke the vi cua con nguoi
Thua ke the vi cua con nguoi
Mục lục

Quy định thừa kế thế vị giữa con nuôi và cha mẹ nuôi

Điều 653 BLDS 2015 quy định: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ Luật này”.
Theo quy định này thì con của người con nuôi vẫn được thừa kế thế vị khi người con nuôi đó chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với người cha nuôi, mẹ nuôi của người con nuôi đó. Tuy nhiên, theo quy định trên thì có thể hiểu con nuôi của người con nuôi đó cũng được thế vị cha mẹ nuôi để hưởng di sản của người nhận nuôi cha nuôi, mẹ nuôi của mình do Điều 652 BLDS chỉ quy định là “con” mà không xác định rõ là con đẻ hay con nuôi. 
Thực tế, giữa con nuôi của người con nuôi và người nhận nuôi cha nuôi, mẹ nuôi của người đó không có bất kỳ mối quan hệ huyết thống hay chăm sóc, nuôi dưỡng nào. Theo quy định tại điểm đ, mục 4 Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 02/HĐTP) hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế năm 1990 thì: "Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ người nuôi dưỡng và cũng không đương nhiên trở thành anh, chị, em của con đẻ của người nuôi", nên giữa con nuôi và cha mẹ đẻ của người nhận nuôi không có quan hệ thừa kế thế vị. Khi con nuôi chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với cha nuôi, mẹ nuôi thì con của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị hay không? Theo quy định tại điểm b, mục 5 Nghị quyết số 02/HĐTP nêu trên thì:
"Trong trường hợp con nuôi chết trước cha nuôi mẹ nuôi thì con của người con nuôi (tức cháu của cha nuôi, mẹ nuôi) được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha (hoặc mẹ) của cháu được hưởng nếu cha (hoặc mẹ) của cháu còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Nếu con của người con nuôi cũng chết trước người để lại di sản thì cháu của người con nuôi đó (tức chắt của cha nuôi, mẹ nuôi) được hưởng phần di sản mà đáng lẽ cha hoặc mẹ của chắt nếu còn sống được hưởng".
Hiện nay Nghị quyết này đã hết hiệu lực pháp luật, nhưng hướng dẫn này vẫn có thể được kết hợp với Điều 652 của BLDS 2015 để giải thích cho Điều 653 của Bộ luật này. Tuy nhiên, theo hướng dẫn này khái niệm “con” của người con nuôi cũng chưa được xác định rõ ràng nên có thể hiểu bao gồm cả con nuôi và con đẻ hay không dẫn đến vấn đề này hiện vẫn còn nhiều quan điểm, ý kiến trái chiều nhau.
Xuất phát từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn ta thấy rằng con đẻ của người con nuôi đương nhiên có quyền hưởng thừa kế thế vị. Khi một người nhận con nuôi đồng nghĩa với việc quan hệ cha, mẹ, con giữa họ và người con nuôi được xác lập. Giữa người con nuôi và cha nuôi mẹ nuôi có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha đẻ, mẹ đẻ với con ruột. Mối quan hệ đó không chỉ là quan hệ thực tế mà còn được ghi nhận bằng căn cứ pháp lý nhất định. Pháp luật quy định giữa người nhận con nuôi và người con nuôi được hưởng thừa kế nói chung và thừa kế thế vị của nhau nói riêng. Do đó, con đẻ của người con nuôi cũng được coi như cháu của người nhận nuôi cha mẹ mình. Nói khác đi thì giữa con đẻ của người con nuôi và người nhận nuôi con nuôi có mối quan hệ pháp lý như ông bà với cháu ruột. Mối quan hệ này tuy không được quy định cụ thể nhưng được hiểu gián tiếp qua mối quan hệ như cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ giữa người nhận nuôi và người con nuôi đã được pháp luật xác lập. Chính vì vậy giữa con đẻ của người con nuôi và người nhận nuôi con nuôi có quyền hưởng thừa kế của nhau. Con đẻ của người con nuôi có quyền thế vị cha, mẹ của mình để thừa kế di sản thừa kế của người nhận nuôi cha, mẹ mình. 
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa con nuôi của người con nuôi với người nhận nuôi con nuôi thì khác hẳn nên vấn đề thừa kế thế vị trong trường hợp này cần được xem xét. Con nuôi của người con nuôi chỉ có mối quan hệ với người nhận nuôi mình nên chỉ có thể thừa kế di sản của người này. Con nuôi của người con nuôi không có bất kỳ mối quan hệ pháp lý nào với các thành viên còn lại trong gia đình của người nhận nuôi mình. Điều này được quy định khá rõ trong Nghị quyết số 02/HĐTP “Con nuôi không đương nhiên trở thành cháu của cha mẹ người nuôi dưỡng".
Theo đó, con nuôi không có quan hệ pháp lý bắt buộc nào đối với người nhận nuôi của cha nuôi, mẹ nuôi mình dù mối quan hệ giữa cha nuôi, mẹ nuôi mình với người nhận nuôi họ được pháp luật thừa nhận như cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ.
Quan hệ giữa người con nuôi với cha nuôi, mẹ nuôi mình và quan hệ giữa cha nuôi, mẹ nuôi mình với người nhận nuôi cha mẹ nuôi mình là hai mối quan hệ độc lập nhau cả về mặt pháp lý cũng như thực tiễn. Người con nuôi không có nghĩa vụ coi người nhận nuôi cha nuôi, mẹ nuôi của mình là ông bà và ngược lại. Giữa họ không có quan hệ huyết thống hay quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, với những phân tích trên thì giữa con nuôi của người con nuôi với cha nuôi, mẹ nuôi của người con nuôi không thể có quan hệ thừa kế thế vị. Nhưng theo quy định pháp luật hiện hành đã phân tích ở trên thì khái niệm “con” của người con nuôi chưa được xác định rõ ràng nên có thể hiểu bao gồm cả con nuôi và con đẻ, dẫn đến nhiều quan điểm và cách áp dụng khác nhau.
Nếu thực tế giữa họ có mối quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng và muốn để lại di sản cho nhau thì có thể thực hiện bằng việc định đoạt trong di chúc. Điều này sẽ phù hợp hơn với lý luận cũng như thực tiễn cuộc sống, đảm bảo được bản chất cũng như triết lý về thừa kế thế vị trong pháp luật Việt Nam.
Do đó, đây là một quy định bất hợp lý, thiếu cơ sở, gây tranh cãi do có nhiều quan điểm khác nhau và gây khó khăn, lúng túng cho các Tòa án khi giải quyết các vụ việc liên quan, cần có hướng dẫn cụ thể về trường hợp này để có cách hiểu và áp dụng thống nhất. 
Một số bất cập và hướng hoàn thiện về thừa kế thế vị giữa con nuôi và cha mẹ nuôi

Về quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ

Vấn đề thừa kế thế vị liên quan đến con nuôi được quy định tại Điều 653 BLDS năm 2015:
“Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”.
Quy định này vẫn còn khá chung chung dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau như: Khi người con đẻ của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì người con nuôi của người con đẻ của người để lại di sản có được hưởng thừa kế thế vị hay không? Khi con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì con đẻ của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không? Người con nuôi của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản, thì con nuôi của người con nuôi đó có được hưởng thừa kế thế vị không? Có quan điểm cho rằng trường hợp không được thừa kế thế vị, trường hợp được thừa kế thế vị, còn trường hợp chỉ được thừa kế thế vị nếu người để lại di sản coi như cháu ruột.
Quy định trên còn cho thấy, nội dung chỉ thể hiện về quan hệ thừa kế giữa “con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi” mà không có nội dung nào quy định liên quan đến trường hợp của “cha đẻ, mẹ đẻ”. Tuy nhiên, tiêu đề của điều luật lại thể hiện là “Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ”. Như vậy, có thể thấy giữa tiêu đề và nội dung của điều luật đã không có sự thống nhất với nhau.

Hướng hoàn thiện quy định thừa kế thế vị

Trường hợp thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi. Có quan điểm cho rằng, “con nuôi của con đẻ không được thừa kế thế vị” và “chỉ có con đẻ thay thế vị trí của cha, mẹ đẻ”. Kể từ khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời, đến BLDS năm 2005 và nay là BLDS năm 2015 thì vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về trường hợp thừa kế thế vị có yếu tố con nuôi. Theo quy định tại Điều 652 BLDS năm 2015 thì: “… cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống…”. Quy định này chỉ đề cập đến “cha hoặc mẹ” của cháu chứ không có sự phân biệt là “cha đẻ hoặc mẹ đẻ với cha nuôi hoặc mẹ nuôi”, cho nên chúng ta có thể suy luận cả hai trường hợp này đều thuộc diện thừa kế thế vị. Sự suy luận này được củng cố thêm bởi quy định tại Điều 653 BLDS năm 2015, đó là: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 (thừa kế theo pháp luật) và Điều 652 (thừa kế thế vị) của Bộ luật này”. Hơn nữa, khi bàn đến “cháu”, nếu các nhà làm luật muốn giới hạn cháu được hưởng di sản như quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 651 BLDS năm 2015 về hàng thừa kế thứ hai và thứ ba, thì các nhà làm luật sẽ nêu rõ là “cháu ruột”. Tuy nhiên, khi quy định về thừa kế thế vị các nhà làm luật chỉ đề cập đến “cháu” mà không đề cập đến “cháu ruột” thì chúng ta có thể hiểu rằng các nhà làm luật đã không giới hạn trường hợp thừa kế thế vị chỉ được áp dụng cho cháu ruột như quy định về hàng thừa kế thứ hai và thứ ba. Đồng thời, trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng được thừa nhận như một nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, khi: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản” và đó cũng như một nguyên tắc của pháp luật thừa kế, khi: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Cho nên, chúng ta có thể khẳng định thừa kế thế vị bao gồm trường hợp cả con (con đẻ hay con nuôi) của con đẻ và con (con đẻ hay con nuôi) của con nuôi của người để lại di sản và thực tiễn xét xử cũng đã theo hướng cháu nuôi cũng được hưởng thừa kế thế vị.
 

>> Xem thêm: Dịch vụ khai di sản thừa kế

Tác giả: LS Tô Đình Huy

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Chat Facebook
Chat Zalo
0978845617
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây