- Khách quan: thể hiện ở việc người phạm tội không tố giác một trong số các tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự, liệt kê tại khoản 1 Điều 313. Không tố giác tội phạm là không báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Công an, Viện kiểm sát, Toà án, Uỷ ban nhân dân) về một trong các tội phạm (quy định tại Điều 313) khi các tội phạm đang chuẩn bị, đang hoặc đã thực hiện.
Tội phạm hoàn thành khi chủ thể biết rõ được người phạm tội (thuộc Điều 313) mà không tố giác. Lưu ý, tội phạm này được thực hiện bằng không hành động.
Có một điều bất hợp lý từ sự phân tích luật. Theo quy định của Điều này, khi có người đang
chuẩn bị phạm tội, chúng ta biết được mà không tố giác thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không
tố giác tội phạm nếu tội phạm đang được chuẩn bị thuộc khoản 1 Điều 313. Tuy nhiên, xem xét các tội
phạm tại khoản 1 Điều 313, có cả những tội phạm mà khi mới chuẩn bị, người phạm tội sẽ không phải
chịu trách nhiệm hình sự nếu vì lý do khách quan mà người chuẩn bị không thể tiếp tục thực hiện tội
phạm. Chẳng hạn, khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự (tội trộm cắp tài sản). Đây là tội phạm nghiêm
trọng. Vì vậy, nếu căn cứ theo Điều 17, việc chuẩn bị tội phạm này không phải chịu trách nhiệm hình
sự. Nhưng nếu người biết được mà không tố giác sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố
giác.
Đó là cách hiểu của sự phân tích luật một cách logic. Vì vậy, theo chúng tôi, tội không tố giác tội phạm nên được quy định và được hiểu theo hướng chỉ khi người phạm tội chịu trách nhiệm hình sự về một tội thì hành vi không tố giác người phạm tội tội đó mới có thể chịu trách nhiệm hình sự về hành vi không tố giác.
- Chủ quan: là lỗi cố ý. Bởi vì điều luật quy định người phạm tội dù biết rõ một tội
phạm đang chuẩn bị, đang hoặc đã thực hiện, các tội phạm này phải được liệt kê tại khoản 1
Điều 313, mà không tố giác thì mới cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khi tội phạm đó đang
chuẩn bị, hoặc đang thực hiện, người không tố giác rất khó có thể xác định được đó là tội
phạm gì, có cần phải tố giác hay không. Chính vì thế, trường hợp một tội phạm đang được
chuẩn bị, hoặc đang được thực hiện mà một người biết được đã không tố giác, chỉ cấu thành
tội phạm khi người không tố giác biết rõ đó là một trong các tội phạm được liệt kê tại khoản
1 Điều 313.
- Chủ thể: bất kỳ ai có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật định.
Tuy nhiên, nếu người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội thì chỉ chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội phạm khác đặc biệt nghiêm trọng nói tại Điều 313 (khỏan 2 Điều 22).
b. Hình phạt:
Người biết rõ một trong các tội phạm được quy định tại Điều 313 của Bộ luật này đang được chuẩn bị, đang hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc không tố giác các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1 Điều
này.
Người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt.
Chúng tôi trên mạng xã hội